Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

khủng hoảng nợ công hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.51 KB, 15 trang )

Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến nền kinh tế chao đảo, cho đến nay
chưa kịp khôi phục hoàn toàn. Những năm tiếp theo, nợ công vượt quá cao so với mức an
toàn ở những nền kinh tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng bởi đó là yếu tố có nguy
cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm lo ngại tới viễn cảnh
nền kinh tế một lần nữa lại rơi vào tình trạng suy giảm.Nó đã đánh lên hồi chuông cảnh
tỉnh cho các quốc gia trên thế giới nhìn nhận và suy nghĩ chin chắn về tình trạng nợ công
của quốc gia mình. Chính vì vậy, việc nghiên cứu “ khủng hoảng nợ công hy lạp và sự
tác động của nó đến nền kinh tế” là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách không chỉ ở
VN mà còn trên toàn thế giới.
Bài tiểu luận chia làm 3 phần:
Phần 1: Lý thuyết chung về nợ công và khủng hoảng nợ công
Phần 2: Khủng hoảng nợ công Hy Lạp và tác động của nó
Phần 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
I.Nợ công và khủng hoảng nợ công
1.1 Nợ công:
1.1.1.Khái niệm: Theo luật quản lý nợ công của Việt Nam nợ công bao gồm nợ chính
phủ, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
1.1.2. Phân loại nợ công:
-Căn cứ vào kì hạn bao gồm:
+ Nợ ngắn hạn: những khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm
+Nợ trung và dài hạn: những khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm
-Căn cứ vào vị trí địa lý được chia thành:
+Nợ trong nước: bao gồm các khoản vay từ chủ thể trong nước, chủ yếu chính phủ phát
hành công cụ nợ để vay từ các chủ thể trong nước.
+Nợ nước ngoài:bao gồm các khoản vay từ chủ thể ngoài nước như: khoản vay thương
mại từ chủ thể nước ngoài, hiệp định vay nợ với chính phủ hay tổ chức tài chính tiền tệ
nước ngoài.
-Căn cứ vào nghĩa vụ trả nợ được chia thành:
+Nợ trực tiếp: là các khoản nợ trực tiếp mà chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương có trách nhiệm trả nợ.
+Nợ dự phòng: là các khoản nợ phát sinh khi một hoặc vài điều kiện xác định trước đó


thay đổi, đó là khoản nợ được chính phủ bảo lãnh, khi khoản nợ này không được con nợ
trả, chính phủ sẽ phải trả nợ thay.
-Căn cứ vào lãi suất vay bao gồm:
+Nợ có lãi suất cố định: là những khoản nợ có lãi suất cố định từ khi cho vay đến khi đáo
hạn, không bị phụ thuộc vào biến động thị trường.
+Nợ có lãi suất thả nổi: là những khoản nợ có lãi suất được điều chỉnh khi có sự biến
động về lãi suất trên thị trường.
-Căn cứ vào loại tiền vay bao gồm:
+Nợ bằng đồng nội tệ: là những khoản nợ được vay bằng chính đồng tiền của quốc gia
đó.
+Nợ bằng ngoại tệ: là những khoản nợ được vay bằng các đồng ngoại tệ, có thể vay từ
các chủ thể trong nước hoặc nước ngoài.
1.1.3.Các yếu tố tác động đến nợ công
Thâm hụt ngân sách: Nguồn gốc của nợ công chính là thâm hụt ngân sách.Khi ngân sách
bị thâm hụt, ngoài việc tăng thuế, tiết kiệm chi tiêu chính phủ thường sử dụng biện pháp
đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.
Lãi suất thực tế: Khi có biến động trong lãi suất thực tế trên thị trường sẽ ảnh hưởng đến
qui mô và chi phí dịch vụ nợ công.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng tích cực sẽ làm giảm
nợ công do nguồn thu ngân sách nhà nước gia tăng trong khi áp lực tài trợ cho các khoản
chi bất thường giảm xuống và ngược lại.
Tỷ giá thực tế: Ảnh hưởng trực tiếp đối với khoản vay nợ nước ngoài hay vay nợ trong
nước bằng ngoại tệ, sự biến động về tỷ giá sẽ chắc chắn ảnh hưởng đến quy mô nợ và các
chi phí dịch vụ nợ như trả lãi cũng tăng theo và ngược lại.
Ngoài ra, còn có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nợ công theo các mức độ khác nhau như:
Cán cân xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cơ cấu nợ trong nước và nước
ngoài, cơ cấu đồng tiền, nhân tố khách quan…
1.1.4. Vai trò của nợ công
Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội. Các khoản vay của chính phủ đã
tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế đồng thời thực hiện các

chương trình phúc lợi lớn của quốc gia như đầu tư xây dựng thêm bệnh viện, trường học,
trạm xá… phục vụ dân sinh.
Góp phần tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước.Có nhiều cách để tài trợ thâm hụt ngân
sách nhưng đi vay nợ là cách được nhiều quốc gia lựa chọn nhất vì nó đáp ứng kịp thời
thiếu hụt ngân sách trong khi các phương pháp khác như tăng thuế hay giảm chi chính
phủ đòi hỏi thời gian dài và ảnh hưởng nhiều tới các thành phần kinh tế.
Góp phần tạo ra công cụ để điều hành chính sách tiền tệ và điều tiết thị trường tài chính.
Ngân hàng trung ương thông qua nghiệp vụ thị trường mở csc thể tạo ra tính thanh khoản
cho trái phiếu chính phủ cũng nhơ hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương mại sử dụng việc bán trái phiếu chính phủ để giải quyết tình trạng
thiếu/thừa vốn trong thanh toán cũng tạo thêm tính thanh khoản cho trái phiếu chính phủ.
Góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế. Đối với các khoản vay nợ nước
ngoài sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia vay nợ tiếp cận được nguồn vốn bên ngoài mà
không làm giảm đầu tư hay tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, các nước vay nợ có điều kiện
tiếp cận với máy móc, trang thiết bị, chuyển giao công nghệ và các kĩ năng quản lý mới
góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
1.1.5.Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công:
Nợ công quá mức có thể dẫn đến những tác động tiêu cực đối với các hoạt động kinh tế -
xã hội của quốc gia và thậm chí có thể tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế toàn
cầu.Chính vì vậy việc đảm bảo an toàn nợ công là vấn đề cần thiết.
-Chỉ tiêu về an toàn nợ công:
+Nợ công so với GDP;
+Nợ nước ngoài của quốc gia với GDP;
+Trả nợ chính phủ so với tổng thu NSNN;
+Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
-Bên cạnh chỉ tiêu về an toàn nợ công, để đảm bảo an toàn nợ công bền vững, cơ quan
quyền lực quốc gia còn xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát nợ công bao gồm:
+Hạn mức nợ công;
+Nợ chính phủ so với GDP;
+Nghĩa vụ nợ chính phủ so với thu NSNN;

+Tỷ lệ lãi vay so với thu NSNN;
+Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu NSNN;
+Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay nước ngoài của chính phủ.
Việc xác định ngưỡng của các quốc gia này phụ thuộc vào mỗi quốc gia tuy nhiên WB và
IMF qua quá trình nghiên cứu thực tế đã đưa ra những khuyến cáo về ngưỡng an toàn nợ
như sau:
Chỉ tiêu (%) Ước tính của WB Ước tính của IMF
NPV nợ / GDP 21-49 26-58
NPV nợ / XK 79-300 83-276
NPV nợ / thu NS 143-235 138-264
1.2.Khủng hoảng nợ công
1.2.1. Khủng hoảng nợ công là gì?
Khủng hoảng nợ công xảy ra khi một quốc gia vay nợ quá nhiều và không có khả năng
chi trả, đành phải nhờ đến sự cứu trợ của các quốc gia hay tổ chức khác.
1.2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công:
Mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và
trầm trọng hơn cả suy thoái kinh tế theo chu kỳ.
Không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển.
Thường kéo dài và mang theo nhiều hệ lụy không chỉ tên lĩnh vực kinh tế mà còn trong
chính trị- văn hóa-xã hội.
Gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ của quốc gia xảy ra sự kiện khủng hoảng.
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, ở mỗi nước và tùy từng thời kì đều có những
nguyên nhân khác nhau song tình trạng khủng hoảng nợ công hiện nay đều có một số
nguyên nhân cơ bản:
Thứ nhất, việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước. Lương và chi phí hoạt động
của bộ máy nhà nước ngày càng phình to các chương trình xã hội, an ninh, quốc phòng,
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng gia tăng.
Thứ hai, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công đồng
nghĩa với việc quốc gia khó có thể bù đặp ngân sách bằng các nguồn vốn nội địa và phải

đi vay nước ngoài.
Thứ ba, sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng,
cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham
nhũng phát triển cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng.
Thứ tư, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính bổ
sung thâm hụt là nguyên nhân khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng
cho nền kinh tế.
Thứ năm, Chính phủ liên tục tăng khối lượng phát hành trái phiếu để lấy tiền trang trải
chi phí an sinh xã hội và để bù đắp thâm hụt ngân sách.
II.Khủng hoảng nợ công Hy Lạp và tác động của nó
2.1.Một số nét khái quát về Hy Lạp:
Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu là thành viên của khu vực đồng tiền chung
(eurozone hay EU-16). Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp
2,8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 17.440 đô la Mỹ, tỷ
lệ thất nghiệp trung bình là 10,2% (trong khi tỷ lệ này của EU là 10%) nhưng lại duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU-16.
2.2.Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Hy Lạp:
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị
tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn, vượt khả
năng kiểm soát. Nhưng có thể phân định rõ 5 nhóm nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công.
Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn
nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu
hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các
dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên
minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy
Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng
cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
Thứ hai, chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP của Hy
Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% (2001 – 2007) so với

mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mức chi
tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân
sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công trong tổng
số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên
OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm
2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công
nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên
15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài
trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi
tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên
tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP.
Thứ ba, nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và
gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm
nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm
tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung Quốc
và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ
luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng
cao nhất trong EU. Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang
tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà
tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ
gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho
công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra
nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh
nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi.
Thứ tư, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn
không hiệu quả. Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp
có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền

kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân
hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được
hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán
trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến
rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu
quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả
nợ.
Thứ năm, thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư. Sự thiếu minh bạch trong
số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã
tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các
làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó
khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài
chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi
trong niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi
lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch
các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những
chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế
vĩ mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
2.3.Tác động của khủng hoảng nợ công đến nền kinh tế Hy Lạp
2.3.1.Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng:
Từ năm 1998 đến năm 2011 trái phiếu chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình 5,21% . Lãi
suất trái phiếu Hy Lạp tăng cao trong thời gian gần đây vì khủng hoảng nợ công, thâm
hụt ngân sách nặng nề, do đó chính phủ cần huy động vốn lớn để tái thiết nền kinh tế.
Việc phát hành thêm trái phiếu làm giá trái phiếu giảm, lãi suất tăng. Lãi suất trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 1/2010, lên
9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào tháng 7/2011.
Lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm. Ảnh: ECB
2.3.2. Đầu tư trực tiếp FDI
Chính phủ Hy Lạp hiện đang thực hiện cắt giảm chi tiêu, tăng thuế và hạ lương theo cam

kết của chính phủ để nhận được sự trợ giúp từ EU và IMF. Do đó, tình hình đầu tư FDI
và Hy Lạp có giảm. Trong thời gian 2006-2008 FDI vào Hy Lạp đã liên tục duy trì mức
độ cao hơn giai đoạn 2003-2005. Có nhiều yếu tố chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng,
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong việc tăng khối
lượng FDI. Năm 2009 luồng vốn vào Hy Lạp đạt 3,8 tỷ euro thấp hơn nhiều so với con số
6 tỷ euro năm 2008 do hậu quả của khủng hoảng nợ công. Giai đoạn 2010-2012 lượng
vốn FDI có tăng do Hy Lạp đang dần dần thoát khỏi suy thoái.
Inflows of FDI in Greece during the period 2003-2012 (in million Euro)
2010, 2011: Revised Data, 2012: Provisional Data
Source: Bank of Greece 2013
2.3.3. Xếp hạng tín dụng
Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách
trong tài khóa 2009 phải ở mức 12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia
sử dụng đồng euro.
Nhiều dự báo ngay lập tức được đưa ra cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức
113,4% GDP năm 2009 lên 121-125% GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc tế
tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trường tài chính. Ngày 7/12/2009,
S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch
đánh tụt điểm số của nền kinh tế này từ A- xuống còn BBB+.
2.3.4. Tốc độ tăng trưởng GDP
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm từ 2004-2007 khoảng 4% do một phần là
chi tiêu cho thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia tăng của tín dụng mà đóng
góp đáng kể là sự gia tăng của tín dụng tiêu dùng. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của
quốc gia này chỉ còn là 0.7%. Năm 2009, GDP tăng trưởng âm, đạt mức -2.5% là kết quả
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, các biện pháp thắt chặt điều kiện tín
dụng, và thất bại của Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra do
các nguồn thu của nhà nước không tăng kịp với nhu cầu chi tiêu chính phủ, thậm chí, một
số loại thuế còn phải chịu áp lực cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau.
2.3.5. Thất nghiệp gia tăng
Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi qua

kết quả các gói kích thích kinh tế, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư,
kìm hãm sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc làm
giảm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Thất nghiệp ở Hy Lạp đặc biệt cao và gia tăng trong những năm gần đây do sự tác động
của khủng hoảng tài chính.
2.3.6. Lạm phát
Lạm phát cao trong bối cảnh khủng hoảng nợ của Hy Lạp trong năm nay có liên quan tới
việc tăng các loại thuế nhằm mục đích nâng cao doanh thu nhà nước.
Trong giai đoạn nỗ lực thoát khỏi khủng hoảng ,Hy Lạp lại rơi vào tình trạng giảm phát
với tỷ lệ giảm là âm 0,2% trong tháng 3/2013 do giá cả giảm và nền kinh tế tiếp tục trì
trệ.
2.4. Tác động đến eurozone
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng khủng
hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu. Sau Hy Lạp, các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Ai-len và Ý là những nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công. Tây
Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20%, thâm hụt ngân sách trên 10% GDP; Bồ Đào
Nha có thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở mức cao, tỷ lệ tiết kiệm nội địa
thấp, nợ công của Ý chiếm 106,1% GDP (năm 2008). Thực tế đã cho thấy, sau Hy Lạp,
Ai-len đã phải cầu cứu sự giúp đỡ của Liên minh Châu Âu EU và Quỹ tiền tệ quốc tế
IMF để giải quyết khủng hoảng nợ của nước này.
Nợ công của Tây Ban Nha :
Nợ công của Ailen :
( Nguồn: CIA Factbook )
Khủng hoảng lan rộng ở khắp các quốc gia thành viên Eurozone đã khiến đồng Euro mất
giá khá mạnh mẽ trên thị trường tiền tệ. Sự mất giá của đồng Euro khiến cho đồng tiền
chung Châu Âu trở thành tầm ngắm của các quỹ đầu cơ, các ngân hàng và định chế tài
chính muốn được sinh lời từ việc bán khống. Bằng cách vay và ồ ạt bán khống đồng
Euro, các đối tượng này làm cho tỷ giá Euro lao dốc mạnh so với các đồng tiền chủ chốt
khác. Cuối cùng, họ thực hiện việc mua vào Euro với giá rẻ để trả lại, bỏ túi những khoản
lãi khổng lồ.

Thị trường chứng khoán Châu Âu đã chứng kiến những phiên giảm điểm liên tiếp do lo
ngại rằng cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp và sau đó là Ailen, có thể lan sang các nước
khác ở châu Âu - nơi cũng có thâm hụt ngân sách lớn.
Sự mất cân bằng của nền kinh tế đã dẫn đến sự mất cân bằng xã hội: hàng loạt những
cuộc biểu tình phản đối các chính sách của chính phủ đã diễn ra rộng khắp ở những nước
phải đưa ra các biện pháp thắt chặt chi tiêu công như Hy Lạp, Ai-len, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha… Những cuộc bãi công liên tục đẩy các đất nước này vào tình trạng bất ổn kinh
tế - chính trị - xã hội, từ đó làm mất lòng tin của giới đầu tư, khiến cho tình trạng khủng
hoảng thêm trầm trọng.
Dù vậy, lịch sử và thực tế đã chứng minh mặc dù chịu sự tác động nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng, tiến trình liên kết châu Âu không hề lùi bước. Lịch sử đã cho thấy tiến trình
này có một con đường phát triển rõ rệt, đó là khủng hoảng và chống khủng hoảng. Trong
lịch trình phát triển liên kết châu Âu suốt 60 năm qua, EU đã trải qua quá nhiều cuộc
khủng hoảng như: Pháp phủ quyết “Dự án phòng thủ chung châu Âu” vào thập niên 50
của thế kỷ XX, Pháp chống lại Cộng đồng châu Âu gây ra “khủng hoảng do bỏ ghế
trống” vào thập niên 60, Đan Mạch phủ quyết “Hiệp ước Maastricht” vào những năm đầu
thập niên 90, Ailen phủ quyết “Hiệp ước Nice” vào đầu thế kỷ XXI, khủng hoảng hiến
pháp kéo dài 5 năm do Pháp và Hà Lan liên tiếp phủ quyết “Hiến pháp châu Âu” vào
năm 2005… Tuy nhiên, sau khi khắc phục những cuộc khủng hoảng này, EU đều có thể
tiếp tục phát triển. Đương nhiên, cuộc khủng hoảng nợ lần này nghiêm trọng hơn các
khủng hoảng trên. Nhưng khủng hoảng lớn lại ần chứa thời cơ lớn, tiến trình liên kết
châu Âu có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nợ nước ngoài cao, thâm hụt ngân sách, chi tiêu quá khả năng là những nguyên nhân
chính dẫn tới khủng hoảng nợ công của các nền kinh tế, đó là những minh chứng thực
tiễn sâu sắc đối với các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, trong đó có Việt Nam.
Vì thế, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá nợ công trên các góc độ sau:
Thứ nhất, mô hình phát triển kinh tế: Việt Nam là 1 nước đang phát triển, nên có 1 tỷ lệ
cao về đầu tư là 40% GDP trong khi chỉ có 27~30% GDP là nguồn vốn tiết kiệm của các
hộ gia đình, nhiều hơn 10% những nguồn vốn từ bên ngoài (FDI, ODA, những khoản vay

khác). Đây là một tỷ lệ rất cao so với trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương
nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Do đó, giảm lượng vốn đầu tư từ bên ngoài trong cấu trúc
vốn nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy phát triển dựa trên
đầu tư có hiệu quả là cần thiết trong mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thứ hai, giảm chi tiêu công và thâm hụt ngân sách: Một bài học từ nguyên nhân chủ yếu
gây ra cuộc khủng hoảng tại các quốc gia Mỹ Latinh cũng như các quốc gia châu Âu
(điển hình là Hy Lạp) là thâm hụt ngân sách. Do vậy, việc cần làm là Việt Nam nên thắt
chặt công khố, thực hành tiết kiệm và chi tiêu công hợp lý, thận trọng trong những dự án
đầu tư quy mô lớn tiêu tốn 1 lượng lớn vốn từ những khoản nợ nước ngoài.
Thứ ba, công khai minh bạch thông tin về ngân sách nhà nước và nợ công, công bố
những thông tin và chính sách chính xác: Nhằm quản lý tốt thâm hụt ngân sách cũng như
nợ công, điều quan trọng đầu tiên cho mỗi quốc gia chính là thực hiện công khai minh
bạch về những vấn đề này. Những nguyên tắc chủ đạo nhằm giúp các quốc gia thực hiện
những chính sách cải thiện tính minh bạch trong quản lý tài khóa của mình được tóm tắt
đầy đủ trong Cẩm nang Minh bạch Tài khóa (IMF, 2007).Việc Athens làm giả số liệu để
có thể trở thành thành viên chính thức của khối cộng đồng chung châu Âu là bài học nhãn
tiền đối với Việt Nam. Vì thế, Chính phủ Việt Nam nên cung cấp những thông điệp phù
hợp và giải thích rõ ràng những hỗ trợ cơ bản trong thỏa thuận với hoạt động quốc tế và
tạo ra những tiêu chuẩn trong các chỉ số về nợ công, thâm hụt ngân sách và chính sách
công khố.
Thứ tư, Chính phủ cũng cần đưa ra một khuôn khổ pháp luật rõ ràng và giao trách nhiệm
cho một cơ quan chuyên trách. Cơ quan này thường là Bộ Tài chính, với vai trò lựa chọn
các công cụ và hình thức vay nợ cần thiết, xây dựng chiến lược và lộ trình vay nợ hợp lý,
nghiên cứu về các chiến lược quản lý nợ công bền vững thông qua các chỉ số về giới hạn
nợ và các thông số về rủi ro, mà nợ công mang lại. Đồng thời, cơ quan này cũng cần thiết
lập một bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra giám sát nhằm đưa ra được những con số thống
kê cập nhật rõ ràng và xác thực.
Cuối cùng, một bài học lớn phải được rút ra trong suốt quá trình quản lý, ngăn chặn bùng
nổ nợ công, cho đến giải quyết hậu quả trong trường hợp vỡ nợ là bài học “Tự lực cánh

sinh” khi ấy sẽ biết quý và thận trọng từng đồng tiền trong chi tiêu. Kinh tế học đã
nghiên cứu ràng buộc ngân sách là tâm lý, điều kiện bên ngoài, điều kiện môi trường,
điều kiện quốc gia và hãy coi nó như là những ràng buộc bắt buộc. Vấn đề mấu chốt đối
với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là phải vay mượn, nhất là vay vốn
nước ngoài dưới nhiều hình thức, thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, không
lúc nào được lãng quên vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng
tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ.
Kết luận
Sự sụp đổ của nền kinh tế Hy Lạp là bài học kinh nghiệm với tất cả các nước bất kể giàu
nghèo. Mối đe dọa về khủng hoảng nợ công vẫn đang tiếp diễn và lan rộng ra các quốc
gia khác ở châu Âu. Trong khuôn khổ bài tiểu luận, nhóm thực hiện muốn giới thiệu một
cái nhìn tổng quan về Nợ công của Hy Lạp, từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về nguyên
nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công, đồng thời rút ra được nhiều bài
học tác động đối với Việt nam. Đây là đề tài đang rất được quan tâm vì tính phức tạp và
cấp thiết của nó đối với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên do sự hạn chế về tư liệu và kiến
thức thực tế nên rất mong nhận được những đóng góp của thầy giáo để nhóm chúng em
hoàn chỉnh đề tài hơn.

×