Lời mở đầu...........................................................................................................................3
I. Những vấn đề lý luận chung.............................................................................................4
1. Lạm phát.......................................................................................................................4
1.1. Những vấn đề chung về lạm phát..........................................................................4
1.1.1 Khái niệm lạm phát.........................................................................................4
1.1.1. Đo lường lạm phát..........................................................................................4
1.1.2. Phân loại lạm phát..........................................................................................5
1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát................................................................................6
1.2.1. Lạm phát do tiền tệ.........................................................................................6
1.2.2. Lạm phát do chi phí........................................................................................9
1.2.3. Lạm phát do nhu cầu....................................................................................10
1.2.4. Một số nguyên nhân khác.............................................................................11
2. Tác động của lạm phát tới nền kinh tế........................................................................12
2.1. Lạm phát tác động đến lãi suất............................................................................12
2.2. Lạm phát và thu nhập..........................................................................................12
2.2.1. Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập thực tế.....................................................12
2.2.2. Lạm phát khiến phân phối thu nhập khơng bình đẳng.................................13
2.3. Tác động của lạm phát đối với công ăn việc làm và ngân sách nhà nước...........13
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NÊN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2016................................................................................14
1. Thực trạng và nguyên nhân lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2014-2016................14
1.1. Năm 2014............................................................................................................16
1.1.1. Thực trạng....................................................................................................16
1.1.2. Nguyên nhân.................................................................................................18
1.2. Năm 2015............................................................................................................19
1.2.1. Thực trạng....................................................................................................19
1.2.2. Nguyên nhân.................................................................................................20
1.3. Năm 2016............................................................................................................21
1.3.1. Thực trạng....................................................................................................21
1.3.2. Nguyên nhân.................................................................................................22
2. Tác động của lạm phát tới nền kinh tế giai đoạn 2014-2016.....................................23
2.1. Tác động tích cực................................................................................................23
2.2. Tác động tiêu cực................................................................................................24
III. Biện pháp khắc phục và phương hướng kiềm chế lạm phát trong thời gian tới...........25
1. Giải pháp trực tiếp......................................................................................................25
1.1. Các giải pháp tiền tệ............................................................................................25
1.2. Giải pháp về NSNN.............................................................................................26
1.3. Giải pháp về điều hành cung cầu thị trường........................................................26
2. Các biện pháp mang tính phương hướng chiến lược..................................................27
Lời kết................................................................................................................................28
Tài liệu tham khảo..............................................................................................................29
Lời mở đầu
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt
Nam, lạm phát luôn là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với việc phát
triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của
một quốc gia nhưng cũng là một trong những trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển
đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường. Đối
với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
sự điều tiết của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế theo xu hướng cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chắt lọc, kế thừa những thành
tựu và khắc phục những tồn tại đã qua và lạm phát là vấn đề cấp thiết. Vì vậy, việc
nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết
sức cần thiết và có vai trị to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Có thể
thấy lạm phát là một vấn đề day dẳng và gây tác động đến nền kinh tế của Việt Nam. Việc
hiểu nguyên nhân cốt lõi của lạm phát, tình hình lạm phát và đưa ra những giải pháp xử lý
đúng đắn, hiệu quả sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc điều hành các chính sách kinh tế
vĩ mơ. Đề án này sẽ giúp tìm hiểu về thực trạng của lạm phát Việt Nam giai đoạn vừa
qua, từ 2014-2016 từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề này và rút ra
các giải pháp.
I. Những vấn đề lý luận chung
1. Lạm phát
1.1. Những vấn đề chung về lạm phát
1.1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này
khơng nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời tăng lên theo
cùng một tỉ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá
của một số hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh
để đảm bảo cho mức giá chung tăng.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong
bối cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ
hơn. Hay nói cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều
tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa nhất định.
Theo quan điểm của Milton Friedman: “Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên
kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh tồn tại trong một thời gian dài”.Đây là quan
điểm khái quát nhất về lạm phát và được nhiều nhà kinh tế đồng ý.
Đặc trưng của lạm phát:
Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức.
Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy.
Sự phân phối lại qua giá cả.
Sự bất ổn về kinh tế - xã hội
1.1.1. Đo lường lạm phát
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trog một thời kì nhất định, các
nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của
mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kì t được tính theo cơng thức sau:
π
t=
Pt −P t−1
×100 %
Pt−1
Trong đó:
πt : tỷ lệ lạm phát của thời kì t ( có thể là tháng, q, hoặc năm)
Pt : mức giá của thời kì t
Pt-1 : mức giá của thời kì trước đó
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử
dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá chung. Như chúng ta đã biết người ta thường sử
dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là
xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra
thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu cơng bố chính thức về lạm phát trên tồn tế giới
đều được tính trên cơ sở CPI.
1.1.2. Phân loại lạm phát
a, Định lượng
Việc phân loại tỷ lệ lạm phát dựa trên cơ sở định lượng, do biểu hiện đặc trưng của
lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế thường dựa vào tỉ lệ tăng
giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau:
Lạm phát vừa phải(mild -inflation):
Là lạm phát ở mức độ thấp còn gọi là lạm phát một con số. Biểu hiện ở giá cả hàng
hóa tăng chậm trong khoảng 10% trở lại (<10%). Trong đó tổng số tiền mất giá không
lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại lạm phát này thường được các
nước có nền kinh tế phát triển duy trì như một chất xúc giác cho nền kinh tế phát triển.
Lạm phát này tương đối ổn định, do đó mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao
dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính bằng tiền vì họ tin rằng giá và chi phí của hàng hóa
họ mua và bán sẽ không đi chệch quá xa.
Lạm phát cao (lạm phát phi mã) (strato – inflation):
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hằng năm (từ
10% - 99% một năm). Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế -xã
hội.
Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cớ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện
cải cách. Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị mất giá rất nhanh, cho
nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người
có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các
ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch lớn và tích trữ của cải.
Siêu lạm phát (hyper - inslation):
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở
lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc.Nếu trong có điều gì tốt khi nền kinh
tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như bệnh ung thư
gây chết người, có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giới
đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 - 1923, ở Nga sau cách
mạng tháng Mười, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai…
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ
xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã
có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự
căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc
khủng hoảng nợ của thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm
phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền,
điều này thường do sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Mà một khi
lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên khơng kiểm sốt
được.
b, Định tính
Ngồi việc phân loại dựa trên định lượng thì người ta cũng có một số cách phân loại
lạm phát dựa trên yếu tố định tính như sau:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng: khi mà tỉ lệ lạm phát tăng lên tương ứng với thu nhập, do vậy
lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: khi mà tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập.
Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất.
Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đốn trước: đó là lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với
tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đốn trước
được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình
hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát
này.
Lạm phát bất thường: là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất
hiện. Do vậy, cuộc sống và thói quen mọi người chưa thích nghi ngay dược do đó trong
thực tế, nó gây ra các cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân cho
chính quyền đương đại.
1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.2.1. Lạm phát do tiền tệ
1.2.1.1 Lý thuyết về lượng của tiền tệ
Học thuyết của Irving Fisher đã chỉ ra mối liên hệ giữa tổng lượng tiền lưu hành (M)
với tổng số chi tiêu để mua hàng hoá thành phẩm và dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế (PY - trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) bằng phương trình trao đổi:
MV = PY
Với V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ (tức là số lần trung bình một năm mà một
đơn vị tiền tệ được chi dùng để mua tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong
nền kinh tế vào năm đó).
Theo Irving Fisher, tốc độ V phụ thuộc vào phương thức thanh toán (dùng tiền mặt,
hay dùng tiền tín dụng, hay ghi sổ nợ v.v...) sử dụng trong các giao dịch. Thói quen thanh
tốn này thay đổi một cách chậm chạp qua thời gian cho nên tốc độ V thông thường sẽ ổn
định trong thời gian ngắn. Mặt khác, các nhà kinh tế cổ điển (bao gồm cả Irving Fisher)
cho rằng tiền lương và giá cả là hoàn toàn linh hoạt nên mức tổng sản phẩm được sản xuất
ra (Y) thường ở mức công ăn việc làm đầy đủ (mức sản lượng tiềm năng) cho nên có thể
coi Y là khơng thay đổi trong thời gian ngắn. Kết quả là khi khối lượng tiền lưu hành (M)
tăng lên, vì Y và V khơng thay đổi, nên mức giá (P) cũng tăng lên với tỷ lệ tương ứng.
Như vậy, theo học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển thì những sự vận động trong mức giá cả
chỉ là kết quả của những thay đổi trong số lượng tiền tệ.
Một cách diễn đạt mới của quan hệ về lượng được gọi là phương trình Cambrige –
gắn với cơng trình của Marshall :
M = k.P.Y
Trong đó
M : tổng lượng tiền lưu hành
Y : thu nhập thực tế của quốc gia
P : mức giá cả
k : hệ số biểu thị tỷ số giữa khối lượng tiền tệ và thu nhập, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chứ
không đơn thuần là một hệ số kĩ thuật.
Sự tiếp cận này là lý thuyết về lượng với ý nghĩa độ lớn của khối lượng tiền tệ quyết
định giá trị của thu nhập quốc gia, nhưng nếu nó tìm cách đưa tiền tệ vào nền kinh tế thì
lại bỏa qua các quan hệ giữa cung và cầu tiền tệ.
1.2.1.2 Cung ứng tiền tệ và lạm phát
Các quan điểm về lạm phát
Quan điểm của các nhà tiền tệ
Xét sự gia tăng liên tục trong cung tiền. Ban đầu nền kinh tế nằm tại điểm 1 là giao
điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1, tại mức sản lượng tự nhiên Y*
và mức giá P1. Cung tiền tăng dẫn tới tổng cầu tăng, đường AD dịch sang phải tới AD2.
Trong ngắn hạn nền kinh tế chuyển tới điểm 1’, sản lượng tăng lên trên mức tự nhiên tới
Y’. Song do thất nghiệp giảm xuống dưới mức tự nhiên nên chi phí nhân công tăng kéo
theo đường tổng cung dịch trái, tới AS2 và nền kinh tế trở về mức sản lượng tự nhiên Y*
trên đường tổng cung dài hạn. Trạng thái cân bằng mới là điểm 2 có mức giá tăng tới P2.
Nếu cung tiền lại tăng vào năm tới, đường tổng cầu lại dịch chuyển sang AD3 và đường
tổng cung dịch chuyển tới AS3. Khi đó nền kinh tế chuyển tới điểm 2’ rồi tới điểm 3 với
mức giá tăng lên P3. Quá trình cứ diễn ra như vậy, hệ quả là giá cả tăng liên tục cùng với
sự gia tăng của cung tiền.
Theo quan điểm của các nhà tiền tệ, tiền là yếu tố DUY NHẤT gây ra lạm phát.
P
P3
P2
P1
AS3
AS2
3
2’
AS1
2
AD3
1’
1
AD2
AD1
Y* Y1
Y
Quan điểm của Keynes:
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với mức sản lượng tự nhiên Y* và mức giá P1. Giả sử
chính phủ thực hiện chính sách tài khố mở rộng bằng cách tăng chi tiêu hoặc giảm thuế.
Hệ quả là đường tổng cầu dịch chuyển sang phải tới AD2, nền kinh tế chuyển tới điểm 1’
và sản lượng tăng cao hơn mức tiềm năng. Thất nghiệp giảm làm tăng chi phí nhân cơng
nên tổng cung giảm, đường AS dịch chuyển sang trái tới vị trí mới AS2, giá cả tăng lên
P2. Như vậy giá cả chỉ tăng một lần rồi giữ ngun ở mức đó => Khơng có lạm phát xảy
ra. Song nếu chính phủ tăng chi tiêu liên tục thì chúng ta có thể kì vọng sẽ có sự gia tăng
liên tục của mức giá, nhưng điều này trong thực tế gần như là bất khả thi. Các ràng buộc
về ngân sách do Quốc hội đặt ra sẽ ngăn cản chính phủ chi tiêu quá nhiều. Với chính sách
giảm thuế cũng vậy, nếu thuế chỉ giảm một lần thì mức giá cũng chỉ tăng một lần rồi giữ
nguyên ở đó, nền kinh tế khơng được gọi là có lạm phát. Cịn nếu giảm thuế liên tục để
kích lạm phát thì ln có một ngưỡng tại 0% là giới hạn cuối cùng của chính sách, khiến
nó khơng thể diễn ra lâu dài để duy trì lạm phát. Tóm lại chính sách tài khố của chính
phủ khơng thể tạo ra được lạm phát trong dài hạn. Và đúng theo quan điểm của các nhà
tiền tệ, lạm phát chỉ được gây ra bởi tốc độ tăng nhanh của lượng tiền cung ứng, tức do
chính sách tiền tệ chi phối. Vì thế Friedman mới khẳng định: Lạm phát lúc nào và ở đâu
cũng là hiện tượng tiền tệ.
P
AS2
P2
2
AS1
1’
P1
1
AD2
AD1
Y*
Y1
Y
1.2.2. Lạm phát do chi phí
1.2.2.1 Quan điểm về lạm phát do chi phí
Theo ý kiến lạm phát do nguyên nhân chi phí sản xuất, lạm phát phát sinh từ chỗ
tăng tiền chi cho các yếu tố sản xuất cao hơn khả năng sản xuất của chúng. Sự tăng đó đã
kích động các chủ doanh nghiệp tăng giá sản phẩm của họ (hàng hóa hoặc dịch vụ) bán
cho các doanh nghiệp, gia đình. Những người này lại có xu hướng tăng giá của họ hoặc
yêu cầu tăng tiền lương. Cứ thế từ thời kì này qua thời kì khác, quá trình lạm phát được
hình thành và duy trì. Do đó, nguồn góc của lạm phát là ở trong q trình hình thành chi
phí và cung cấp.
1.2.2.2 Lạm phát chi phí đẩy
Nền kinh tế ban đầu nằm tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và
đường tổng cung AS1, sản lượng ở mức tiềm năng và giá cả đang là P1. Giả sử người lao
động đình cơng địi tăng lương nhằm cải thiện mức lương thực tế theo họ là quá thấp =>
đường tổng cung AS dịch chuyển sang trái tới AS2. Nếu chính sách tài khố và tiền tệ của
chính phủ và NHTW khơng đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ là giao của AS2 và
AD1, sản lượng giảm xuống Y1 thấp hơn Y*, giá cả tăng lên P1’. Do sản lượng sụt giảm
và sự gia tăng thất nghiệp từ đó nên các nhà hoạch định chính sách chủ động sẽ thực hiện
các biện pháp để đẩy đường AD tới vị trí AD2. Qua đó làm sản lượng và thất nghiệp trở
lại mức tự nhiên nhưng giá cả tăng tiếp tới P2. Sau khi thoả mãn nhu cầu của một bộ phận
cơng nhân địi tăng lương, những người lao động có thể được đà lấn tới hoặc lơi kéo thêm
những nhóm cơng nhân khác tham gia đình cơng địi mức thù lao phải cao hơn nữa. Kết
quả là đường tổng cung dịch chuyển lại sang trái tới AS3, nền kinh tế chuyển tới điểm 2’
và thất nghiệp lại tăng lên. Khi đó chính sách kích cầu lại được áp dụng lại lần nữa nhằm
đẩy đường tổng cầu tới vị trí AD3 và nền kinh tế trở về mức tồn dụng nhân cơng, tuy
nhiên giá cả đã tăng tới P3. Quá trình cứ tiếp diễn như vậy ta sẽ có lạm phát chi phí đẩy.
P
3’
AS3
3
P3
P2’
AS2
2’
AS1
P2
2
P1’
AD3
1’
P1
AD2
1
AD1
Y1
Y*
Y
Nhận xét là lạm phát chi phí đẩy chỉ có thể xảy ra khi lượng cầu tăng liên tục. Tuy
nhiên do những giới hạn của chính sách tài khố nên để theo đuổi mục tiêu công ăn việc
làm và vô hình trung gây ra lạm phát như trên, địi hỏi chính sách tiền tệ phải vào cuộc
với khả năng cung ứng tiền là vơ hạn.
Theo cách phân tích của phái Keynes, sự di chuyển đầu tiên của đường tổng cầu đến
AD2 chắc chắn có thể đạt được bằng sự tăng lên “một đợt” của chi tiêu chính phủ hoặc
giảm xuống “một đợt” của thuế. Song vì giới hạn của chi tiêu và giảm thuế, chính sách
này gây ra những tác động làm tăng tổng cầu trong thời gian ngắn, việc dịch chuyển liên
tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền tệ. Do vậy lạm phát chi phí đẩy
cũng có thể coi là một hiện tượng tiền tệ bởi nếu khơng có các chính sách điều hòa, được
các nhà chức trách tiền tệ đồng ý một mức tăng trưởng tiền tệ cao hơn, nó sẽ khơng xảy
ra.
1.2.3. Lạm phát do nhu cầu
1.2.3.1 Tiền tệ và nhu cầu quá mức
Quan hệ tiền tệ cà nhu cầu quá mức đặc biệt chặt chẽ khi thừa nhận định luật Say cổ
xưa. Theo định luật này, sự cung cấp sản phẩm tạo ra nhu cầu chính nó, nghĩa là nhu cầu
tổng thể được tạo nên bở toàn bộ thu nhập được phân phối vào dịp sản xuất. Nhu cầu quá
mức chỉ có thể có do sự tăng khơng kiểm sốt được các phương tiện chi trả trong tay
những người có nhu cầu.
Tính đặc thù của quan điểm giải thích lạm phát do nhu cầu, so với quan điểm của
phái tiền tệ là ở chỗ việc phát hành tiền tệ chỉ dẫn đến lạm phát trong trường hợp bộ máy
sản xuất không thể đáp ứng mức tăng của nhu cầu. Thế là hiệu chỉnh cung cầu được thực
hiện bằng giá cả thay cho số lượng. Lạm phát xủa ra khi nhu cầu q mực lại nảy sinh và
khơng có yếu tố nào (năng lực sản xuất tăng, tuyển thợ mới, thêm nguyên liệu) can thiệp
vào để làm tăng mức cung ứng tổng thể đủ để thỏa mãn nhu cầu.
1.2.3.2 Lạm phát do cầu kéo
Trong chính sách kinh tế vĩ mơ, Chính phủ vì muốn đạt được mục đích của mình
nên phải áp dụng một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ cao và xảy ra lạm phát. Chính các nhà
hoạch định theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu di chuyển ra dẫn đến lạm phát
cầu kéo.
Ngay cả khi công ăn việc làm đầy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại cho những
xung đột trên thị trường. Vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp khi có cơng ăn việc làm ổn định, tức là
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ lớn hơn 0. Sự ấn định tỷ lệ thất nghiệp với mức tự nhiên dẫn
tới diễn biễn theo phân tích sau đây:
P
AS3
AS2
3
P3
P2
2
P1
1
2’
AS1
AD3
1’
AD2
AD1
Y*
Y1
Y
Nền kinh tế ban đầu ở điểm 1, tại mức sản lượng tự nhiên. Nhà hoạch định chính
sách theo đuổi mục tiêu việc làm cao, đặt ra mức phấn đấu là tỉ lệ thất nghiệp thấp hơn
mức tự nhiên. Để đạt được điều này họ thực hiện chính sách làm tăng tổng cầu tới AD2,
chuyển nền kinh tế tới điểm 1’. Do tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống dưới mức toàn dụng
khiến chi phí nhân cơng q cao, doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất,đẩy đường AS sang
trái tới AS2, nền kinh tế sang tới điểm 2 có mức giá P2 cao hơn. Do tỉ lệ thất nghiệp lại
quay trở về mức ban đầu nên cách nhà hoạch định lại tiếp tục chính sách kích cầu, đẩy
đường AD sang phải tới AD3. Q trình sau đó diễn ra tương tự, nền kinh tế tới điểm 2’
rồi tới điểm 3 có mức giá cao hơn nữa. Kết quả là giá cả ngày càng tăng => có lạm phát.
Nhưng cần lưu ý là chính sách tài khố khơng đủ đủ “độ bền” để duy trì chính sách mở
rộng liên tục nhằm đẩy đường tổng cầu sang phải. Thay vào đó họ phải nhờ tới NHTW
bằng cách liên tục tăng cung tiền.
So với lạm phát do chi phí đẩy, cả hai loại lạm phát đều được gây ra bởi tốc độ tăng
cung tiền ngày càng cao và do chính phủ theo đuổi mục tiêu tỉ lệ thất nghiệp thấp nên
trong thực tế rất khó để phân biệt. Muốn phân biệt được hai loại lạm phát này ta cần lưu
ý: lạm phát cầu kéo gắn với thời kì thất nghiệp thấp hơn mức tự nhiên, cịn lạm phát chi
phí đẩy gắn với thời kì thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên.
1.2.4. Một số nguyên nhân khác
1.2.4.1 Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Khi ngân sách của 1 quốc gia thâm hụt, nhà nước sẽ phát hành tiền hoặc trái phiếu
chính phủ để cải thiện sự thâm hụt đó.
Ở các nước đang phát triển, thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu
chính phủ đề bù đắp thâm hụt NSNN là điều khó thực hiện. Do đó biện pháp in tiền là khả
dĩ hơn, từ đó làm tăng trực tiếp cơ số tiền tệ do đó tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên
cao và tăng tỷ lệ lạm phát. Khi thâm hụt diễn ra dai dẳng thì lạm phát sẽ kéo dài. Nếu
thâm hụt trong thời gian ngắn thì lạm phát sẽ không mở rộng, chỉ gây nên tăng giá trong
một thời gian nhất định.
Với các nước có nền kinh tế phát triển, giải pháp cải thiện NSNN thường là phát
hành trái phiếu CP ra thị trường tài chính để vay vốn. Một lượng lớn trái phiếu bán ra sẽ
bù vào phần thâm hụt NS. Tuy nhiên, nếu chính phủ cứ tiếp tục bán trái phiếu ra thị
trường, cầu về vốn vay sẽ tăng dẫn tới lãi suất sẽ tăng lên. Để hạn chế điều này các
NHTW sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, dẫn tới cung tiền tệ tăng lên.
Từ đó có thể thấy, nếu thâm hụt NSNN ở mức cao và kéo dài thì nó sẽ là cơ sở để
tăng cung ứng tiền tệ, dẫn tới lạm phát.
1.2.4.2 Tỷ giá hối đoái và lạm phát
Tỷ giá thay đổi biểu hiện sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ cũng là nguyên
nhân gây ra lạm phát. Cụ thê, nội tệ mất giá khiến các nhà sản xuất trong nước muốn giá
hàng hóa tăng lên tương ứng theo sự tăng lên của tỷ giá. Bên cạnh đó, tỷ giá tăng cũng
khiến giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí ngun liệu tăng
lên lại giống như lạm phát chi phí đẩy. Việc này làm tăng giá rất nhiều tới các hàng hóa
khác, đặc biệt ở các hàng hóa sử dụng nguyên liệu là hàng nhập khẩu, hay những ngành
liên hệ với nhau dưới dạng sản phẩm ngành này lại là nguyên liệu của ngành kia.
2. Tác động của lạm phát tới nền kinh tế
2.1. Lạm phát tác động đến lãi suất
Khi lạm phát tác động đến các mặt trong nền kinh tế, thì lãi suất là một trong những
yếu tố chịu ảnh hưởng đáng kể nhất. Cụ thể, với hệ thống ngân hàng, để duy trì và ổn định
sự hoạt động của mình, nó ln cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản
có, tức là luôn cần giữ cho lãi suất thực ổn định.
Theo công thức : Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Chính vì vậy, khi tỷ lệ lạm phát tăng lên, muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh
nghĩa cũng phải tăng theo. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn tới các hậu quả về thất
nghiệp và suy thoái kinh tế.
2.2. Lạm phát và thu nhập
2.2.1. Lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập thực tế
Khi lạm phát xảy ra và thu nhập danh nghĩa khơng đổi, thì nó sẽ khiến cho thu nhập
thực tế của người dân giảm xuống. Rõ hơn ta xét một ví dụ, một người có mức thu nhập
là 3 triệu đồng/ tháng tức là anh ta sẽ có thể mua được 60 bát phở với giá 50.000đ/bát.
Một năm sau do lạm phát ở mức 20%, một bát phở lúc này có giá 50.000 x 1,2 =
60.000đ/bát. Với tiền thu nhập vẫn không đổi, 1 tháng giờ đây tối đa anh ta chỉ mua được
50 bát phở.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị của những sản phẩm khơng có lãi (tiền mặt),
mà nó cũng làm hao mịn giá trị của những sản phẩm có lãi, nói cách khác, nó giảm thu
nhập từ các khoản lãi, lợi tức. Điều đó xảy ra do chính sách thuế của nhà nước dựa trên
thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù
vào tỷ lệ lạm phát, tuy nhiên nó lại khiến cho số thuế mà người cho vay phải nộp tăng lên
(dù thuế suất khơng đổi). Nó dẫn tới việc thu nhập thực (sau thuế và tính cả yếu tố lạm
phát) vẫn bị giảm đi. Điều này gây nên nạn thất nghiệp, suy thoái kinh tế. Nghiêm trọng
hơn, niềm tin của người dân đối với chính phủ sẽ lung lay, gây nên các hậu quả khó
lường.
2.2.2. Lạm phát khiến phân phối thu nhập khơng bình đẳng
Nếu nhìn nhận thực tế thì khi lạm phát xảy ra, người bị thiệt hại là người làm công
ăn lương, những người cho vay là những người bị thiệt hại, cịn những người có tài sản,
những người đang vay nợ thì lại có lợi. Điều này dẫn dến sự phân phối thu nhập khơng
bình đẳng giữa nh, những người đi vay và người cho vay, giữa công nhân và người th
họ. Hơn thế nữa, nó cịn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để
đầu cơ kiếm lợi. Do vậy, nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế càng tăng lên, đẩy lãi suất lên
cao. Và để tránh thiệt hại đáng tiếc xảy ra thì phải sử dụng biện pháp gì. Điều đó đã được
các nhà kinh tế nghiên cứu và xác định rằng lãi suất phải có sự điều chỉnh sao cho phù
hợp với mức lạm phát.
Khi có dự báo về lạm phát, những người nhạy cảm với kinh tế sẽ ngầm tích trữ
vàng, đầu tư vào bất động sản và chờ cho lạm phát xảy ra sẽ giàu lên nhanh chóng. Trong
trường hợp lạm phát tăng cao, người thừa tiền và giàu có vơ vét hàng hóa và thu gom tài
sản. Khi ấy, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan
hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường, dẫn tới giá hàng hóa cũng ở mức cao hơn. Cịn
những người làm cơng ăn lương thì thiệt hại do thu nhập thực tế bị giảm đi như đã phân
tích ở trên, sức mua của thu nhập của họ bị giảm đi trông thấy trong khi những người đầu
cơ tích trữ lại giàu lên nhanh chóng. Lạm phát tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, mức
sống giữa người nghèo và người giàu.
2.3. Tác động của lạm phát đối với công ăn việc làm và ngân sách nhà nước
Khi lạm phát xảy ra trong nền kinh tế thị trường ở mức hợp lý, nó sẽ tác động làm
tăng trưởng nền kinh tế và tạo ra công ăn việc làm. Còn đối với nền kinh tế bao cấp thì lại
hồn tồn ngược lại, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do Nhà nước quy định, nên sự thúc
đẩy của lạm phát với gia tăng sản xuất là không có.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng lớn lên một
cách nhanh chóng, nó tạo có hội cho các nhà đầu tư muốn đầu tư thêm, công ăn việc làm
cũng được tạo ra. Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và vốn bị bỏ không, không sử
dụng hết năng lực của nền kinh tế. Lúc này các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác
sẽ dễ dàng thu lại được, nhưng đối với các ngân hàng tư nhân thì họ sẽ ít bị ảnh hưởng mà
người chịu thiệt hại là những người gửi tiền. Còn nếu ngân hàng nhà nước, hoạt động
bằng vốn ngân sách thì thực sự là một nguy cơ khi có lạm phát xảy ra, vốn được cấp sẽ bị
hao mịn, càng bổ sung thêm vốn thì tốc độ lạm phát ngày càng tăng lên nhanh. Tất nhiên
lạm phát tăng lên thì có khuynh hướng tăng tiền lương và chi phí sản xuất. Những khoản
chi tiêu cơng thường tăng nhiều và nhanh hơn những khoản thu nhập về thuế. Sự mất cân
đối đó của ngân sách nhà nước làm tăng khối lượng tiền tệ do những đợt “bơm tiền” do
kho bạc thực hiện. Đối với chế độ bao cấp, do kinh tế phát triển không phù hợp với mức
tăng của lạm phát nên tài sản quốc gia sẽ bị mất mát đáng kể và nếu nhà nước sử dụng các
biện pháp nhằm đẩy lùi lạm phát thì lập tức nhiều khoản tiền cho vay của nhà nước sẽ khó
được hồn trả. Mặc dù nhà nước cũng thất, qua tính tốn thực tế thì số tiền để trả nợ trong
nước có nhỏ dần đi. Nhưng tầm quan trọng của sự giảm nhẹ này tùy thuộc vào số tiền nợ
so với các khoản phải thu và ngân sách. Và lạm phát càng kéo dài thì số nợ ngày càng bị
cán mỏng thêm.
Qua đó, có thể nói lạm phát lúc đầu mang lại thu nhập cho ngân sách qua cơ chế
phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân. Sau đó, sự ảnh hưởng do lạm phát đi quá xa
mà những nguồn thu của ngân sách, phần lớn là thuế, ngày càng bị giảm đi do sản xuất
sút kém, nhiều cơng ty giải thể, nền kinh tế suy thối, đi cùng với đó là những vấn đề xã
hội.
Tiểu kết : Tác động mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế là rất nặng nề và nghiêm
trọng. Lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của một nước. Nó làm
cho việc phân phối lại thu nhập và sản phẩm xã hội trong nền kinh tế qua giá cả dẫn đến
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt: một nhóm thu được lợi ích cịn một nhóm lại bị
thiệt hại nặng nề. Và nếu đưa ra câu hỏi, ai sẽ chịu hậu quả chính của lạm phát, có thể
khẳng định đó chính là người lao động.
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI
NÊN KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2016
1. Thực trạng và nguyên nhân lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2014-2016
Tổng quan trước giai đoạn 2014-2016
Năm 2013, tình hình kinh tế thế giới vẫn cịn nhiều bất ổn và biến động phức tạp.
Tăng trưởng khu vực đồng tiền chung châu Âu, đặc biệt là các nước đang chịu ảnh hưởng
của nợ cơng vẫn cịn mờ nhạt, tác động không nhỏ đến sản xuất trong nước. Bên cạnh đó,
các yếu tố nội tại cũng chưa được giải quyết triệt để như hàng tồn kho ở mức cao, sức
mua yếu, nợ xấu ngân hàng đáng lo ngại, nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, dừng hoạt
động hoặc giải thể...
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2013 tăng khoảng 6,04% - thấp nhất trong 10 năm
trở lại đây. CPI tăng thấp phần lớn do kết quả điều hành chính sách kinh tế vĩ mơ, đặc biệt
là chính sách tiền tệ. Năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã điều tiết khá tốt mức cung tiền
do đó kiểm sốt được lạm phát, thêm vào đó giá lương thực, thực phẩm cũng chỉ tăng
nhẹ...
Tuy nhiên, so với mục tiêu tổng quát đề ra, kinh tế năm 2013 mới hoàn thành một vế
là “lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012”, còn yếu tố “tăng trưởng ổn định”
vẫn được đánh giá là chưa vững chắc.
Lạm phát giữ ở mức thấp song nguy cơ tăng cao trở lại vẫn tiềm ẩn khi mức tăng
thấp năm qua chủ yếu do thắt chặt chính sách tài khóa, tổng cầu nền kinh tế yếu. Thời
gian tới, giá cả hàng hóa có thể phải chịu các cú sốc từ việc các hàng hóa cơ bản trong
nước được điều chỉnh theo giá thị trường, lạm phát từ yếu tố tiền tệ cùng lúc có thể xuất
hiện sau độ trễ nới lỏng bội chi ngân sách, tăng nợ công.
Khép lại bức tranh kinh tế 2013 với cả gam màu sáng và tối, ở giai đoạn tiếp theo,
đặc biệt trong 2 năm cuối của kế hoạch 5 năm ( 2011-2015), dự báo kinh tế thế giới thuận
lợi hơn và môi trường vĩ mô trong nước dần đi vào ổn định, kinh tế Việt Nam kỳ vọng có
nhiều cải thiện đáng kể.
Lạm phát giai đoạn 2014-2016
Để biết giai đoạn 2014-2016 tình hình kinh tế nói chung hay cụ thể ở đây là lạm
phát có thay đổi như đúng kì vọng của 2013 hay khơng ta cùng theo dõi mức lạm phát
tính
đến
cuối
năm
của
giai
đoạn
2014-2016.
Chỉ số CPI tháng 12 so với tháng 1 cùng năm (%)
5
4.74
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.84
1.5
1
0.6
0.5
0
2014
2015
2016
Nguồn: Tổng cục thống kê
Dựa trên biểu đồ trên ta có thể nhận thấy tỉ lệ lạm phát của 2014 và 2015 có thể nói
là “lịch sử”. Nếu lạm phát năm 2014 được coi là thấp nhất trong khoảng hơn 10 năm
trước đó đạt mức 1,84% vào tháng 12/2014 thì năm 2015 cịn kỉ lục hơn nữa, khi con số
này chỉ đạt 0,6%. Đó đều là các con số thực sự đem lại nhiều bất ngờ bởi lẽ nó lần lượt bỏ
xa mục tiêu của các năm rơi vào 5% do Quốc hội đặt ra từ đầu năm. Đánh giá một cách
tổng quan, nền kinh tế Việt Nam qua các năm này cũng từ đó có các bước phát triển vượt
bậc. Bước sang năm 2016, tỉ lệ lạm phát đã cao trở lại, tuy nhiên vẫn nằm trong vùng giới
hạn muc tiêu. Vậy cụ thể diễn biến lam phát trong từng năm như thế nào, cũng như
nguyên nhân của sự chênh lệch lớn đó của các năm ra sao, ta sẽ đi vào cụ thể từng năm để
có cái nhìn chi tiết nhất. Và đồng thời sự diễn biến về tỉ lê lạm phát một cách bất ngờ như
vậy cũng là lý do cho quyết định chọn giai đoạn 2014-2016 để phân tích.
1.1. Năm 2014
1.1.1. Thực trạng
Trên thế giới
Vài nét về tình hình lạm phát thế giới
Lạm phát thế giới trong năm 2014 có sự biến động khơng nhất quán giữa các khu
vực. So với năm 2013, lạm phát năm 2014 tăng 0,3 điểm phần trăm (năm 2013 giảm 0,5
điểm phần trăm so với năm 2012) chủ yếu là do sự gia tăng lạm phát ở khu vực cộng
đồng các quốc gia độc lập (3,1 điểm phần trăm), các nước phát triển (tăng 0,5 điểm phần
trăm so với năm 2013) và khu vực các nước mới nổi và đang phát triển (tăng 0,7 điểm
phần trăm so với năm 2013). Đối với phần lớn các khu vực còn lại, lạm phát đều có xu
hướng giảm: ASEAN-5 giảm 0,6 điểm phần trăm, các nước đang phát triển châu Á giảm
0,5 điểm phần trăm, khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) giảm 0,8 điểm phần
trăm...
Mặc dù nhiều nước thực hiện chính sách tài khố nới lỏng hoặc cắt giảm lãi suất và
sử dụng gói hỗ trợ tài chính nhằm kích thích kinh tế nhưng do tăng trưởng kinh tế thế giới
năm 2014 gần như chững lại so với năm 2013, giá cả hàng hố duy trì mức tăng thấp và
liên tục thể hiện xu thế giảm đã khiến lạm phát ở phần lớn các nước tăng thấp hoặc có xu
thế giảm.
Trong nước
Ngày 02/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những
giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự
toán ngân sách nhà nước năm 2014. Theo đó, mục tiêu lạm phát trong năm 2014 là
khoảng 7%, tổng sản phẩm trong nước GDP tăng khoảng 5,8%. Trên cơ sở định hướng đề
ra, kết thúc quý I, diễn biến kinh tế vĩ mô tiếp tục có những chuyển biến, lạm phát ở mức
thấp, giá cả thị trường ổn định, cung cầu hàng hóa được đảm bảo.
Kết thúc tháng 3, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 0,8% so với tháng 12 năm trước và
tăng 4,39% so với cùng kỳ. Mức tăng CPI của quý I/2014 là mức tăng thấp nhất so với
cùng kỳ những năm gần đây (năm 2011 tăng 13,89%, năm 2012 14,15% và năm 2013 là
6,64%).
Trong 3 tháng đầu năm, giá các mặt hàng thiết yếu chiếm quyền số lớn trong rổ
hàng hóa như lương thực thực phẩm; thuốc, dịch vụ tế và một số nhóm hàng hóa khác
tăng chậm, thậm chí CPI của nhóm nhà ở vật liệu xây dựng cịn có xu hướng giảm so với
đầu năm.
Biểu đồ dưới cho thấy, tỷ lệ lạm phát của các tháng năm 2014 so với cùng kỳ đạt
cao nhất vào tháng 1 cũng chỉ là 5,45%. Kể từ tháng 6, tỷ lệ tăng của CPI ngày càng
giảm. CPI tháng 12 chỉ tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013.
Tính đến ngày 15/12/2014, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 968,5 nghìn tỷ,
bằng 96,2% dự tốn năm. Tính đến ngày 27/12/2014, tổng phương tiện thanh toán tăng
15,65% và tín dụng tăng 12,62% so với cuối năm 2013. Như vậy, với thực tế về số liệu
chi ngân sách nhà nước, cung tiền và tín dụng năm 2014 đều gần bằng và vượt mức của
năm 2013, nhưng lạm phát lại thấp hơn cho thấy, lạm phát có những nguyên nhân ngồi
chính sách tiền tệ và tài khóa, như: sức cầu còn yếu, giá xăng dầu sụt giảm liên tục...
Theo Tổng cục Thống kê, trong 12 tháng vừa qua, nhóm hàng có đóng góp nhiều
nhất vào sự gia tăng CPI vẫn là hàng ăn và dịch vụ ăn uống (chiếm 38,8%), thứ đến là
giáo dục (14,2%), nhà ở và vật liệu xây dựng (9,3%), nhóm hàng giao thơng chỉ đóng góp
4%. Với sự điều chỉnh giảm liên tục của giá xăng dầu trong nước, chi phí sinh hoạt cho
nhóm hàng giao thơng sẽ giảm đi, từ đó tác động làm giảm CPI.
1.1.2. Nguyên nhân
Sau nhiều năm đứng trong nhóm các nước có lạm phát cao nhất thế giới, lạm phát
thấp trong năm 2014 đã đưa Việt Nam vào vị trí thứ 58 trong bảng xếp hạng lạm phát
toàn thế giới (theo thứ tự từ thấp đến cao), đây là mức xếp hạng tích cực nhất trong vịng
13 năm qua.
Lạm phát thấp trong năm 2014 do những nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, tiêu dùng thấp và mức cải thiện chậm trong khi nguồn cung hàng hố ổn
định và có xu thế tăng trưởng tích cực hơn. Chỉ số sản xuất cơng nghiệp toàn ngành năm
2014 tăng 7,6% so với năm 2013, cao hơn đáng kể mức tăng 5,9% của năm 2013 nhưng
tăng trưởng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 chỉ đạt 6,3% sau
khi loại trừ yếu tố giá, mặc dù cao hơn giai đoạn 2011 – 2013 nhưng vẫn thấp đáng kể so
với các năm có tăng trưởng cao và lạm phát thấp.
Thêm nữa, tăng trưởng cung tiền và tín dụng thấp trong năm 2013 - 2014 cũng góp
phần đáng kể kiềm chế tốc độ tăng lạm phát. Tính đến ngày 22/12/2014, tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán ở mức 15,99%, tăng trưởng tín dụng ở mức 12,62% so với cuối
năm 2013, cao hơn khơng đáng kể so với mức bình qn giai đoạn 2011 - 2013 và bằng
một nửa giai đoạn 2006 - 2010. Mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền năm 2014 cao
hơn năm 2013 nhưng tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn nên khả năng hấp thụ vốn
còn hạn chế, phần lớn các luồng tiền đều luân chuyển trong hệ thống ngân hàng, do đó
không gây ra tác đôṇ g tiêu cực đáng kể n ào đối với laṃ phát.
Thứ hai, sự ổn định của thị trường ngoại hối cùng với mức điều chỉnh tăng tỷ giá
thấp 1% trong năm 2013 - 2014, việc điều chỉnh giảm liên tục các mức lãi suất cho vay
cũng góp phần kiềm chế đáng kể tốc độ tăng lạm phát.
Thứ ba, quán triệt Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2011 với nhiêṃ vụ quan
trong là ổn điṇ h vĩ mô, kiểm soát laṃ phát nên trong năm 2014, lạm phát chủ yếu chịu sự
tác động của việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản như giá dịch vụ y tế, giáo dục, giá
xăng dầu. Tuy giá các mặt hàng cơ bản này có sự điều chỉnh nhưng nhìn chung, mức ảnh
hưởng không lớn và không gây ảnh hưởng kéo dài1
Thứ tư, giá cả hàng hố thế giới có mức tăng thấp và vẫn tiếp tục xu hướng giả m.
Tính bình quân 11 tháng đầu năm 2014, chỉ số giá hàng hố chung thế giới đã giảm 4,2%
so với bình qn cùng kỳ năm 2013, trong đó lương thực - thực phẩm giảm 3,75%,
nguyên liêụ công nghiêp̣ giảm 5,4% (nguyên liêụ thô công nghiêp̣ giảm 2,74%, kim loaị
giảm 9,66%), năng lượng giảm 4,57% (giá dầu thô giảm 4,33%). Do giá cả hàng hoá thế
giới giảm nên giá hàng hoá nhập khẩu cũng giảm, riêng giá xăng dầu nhập khẩu vào
Việt Nam trong năm 2014 đã có 19/24 lần điều chỉnh giảm giá, mức điều chỉnh
giảm giá xăng dầu ngày 22/12/2014 đã khiến giá xăng và dầu diesel giảm khoảng 26%,
dầu hoả giảm 22%, mazut giảm 28,2% so với cuối năm 2013, đây là ngun nhân chính
khiến giá của nhóm hàng giao thơng giảm mạnh trong năm 2014 và góp phần gián tiếp
làm giá của các nhóm hàng khác cũng giảm theo.
1.2. Năm 2015
1.2.1. Thực trạng
Tiếp tục các cụm từ thấp “lịch sử”, “kỉ lục” lại đươc nhắc đến sau khi quan sát bản
số liệu sau đây. Và chúng ta đã biết, mặc dù 2014 tỷ lệ lạ phát chỉ là 1,84% nhưng dự kiến
hết năm 2015 vẫn là con số 5%.
Tỷ lệ tăng CPI năm 2015 so với cùng kì năm 2014
2.50%
2.00%
2.06%
2.02%
2.08%
2.04%
1.45%
1.50%
1.00%
1.00%
0.90%
0.61%
0.60%
0.50%
0.00%
0.34%
1
2
3
4
5
6
7
8
9
0.00%
-0.50%
10
11
12
0.00%
Từ bảng số liệu trên có thể thấy đươc mức chênh lệch giá cả so với cùng kì một năm
trước là rất ít, cao nhất chỉ có 2,08%. Đặc biệt từ tháng 6 trở đi, con số này chỉ dao động
dưới 1% và thấp nhất xấp xỉ 0,00% ở tháng 9 và tháng 10.
Theo đó, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 7 nhóm tăng với mức tăng
không đáng kể: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,16%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%;
May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,32%; Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,5%; Thuốc và
dịch vụ y tế tăng 0,14%; Giáo dục tăng 0,04%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,15%. Có
4 nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm: Bưu chính viễn thơng giảm 0,03%; Giao thơng giảm
1,57%, Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,05%; Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%.
1.2.2. Nguyên nhân
Lạm phát ở mức thấp kỉ lục và có nhiều sự nghi ngờ, cụ thể là việc cầu hàng hóa
thấp nên giá khơng tăng được? Câu trả lời của năm 2015 là không hẳn, bởi tổng cầu của
nền kinh tế - được đo thông qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
đã có sự cải thiện, tăng 8,3% (loại trừ yếu tố giá cả) so với cùng kỳ sau 11 tháng. Chưa
thể bằng giai đoạn trước khi nền kinh tế gặp khó khăn, nhưng như vậy, tổng cầu đang dần
hồi phục.
Tuy nhiên, cần chú ý chỗ tổng cung đang tăng nhanh không chỉ vì sản xuất trong
nước đã hồi phục, mà cịn vì số lượng nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng vào Việt Nam là khá
lớn. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, qua 11 tháng đầu năm 2015, doanh nghiệp
trong nước nhập siêu tới 14,91 tỷ USD, trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp