Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.87 KB, 17 trang )

Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cơ sở lý luận về Ngân hàng
thương mại, hoạt động tín
dụng ngân hàng và cơ sở lý
luận về doanh nghiệp nhỏ và
vừa
Bởi:
Lê Thị Hồng Yến

Cơ sở lý luận về ngân hàng thương mại
Định nghĩa ngân hàng thương mại
Ở một số nước:
• Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính ( financial – Service Industry).[3]
• Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.[3]
• Ở Ấn Độ: NHTM là nơi nhận các khoản ký thác để cho vay, tài trợ hay đầu tư
[3]
• Ở Thổ Nhĩ Kỳ: NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích
nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ chiết khấu và
những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.[3]
Ở Việt Nam:
Theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/ QH
10) được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành thì: “ NHTM
là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan”. [1]
1/17



Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Như vậy, có thể phát biểu khái niệm về NHTM: NHTM là một DN kinh doanh tiền tệ,
là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để tạo
lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.

Chức năng của ngân hàng thương mại
Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
• Là “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những
người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người
có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
• Đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì đã đáp ứng được nhu cầu vốn để duy trì liên tục quá trình tái
sản xuất xã hội.
• Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhờ tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào
quá trình cho vay sinh lời
Chức năng quản lý ngân quỹ cho xã hội
Với chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, DN và các tổ chức khác, vừa
đảm bảo an toàn tài sản, vừa đáp ứng nhu cầu rút tiền của KH. Đồng thời NH cam kết
chi trả một mức lãi suất nhất định cho KH tùy thuộc vào loại hình gửi tiền.
Qua việc thực hiện chức năng này thì NH tạo được nguồn vốn để thực hiện chức năng
tín dụng, và còn là cơ sở để Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán.
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Để thực hiện chức năng này, NH cung cấp cho KH các phương tiện thanh toán không
sử dụng tiền mặt như: thẻ thanh toán, ủy nhiệm chi, séc,…
Trên cơ sở KH mở tài khoản tiền gởi tại NH, thay mặt cho KH, NHTM trích tiền trên

tài khoản trả cho người được hưởng hoặc nhận tiền vào tài khoản theo ủy nhiệm chi của
KH.
Hoạt động trên của NHTM mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế:
• Thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì
chức năng này đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn trong nền
kinh tế.

2/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

• Tiết giảm tiền mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
Chức năng tạo ra tiền NH trong hệ thống NH hai cấp
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh
toán trong hệ thống NH, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW. Với khoản
tiền gửi nhận được ban đầu, hệ thống NHTM thông qua quá trình cho vay bằng chuyển
khoản, kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt, có khả năng mở rộng tiền gửi không
kỳ hạn gấp nhiều lần, do đó tạo thêm “bút tệ” cho lưu thông.
Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
NH có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các DN, làm đại lý phát hành cổ phiếu,
trái khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, NH còn cung cấp dịch
vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho KH, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi
đó vào tài khoản cho KH, hoặc có khi NHTM còn thực hiện việc mua, bán các chứng
khoán cho khách hàng, thu hồi chứng khoán đến hạn…
Hơn nữa, NH còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như:
• Dịch vụ bảo quản an toàn vật tư có giá của KH. Dịch vụ bảo quản an toàn vật
có giá bao gồm: dịch vụ cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo
quản an toàn các giấy tờ có giá.

• Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tốt (Night safe): NH lắp đặt hệ thống két đặc
biệt trước cửa NH, KH thuê dịch vụ này được phép cất giữ tiền mặt hay séc để
đảm bảo an toàn vào buổi tối khi NH đã đóng cửa.
• Dịch vụ tín thác hoặc ủy thác Ngân hàng (Trust services)
Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ NH quốc tế
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các NH thực hiện trong việc tham gia
vào nghiệp vụ NH quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu và nền thương mại giữa các quốc gia.
Giống như thương mại trong nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài
trợ khác nhau, hoạt động ngoại thương bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, ủy thác,
nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du
lịch…).
Ngoài ra, các NHTM mở rộng nghiệp vụ NH quốc tế để phục vụ cho những khách hàng
nước ngoài đầu tư vào trong nước cũng như những KH nội địa muốn mở rộng hoạt động
kinh doanh ra nước ngoài.

3/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cơ sở lý luận về hoạt động tín dụng ngân hàng
Lý luận chung về tín dụng
Khái niệm và bản chất của tín dụng
Khái niệm: Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái
kinh tế, xã hội. Từ “tín dụng” có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là sự tin tưởng,
tín nhiệm, dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ vay mượn một
lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một thời gian nhất định,
ngay cả những giá trị vô hình như tiếng tăm, uy tín để đảm bảo, bảo lãnh cho sự vận
động của một lượng giá trị nào đó.

Từ đó có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau: “ Tín dụng là một phạm
trù kinh tế chỉ mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó có một bên chuyển giao
tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc
và lãi sau một thời gian nhất định” [4]
Mặc dù quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa dạng và phong phú,
nhưng nó vẫn mang ba đặc trưng cơ bản sau:
• Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng, không làm thay đổi quyền sở hữu vốn.
• Thời hạn tín dụng được xác định dựa trên sự thỏa thuận giũa các bên tham gia
quan hệ tín dụng.
• Chủ sở hữu vốn được nhận lại một phần thu nhập dưới dạng lợi tức tín dụng.
Chức năng của tín dụng
a. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình cùng thống nhất trong sự vận hành
của quan hệ tín dụng. Chức năng này làm cho tín dụng trở thành chiếc cầu nối giữa cung
– cầu vốn trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi từ cá nhân, các đơn vị kinh tế đến bổ sung kịp thời cho những cá nhân, đơn
vị thiếu vốn, nói cách khác:
• Ở khâu tập trung: Tín dụng là phương thức giúp cho các chủ thể kinh tế thu
hút được một phần nguồn vốn của xã hội dưới các hình thái tiền tệ hoặc vật
chất tạm thời nhàn rỗi.
• Ở khâu phân phối: Tín dụng đã đáp ứng được các nhu cầu về vốn cho các
DN, dân cư, các tổ chức xã hội cũng như của nhà nước. Thông qua chức năng
phân phối nguồn vốn của tín dụng các nhà tiết kiệm đầu tư có thể tận dụng vốn
4/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa


của mình một cách hợp lý và có hiệu quả cao nhất. Vì vậy, tín dụng đã thực
hiện vai trò luân chuyển vốn, kích thích mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
b. Kiểm soát các hoạt động kinh tế
Chức năng kiểm soát hoạt động kinh tế thể hiện khi chủ thể đi vay và chủ thể cho vay
thực hiện thẩm định dự án, kế hoạch kinh doanh, cũng như việc kiểm tra, kiểm soát quá
trình sử dụng vốn vay, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Như vậy, thực hiện chức năng
phản ánh kiểm soát các hoạt động kinh tế, tín dụng, một mặt, đảm bảo lợi ích thiết thực
cho các chủ thể kinh tế tham gia; mặt khác, còn mang lại lợi ích, hiệu quả cho nền kinh
tế quốc dân và toàn xã hội. Phản ánh của hệ thống tín dụng sẽ cho thấy tình trạng của
nền kinh tế để từ đó Nhà nước đề ra những giải pháp điều tiết kịp thời nhằm khắc phục
những khuyết điểm, mất cân đối, cũng như phát huy hơn nữa tính hợp lý và tiềm năng.
Điều này, cũng có nghĩa tín dụng được xem như một công cụ đòn bẩy kích thích, điều
tiết kinh tế trong cơ chế thị trường.
Tín dụng ngân hàng
Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH, một bên là các
TCTD khác với các nhà DN và cá nhân. [4]
Trong nền kinh tế thị trường, NH đóng vai trò là một TCTC trung gian, quan hệ tín dụng
NH được thể hiện qua hai khâu:
• Khâu huy động vốn: NH là một chủ thể đi vay, NH huy động tiền gửi từ các
cá nhân, DN, vay mượn qua các hợp đồng hoặc dưới hình thức phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu NH trên thị trường.
• Khâu cho vay: Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, NH cấp tín dụng lại cho
các DN và cá nhân có nhu cầu về vốn. Công cụ chủ yếu cho hoạt động tín dụng
NH là kỳ phiếu NH, các loại chứng chỉ huy động vốn.
Đối tượng của tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó
đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các DN và cá nhân. Tín dụng NH không chỉ đáp ứng
nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vât tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất và thanh toán
các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng các

xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật. Ngoài ra tín dụng
NH còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín dụng tiêu dùng của cá nhân.
Đặc điểm tín dụng ngân hàng

5/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

• Về hình thức biểu hiện: Hoạt động của tín dụng NH được thực hiện dưới hình
thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ.
• Chủ thể trong quan hệ tín dụng NH: NHTM, các TCTD đóng vai trò là chủ thể
trung tâm.
• Quá trình vận động và phát triển của tín dụng NH không hoàn toàn phù hợp với
quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: Xuất phát từ đặc điểm
tín dụng NH được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác
nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, giá trị của món tín dụng có
thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng
giai đoạn phát triển kinh tế.
Các phương thức cho vay đang áp dụng [5]
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế cũng như của các
doanh nghiệp, các NHTM áp dụng một số phương thức cho vay sau:
Cho vay từng lần
• Mỗi lần vay vốn, KH và NH thực hiện các thủ tục vay vốn, ký kết, giải ngân,
thu nợ theo từng HĐTD.
• Việc rút vốn vay có thể thực hiện một lần hay nhiều lần phù hợp với tiến độ sử
dụng vốn vay thực tế của khách hàng nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn
không được vượt quá số tiền cho vay ghi trong HĐTD.
• Với phương thức vay này, mỗi lần vay KH phải cung ứng phương án kinh

doanh cụ thể cũng như các hóa đơn, chứng từ, hợp đồng kinh tế cho NH xét
duyệt cấp tín dụng.
• Xác định thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ: với phương thức cho vay từng lần
thì thời hạn cho vay được xác định cho mỗi lần vay cụ thể và dựa trên các yếu
tố như chu kỳ ngân quỹ, dự báo lưu chuyển tiền tệ. Đối với việc định kỳ hạn trả
nợ và số tiền trả trên mỗi kỳ hạn chủ yếu dựa vào lưu chuyển tiền tệ của chính
phương án vay vốn.
Cho vay theo hạn mức tín dụng
• Áp dụng đối với KH có nhu cầu vay bổ sung vốn lưu động thường xuyên, quá
trình vay vốn, trả nợ diễn ra nhiều lần trong thời hạn cho vay của hợp đồng tín
dụng.
• Theo phương thức cho vay này, KH được NH cấp một hạn mức tín dụng duy trì
trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời hạn rút vốn, KH có thể rút
vốn và/ hoặc trả vốn nhiều lần nhưng tổng mức dư nợ vay tại bất kỳ thời điểm
nào cũng phải ≤ hạn mức tín dụng đã được cấp.
• Việc xác định hạn mức sẽ được thẩm định cụ thể thông qua các số liệu báo cáo
của các kỳ kinh doanh cũng như kế hoạch kinh doanh của từng khách hàng cụ

6/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

thể. Quá trình giải ngân và thu nợ của cho vay theo hạn mức tín dụng gắn liền
với diễn biến khoản chi – thu nợ trong hoạt động của DN, không phân biệt theo
phương án, từng thương vụ như cho vay từng lần.
Cho vay theo dự án đầu tư
• Phương thức cho vay này áp dụng đối với KH có nhu cầu vay để thực hiện các
dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời

sống. Tổng nhu cầu vốn của dự án được tài trợ cho tài sản cố định và nhu cầu
vốn lưu động của dự án.
• Thông thường để quyết định cấp tín dụng dưới dạng cho vay theo dự án, NH
phải phân tích lưu chuyển tiền tệ của phương án, hiệu quả mang lại từ dự án,
tổng chi phí của phương án, vốn đối ứng cần thiết phải có của DN…Từ đó NH
sẽ đưa ra mức đầu tư và thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ cụ thể.
• Thời hạn cho vay không quá thời hạn hoạt động của dự án. Thời hạn cho vay
bao gồm: thời hạn ân hạn ( nếu có), thời hạn trả nợ.
• Trong thời hạn rút vốn được quy định trong HĐTD, KH có thể rút vốn nhiều
lần phù hợp với tiến độ thực hiện dự án, nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn
không vượt quá số tiền cho vay ghi trên HĐTD.
Cho vay hợp vốn
• Phương thức cho vay này áp dụng khi:
◦ Số tiền cho vay tối đa của NH đối với một KH chỉ đáp ứng được một
phần nhu cầu vay vốn của KH để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án phục vụ đời sống.
◦ NH muốn phân tán rủi ro khi cho vay một dự án.
◦ Các TCTC nhỏ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao và mong
muốn thông qua cho vay hợp vốn để có cơ hội tiếp cận và học hỏi nâng
cao nghiệp vụ.
• Nhiều NH hoặc TCTD cùng cho vay đối với một dự án hoặc phương án vay
vốn của KH, trong đó có một ngân hàng hoặc một TCTD làm đầu mối dàn xếp.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
• Phương thức cho vay này áp dụng đối với KH cần dự phòng nguồn vốn tín
dụng trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm bảo khả năng chủ động
về tài chính khi thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đời sống.
• NH và KH ký hợp đồng tín dụng dự phòng, trong đó NH cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho KH vay vốn torng phạm vi hạn mức tín dụng dự phòng trong một
khoảng thời gian nhất định và KH phải trả phí cho hạn mức tín dụng dự phòng

• Trong thời hạn rút vốn được quy định trong HĐTD hạn mức dự phòng, nếu
khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn thì mỗi lần rút vốn phải ký khế ước nhận
7/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

nợ và gửi kèm theo các tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay phù hợp
với hợp đồng tín dụng hạn mức tín dụng dự phòng đã ký.
• Tổng số tiền các lần rút vốn không vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng ghi
trong HĐTD hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong từng khế
ước nhận nợ không vượt quá thời hạn cho vay quy định trong HĐTD hạn mức
dự phòng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi
Là việc cho vay mà NH thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho KH chi vượt số tiền có
trên tài khoản thanh toán của KH phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Cho vay trả góp
Khi vay vốn,NH và KH thỏa thuận số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia
ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ phụ
thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
NH chấp thuận cho KH đựơc sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh
toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng
tiền mặt là đại lý của NH. Khi cho vay phát hành phải tuân theo các quy định của Chính
phủ và NHNN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Các phương thức cho vay khác: mà pháp luật không cấm, phù hợp với pháp luật và
đặc điểm của KH vay.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng trong cho vay DN [5]

Hệ số thu nợ
***SORRY, THIS MEDIA TYPE IS NOT SUPPORTED.***
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự an toàn của đồng vốn khi cho
vay. Hệ số này biểu hiện mối quan hệ giữa doanh số thu nợ và doanh số cho vay. Nghĩa
là trên 100 đồng vốn mà ngân hàng cho vay thì sẽ có bao nhiêu đồng được thu hồi lại.Hệ
số này càng lớn thì độ an toàn càng cao và công tác thu nợ đang có sự chuyển biến tốt,
rủi ro tín dụng thấp.
Vòng quay vốn tín dụng
***SORRY, THIS MEDIA TYPE IS NOT SUPPORTED.***
8/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ở bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động kinh doanh đều tính đến hiệu quả kinh tế. Điều
đó được thể hiện qua vòng vay vốn tín dụng. Vòng quay càng nhanh sẽ đủ chi phí bù
đắp cho kỳ kinh doanh kế tiếp, do đó hiệu quả sử dụng càng cao. Chỉ tiêu này được tính
dựa trên tỷ lệ giữa doanh số thu nợ và tổng dư nợ. Nó còn dùng để phản ánh hiệu suất
sử dụng vốn của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Đây là chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Hệ số này phản ánh tình trạng nợ tại NH tốt hay xấu, công tác tín dụng được quan tâm
đến đâu và NH cần sử dụng những biện pháp nào để giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn trong
kỳ kinh doanh tiếp theo. Mặt khác, hệ số này còn cho biết nguồn vốn của ngân hàng cho
vay đến cá nhân, các tổ chức kinh tế có phát huy được hiệu quả không ?
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
***SORRY, THIS MEDIA TYPE IS NOT SUPPORTED.***
Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng đầu tư cho vay thì có bao nhiêu đồng không có khả năng

thu hồi nợ (nợ có khả năng mất vốn). Theo quy định của Ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ
này không vượt quá 3%.

Cơ sở lý luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm DNNVV
Ở Việt Nam, theo điều 3, Nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001: DNNVV
“Là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người”. Theo
điều 4 của Nghị định này, các DNNVV bao gồm các DN thành lập và hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã, các hộ sản xuất kinh
doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ – CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ
về đăng ký kinh doanh.[2]
Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương mà trong quá
trình phân loại sẽ áp dụng đồng thời cả hai mục tiêu vốn và lao động hoặc chỉ một trong
hai chỉ tiêu. Những DNNVV này được hưởng sự hỗ trợ của Chính phủ theo các chương
trình hỗ trợ về vốn, công nghệ, được giảm hoặc miễn một số loại thuế.

9/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Phân loại DNNVV
Phân loại theo mức độ tập trung
• Các thành phần kinh doanh nhỏ lẻ: Đây các thành phần kinh doanh nhỏ lẻ,
không có trụ sở hoạt động thường xuyên, họ là những người mua bán lưu động,
những người bán hàng rong. Họ là những thành phần nhỏ nhất của tổ chức kinh
doanh và hầu như luôn do một cá nhân điều khiển hoạt động.
• Các thành phần kinh doanh vừa: Đây là các thành phần kinh doanh có quy

mô vừa, họ không có đủ tiềm lực phát triển thành DN lớn, nhưng họ có một vị
trí kinh doanh cụ thể như các cửa hàng tạp hóa, các hiệu cắt tóc, các nhà thuốc
tư nhân, các cửa hàng lương thực thực phẩm…Tuy quy mô là nhỏ lẻ nhưng nó
gắn liền với cuộc sống hàng ngày của người dân, nó là một phần không thể
thiếu trong cuộc sống của người dân, do vậy loại hình kinh doanh này cũng
đóng vai trò khá quan trọng.
Phân loại theo mức độ chuyên môn
• Các DN chuyên môn: là các DN kinh doanh trong một lĩnh vực chuyên môn,
do những người có trình độ chuyên môn điều hành như các văn phòng luật sư,
các phòng khám nha khoa tư nhân, phòng mạch tư nhân của bác sĩ…đây cũng
là những thành phần kinh doanh quan trọng.
• Các DN không chuyên: là những DN kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng,
chủ yếu là hàng tiêu dùng như văn phòng phẩm, cửa hàng tạp hóa,…
Phân loại theo ngành nghề
• Các DN kinh doanh các mặt hàng truyền thống: như các DN chuyên sản
xuất và chế biến các sản phẩm mây, tre, lá, gốm…những thành phần kinh
doanh này thường được khuyến khích vì nó mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
• Các DN kinh doanh những mặt hàng công nghệ cao: như các DN trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, các công ty phát triển phần mềm, các DN sản xuất
hàng điện tử,…Mô hình các DN này ngày càng phổ biến và lan rộng vì sự bùng
phát của công nghệ thông tin hiện nay đang rất mạnh mẽ.
Vai trò DNNVV
DNNVV đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, góp phần
ổn định xã hội.
Giải quyết công ăn việc làm luôn là vấn đền bức xúc với hầu hết các nước trên thế giới.
Thất nghiệp gây ra những thiệt hại to lớn cho xã hội. Sự tồn tại và phát triển DNNVV
ở nhiều nước cho thấy, DNNVV là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề
thất nghiệp và là nguồn chủ yếu để tạo ra việc làm. Mặt khác nó thường xuyên đáp ứng
10/17



Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động làm việc trong một
DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông với một lượng rất lớn DNNVV trong
nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Nhìn chung ở các nước phát
triển cũng như các nước đang phát triển số lượng DNNVV thường chiếm 95% tổng số
DN trong một nước và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội.
Ngoài ra, DNNVV không chỉ tập trung ở các thành phố lớn mà nó có mặt khắp nơi trên
đất nước, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động khắp nơi trong cả nước, nhu
cầu lao động ở các DNNVV luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nhu cầu lao động của
nước ta hiện nay. Do vậy, có thể nói DNNVV là trụ cột kinh tế địa phương.
DNNVV cung cấp một khối lượng lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm, đóng
góp vào sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế
DNNVV với một số lượng DN đông đảo trong nền kinh tế đã tạo ra một sản lượng, thu
nhập đáng kể cho xã hội. Do đặc tính linh hoạt, mềm dẻo DNNVV kinh doanh ở rất
nhiều lĩnh vực khác nhau kể cả những ngành nghề truyền thống, do đó DNNVV có khả
năng đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và độc đáo cho người tiêu
dùng, đóng góp to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác DNNVV là những thầu phụ cho các DN lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ
tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví như
thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
DNNVV góp phần quan trọng thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối đa các
nguồn lực ở địa phương
Việc tạo lập DNNVV không cần quá nhiều vốn và có khả năng thu hồi vốn nhanh, nhất
là đối với DN nhỏ. Điều đó tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt
khác, trong quá trình hoạt động, nhiều DNNVV có thề huy động vốn vay dựa trên cơ sở
quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, việc tạo lập và phát triển DNNVV
được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền đang

phân tán và nằm im trong dân cư thành các khoản vốn đầu tư.
Với quy mô nhỏ và vừa và thường được phân tán ở hầu khắp các địa phương, vùng lãnh
thổ nên DNNVV có khả năng sử dụng hết các tiềm năng về nguồn lao động và nguyên
vật liệu sẵn có ở địa phương không thích ứng với việc sản xuất quy mô lớn, cũng như
có thể sử dụng các sản phẩm phụ của các DN lớn chưa được sử dụng đến.
Góp phần quan trọng vào việc tạo lập sự phát triển cân đối và hoàn thiện cơ cấu
kinh tế ở các vùng của đất nước
Ở các nước cũng như Việt Nam thông thường các DN lớn tập trung ở các vùng đô thị,
nơi có cơ sở hạ tầng vững chắc. Với chiều hướng đó sẽ gây ra tình trạng mất cân đối
11/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

nghiêm trọng về trình động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông
thôn và giữa các vùng của một quốc gia. Chính sự phát triển DNNVV là phương tiện
góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó
giúp cho các vùng xa xôi, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng
của địa phương phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ tạo sự dịch chuyển cơ cấu kinh
tế.
DNNVV góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu
Ngày nay, mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia được phát triển rộng
rãi đã làm cho sản phẩm của các ngành nghề truyền thống trở thành một nguồn xuất
khẩu quan trọng. Hiện nay có thể nói các làng nghề là những DNNVV ở nông thôn.
Việc phát triển DNNVV đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của các ngành
nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước, đặc biệt là ngành thủ công, mỹ nghệ.
Bên cạnh việc thúc đẩy tiềm năng của các ngành nghề truyền thống thì các DNNVV với
ưu thế năng động đã tham gia vào các ngành sản xuất kỹ thuật cao, một số doanh nghiệp
đã mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến làm hàng xuất khẩu.

Vì vậy, tỷ trọng xuất khẩu trong nển kinh tế quốc dân của các DNNVV tăng nhanh trong
những năm gần đây.
DNNVV hổ trợ đắc lực cho các DN quy mô lớn, là cơ sở để hình thành những DN,
tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường
Trong bất kỳ quốc gia nào, tất cả các nguồn lực kinh tế không thể tập trung vào các DN
có quy mô lớn bởi các DN lớn không thể bao quát tất cả thị trường. Các DNNVV với
đặc trưng nhỏ lẻ, năng động đã hỗ trợ cho các DN lớn trong việc tiếp cận thị trường, cân
đối khả năng cung cầu xã hội. Mặt khác, DNNVV là những DN cung cấp sản phẩm đầu
vào hay tham gia chế tác, kinh doanh trong quá trình hoạt động của DN lớn, chính điều
này đã tăng khả năng hoạt động của các DN trên thị trường, tạo mối kiên kết chặt chẽ
giữa các loại hình kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN nói riêng và của
nền kinh tế nói chung.
DNNVV đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Ở hầu hết các nước cũng như ở Việt Nam, các DN có quy mô lớn thường tập trung ở
các thành phố lớn và các trung tâm công nghiệp. Điều đó đã gây trạng thái mất cân đối
nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội giữa thành thị với nông
thôn và giữa các vùng miền trong một quốc gia. Chính sự phát triển DNNVV là phương
tiện quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối giữa các vùng; góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế giữa các thành phẩn kinh tế, giữa các ngành và các vùng lãnh thổ, có ý nghĩa
lớn lao trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.

12/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

DNNVV góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước
Sự phát triển tạo lập các DN mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của các DN
hiện có đều làm gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm cho xã hội. Cùng với điều đó sẽ

làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Nhà nước có thể thu thêm thuế lợi tức và
các loại thuế gián thu trên số sản phẩm, dịch vụ gia tăng và cũng có thể gia tăng hêm
nguồn thu thuế thu nhập từ các chủ dở hữu DN và những người tham gia vào sản xuất
kinh doanh của DN. Mặc dù số đóng góp của một DNNVV là không lớn nhưng với số
lượng DN đông đảo trong nền kinh tế, các DNNVV cũng đóng góp một phần đáng kể
cho Ngân sách Nhà nước.
Ưu thế và hạn chế của DNNVV
Ưu thế của DNNVV
• Linh hoạt và nhạy cảm với môi trường sản xuất kinh doanh và luôn dễ dàng
thích ứng với những biến động trên thị trường.
• Khả năng chấp nhận rủi ro cao và mạo hiểm hơn so với các DN lớn vì tính chất
vốn ít nhưng lợi nhuận cao. Chấp nhận rủi ro cao để tồn tại đòi hỏi các
DNNVV phải tìm ra những sản phẩm cá biệt hay những sản phẩm truyền
thống, tìm ra những lĩnh vực mới để đầu tư sản xuất. Chính điều này đã làm
cho DNNVV năng động hơn trên thị trường.
• Khả năng thu hồi vốn nhanh: sau khi thành lập, DNNVV sớm đi vào hoạt động
có qui mô nhỏ và vừa hàng năm có thể khấu hao 50% - 60% giá trị tài sản cố
định và thời gian thu hồi vốn không quá 2 năm. Ở các nước đang phát triển,
thời gian thu hồi vốn của DNNVV tùy thuộc lớn vào loại hình kinh doanh và
trình độ quản lý của chủ DN.
• Thành lập dễ dàng: Lý do đơn giản là DNNVV thường dễ tạo lập với một khối
lượng vốn không lớn, điều này là do hiện nay có một xu hướng khá thuận tiện
cho các DN là không phải kê khai tài sản vốn có, không phải vay mượn để làm
pháp định như ngày xưa, nên vốn bao nhiêu người ta cũng có thể thành lập DN.
Hạn chế của DNNVV
• Trình độ công nghệ, kỹ thuật lạc hậu là một đặc trưng của các DNNVV Việt
Nam. Trình độ kỹ thuật, công nghệ luôn ở mức thấp hơn so với mức trung bình
của thế giới, hơn nữa tốc độ đổi mới lại quá chậm. Nguyên nhân của vấn đề này
là do các DNNVV Việt Nam luôn bị hạn chế về vốn và bị hạn chế về việc tiếp
cận thị trường công nghệ, máy móc hiện đại thế giới thêm vào đó, hạn chế về

năng lực cán bộ và công tác nghiên cứu trong DN, nghiên cứu để ứng dụng
trong sản xuất kinh doanh…Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra
không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm

13/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

• Xét năng lực ở nhiểu địa phương còn nhiều hạn chế, năng lực cạnh tranh chưa
cao, chưa chú trọng đầu tư sản xuất hàng hóa, chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực xây dựng và thương mại. Trình độ quản lý của chủa DN còn nhiều bất cập,
số lượng chủ DN có trình độ đại học, cao đẳng còn thấp. Thêm nữa, tuy Việt
Nam có lực lượng lao động dồi dào, nhưng chủ yếu là lao động làm việc giản
đơn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề thấp, kỹ năng, tay nghề, sức khỏe hạn
chế, năng suất lao động không cao…
• Vấn đề tiếp cận các nguồn vốn là vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết định, các
DNNVV còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các khoản vay trung hạn, dài
hạn từ các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có
bảo lãnh hiếm khi dành cho các DNNVV, các DNNVV thường khó tiếp cận
với nguồn vốn tài trợ và vẫn còn tồn tại sự bảo hộ của Nhà nước đối với khu
vực DNNN vì thế đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNNVV.
• Phần lớn các DNNVV là các nhà sản xuất riêng lẽ theo hệ thống sản xuất theo
chiều dọc, ít sử dụng linh kiện của DN khác, thực hiện sản xuất tất cả các linh
kiện, phụ tùng và dịch vụ từ đào tạo nghề cho lao động đến khâu vận chuyển
hàng hóa ra thị trường. Việc đa dạng hóa, sử dụng phụ tùng của các DN khác
chỉ tập trung vào chuyên môn chính là khái niệm mới mẻ đối với DN, thậm chí
là các DN hàng đầu của VN. Chính điều này làm cản trở DN hội nhập sâu hơn

vào chuỗi giá trị toàn cầu và cạnh tranh với các sản phẩm chất lượng cao của
nước ngoài.
• Trong bối cảnh mà cạnh tranh ngày càng khốc liệt không chỉ trong nước mà
còn ở nước ngoài thì việc tự tăng cường kiến thức hội nhập, kiến thức về luật
pháp quốc tế thì các DNNVV Việt Nam cũng nên hợp tác tích cực với nhau. Có
một sự thật là các DNNVV có chung lợi ích rất “ngại” hợp tác với nhau mà lại
cạnh tranh làm cho vấn đề càng trở nên trầm trọng hơn, trong khi phía đối tác
nước ngoài thì ngược lại. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, một lối thoát cho
DNNVV là phải tìm kiếm sự hợp tác, hỗ trợ của các DN lớn dưới dạng hợp
đồng sản xuất gia công. Trên cơ sở các hợp đồng này, các DN cấp vốn, giúp đỡ
các DN nhỏ nghiên cứu…, tuy nhiên việc liên kết với các DN lớn vừa có thuận
lợi lại vừa có khó khăn nhất định vì các DN luôn ở thế yếu.
Nhu cầu vay vốn của DNNVV
Theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010 nước ta sẽ có 500.000 DNNVV[13]. Đi
cùng với con số này là một lượng vốn lớn cần được đáp ứng. Vốn, lao động, công nghệ
là những yếu tố đầu vào quan trọng nhất đối với sự phát triển của một DN. Trong đó có
thể nói vốn là một yếu tố quan trọng nhất, có vai trò tiên quyết. Vốn cho các DNNVV
lại cần thiết hơn vì hệ số phụ thuộc của hai yếu tố lao động và công nghệ là rất lớn.
Vốn bình quân ban đầu của các DNNVV là rất thấp, chủ yếu là dựa vào vốn tự có và
vốn vay lãi không từ bạn bè, họ hàng khi lập nghiệp, tín dụng ngắn hạn hầu như đóng
vai trò rất nhỏ trong sự hình thành vốn, các DN này rất khó vay được từ NHTM và các
14/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

định chế tài chính khác trừ khi họ có tài sản cầm cố, thế chấp hay những vật có giá trị
cao được các định chế tài chính chấp nhận.
Khả năng tiếp cận vốn của DNVVV

Trong thời gian qua, DNNVV đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy
nhiên, trong hoạt động kinh doanh của DN gặp rất nhiều khó khăn. Theo điều tra của
Cục Phát Triển DNNVV (Bộ kế hoạch và Đầu tư), tiến hành với sự tham gia của hơn
63.000 DN tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho kết quả là 66,95% DN thường gặp khó khăn
về tài chính; 50,62% DN gặp khó khăn trong mở rộng thị trường; 41,74% DN cho biết
gặp khó khăn trong việc mở rộng mặt bằng sản xuất; 25,22% DN gặp khó khăn về chi
phí sản xuất; 19,47% khó khăn về thiếu thông tin…[14]
Ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho DNNVV là kênh từ NH. Nhưng, cánh cửa NH
liệu có rộng mở hơn trước sự bùng nổ về số lượng DN như hiện nay? Trong những năm
gần đây, số vốn mà các NHTM cho các DNNVV vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ,
đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay.[14]
Trong một cuộc điều tra về thực trạng DNNVV do Cục Phát Triển DNNVV ( Bộ Kế
Hoạch và Đầu Tư) công bố mới đây lại cho thấy chỉ có 32,38% số DN cho biết có khả
năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các NHTM); 35,24% DN
khó tiếp cận và 32,38% DN không thể tiếp cận được.[12]
Trong khi đó, việc tiếp cận các nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn, chỉ có 48,65% số
DN có khả năng tiếp cận; 30,43% số DN khó tiếp cận và 20,92% DN không tiếp cận
được [12]. Từ đó cho thấy các DNNVV rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn
từ Ngân hàng. Vậy nguyên nhân của những khó khăn này xuất phát từ đâu?
Nguyên nhân DNNVV khó tiếp cận vốn của Ngân hàng
• Xây dựng dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn
chế: Xuất phát từ trình độ của quản lý còn thấp nên xây dựng phương án kinh
doanh hoặc dự án đầu tư dù ý tưởng kinh doanh là rất tốt nhưng nó thường lập
một cách sơ sài, khó khả thi và thiếu sức thuyết phục nên rất khó được Ngân
hàng chấp nhận để tài trợ nguồn vốn cho các DNNVV. Thêm vào đó do hạn
chế về vốn nên vốn tự có của DN tham gia vào dự án kinh doanh thường chiếm
tỷ lệ không cao.
• Các vấn đề đăng ký kinh doanh của DN: Khi đăng ký kinh doanh, các thủ tục
pháp lý liên quan đến hoạt động của DN thường phức tạp và không phải DN
nào cũng nắm rõ để thực hiện khiến cho DN thường tìm cách né tránh, không

chịu hoàn thiện, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng khi xem xét tư cách
pháp lý cho DN.

15/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Thêm vào đó, khi đăng ký kinh doanh các DNNVV thường đăng ký vốn kinh doanh
thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Nguyên nhân có thể là do chủ DN chưa ý thức hết tầm
quan trọng của vốn kinh doanh hoặc họ cố tình để né tránh thuế. Vốn góp không chính
thức và vốn huy động từ gia đình, bạn bè thì được thể hiện dưới dạng nợ. Vì thế trên báo
cáo tài chính không mấy lành mạnh. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là Ngân hàng không
thề cho vay nhiều được dù DN có thể chứng minh nhu cầu vốn cũng như vốn sở hữu
tham gia là rất lớn.
• Về tài sản đảm bảo: Phần lớn các DNNVV khi vay vốn của Ngân hàng
thường gặp phải vướng mắc là thiếu tài sản đảm bảo, trong khi đó DN không
đủ uy tín để được vay tín chấp. Các DN thường được giao đất dưới dạng thuê
có thời hạn. Do vậy, nếu sử dụng giá thuê đất làm cơ sở cho vay thì vay vốn rất
thấp. Thêm vào đó, một số DN còn dùng vốn tự có để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, nhà xưởng,… nhưng mang tính tự phát nên chưa được cấp phép. Vì thế
với tài sản này không thể sử dụng làm tài sản đảm bảo được.
Cùng với đó, khi định giá tài sản đảm bảo các Ngân hàng thường định giá thấp hơn giá
trị thật của tài sản rất nhiều. Và khi cho vay Ngân hàng chỉ cho vay trên khoảng 70% giá
trị tài sản thế chấp. Nên thực tế DN chỉ vay được khoảng 50% giá trị tài sản của mình vì
thế không đáp ứng được nhu cầu vốn của DN.
• Kế toán trong DNNVV: Đa số các DNNVV chưa chấp hành tốt chế độ kế toán
theo quy định. Vì nhiều lý do khác nhau mà các DN thường không phản ánh
chính xác tình hình tài chính và tình hình hoạt động kinh doanh của DN, gây

khó khăn cho DN khi thẩm định để ra quyết định cho vay. Và các báo cáo tài
chính của DNNVV thường không được kiểm toán nên không gây được niềm
tin tuyệt đối của Ngân hàng.
• Trình độ công nghệ: Đa số các DNNVV đều có trình độ công nghệ lạc hậu
nên các sản phẩm tạo ra có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Thêm vào đó,
năng lực quản lý và trình độ nguồn lực kém, từ những đặc điểm này làm cho
Ngân hàng không mặn mà trong cho vay đối với các DNNVV.
• Ngoài ra, hầu hết các cơ sở sản xuất manh mún, phân tán. Hoạt động kinh
doanh chủ yếu chạy theo thương vụ, chạy theo phong trào mà không có chiến
lược phát triển nên dễ đổ bể. Các DN thường bán hàng không có hợp đồng kinh
tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn bán hàng. Do đó, Ngân hàng
không có cơ sở để đánh giá và quyết định việc cho vay. Nhiều DN luôn ngần
ngại minh bạch tình hình tài chính kinh doanh của mình cho Ngân hàng, không
quen với thủ tục và cách thức tiếp cận các nguồn vốn của Ngân hàng.

16/17


Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về
doanh nghiệp nhỏ và vừa

Sự cần thiết phát triển tín dụng đối với DNNVV
Với tất cả những vai trò đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng DNNVV là một bộ phận
không thể thiếu, góp phần tạo nên một nền kinh tế đang phát triển nhanh, sôi động tại
Việt Nam.
Thật vậy, theo Hiệp hội DNNVV, trong số khoảng 350.000 DN tại Việt Nam, DNNVV
chiếm gần 95% với số vốn đăng ký hơn 1.415 nghìn tỷ đồng. DNNVV có vai trò quan
trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và đang phát huy tác dụng tốt. Đã có hơn
260.000 DN đang hoạt động có hiệu quả, trong đó gần 75% DN hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ; số DN còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. DNNVV đã đóng góp

đến hơn 40% GDP, giải quyết việc làm khoảng 50% lao động xã hội [10]. Với các lợi
thế như phát triển ở mọi vùng miền của đất nước, mọi ngành kinh tế; là phương thức
hữu hiệu để huy động nguồn lực từ người dân cho phát triển kinh tế; tạo nhiều việc làm
và thu nhập; DNNVV còn có vai trò quan trọng trong việc thay đổi cấu trúc và giúp
nền kinh tế trở nên linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động của kinh tế toàn cầu.
Mặc dù trong giai đoạn hội nhập, các DN có quy mô nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn, song
trong một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì việc phát triển lực lượng này
là rất quan trọng. Và theo định hướng của Chính phủ, đến 2010, cả nước sẽ có khoảng
500.000 DNNVV. [13]
Tuy nhiên, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn hiện nay, kinh tế thế giới khủng hoảng tác
động rất lớn đến kinh tế Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng. Khi Việt Nam vừa
gia nhập WTO, rất nhiều chuyên gia lo ngại rằng DNNVV sẽ rất khó đứng vững, thậm
chí phá sản, bởi với quy mô nhỏ và vừa của mình, nguồn lực của họ sẽ không đủ mạnh
để chống lại sự xâm nhập hàng loạt của các doanh nghiệp lớn mạnh của nước ngoài ồ
ạt vào Việt Nam. Còn trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu hiện nay, các DNNVV một
lần nữa đối mặt với khó khăn. Thách thức lớn nhất hiện nay đối với các DNNVV là làm
thế nào trang bị cho mình nguồn lực tài chính vững chắc để vượt qua thời kỳ này, tiếp
tục phát triển. Đây cũng là lúc các ngân hàng phát huy hết vai trò của mình. Các ngân
hàng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp các DNNVV vượt qua giai đoạn này để
có thể tiếp tục phát triển, vì lợi ích của chính họ và vì sự tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam. Do đó, sự hỗ trợ của Ngân hàng trong lúc này chính là cứu cánh lớn nhất và gần
như là duy nhất cho các DNNVV. Do đó phát triển tín dụng đối với DNNVV đặt ra hiện
nay là hết sức cần thiết.

17/17



×