Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu luận tổng quan về ngân hàng thương mại tín dụng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng thông qua hệ thống xếp hạng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.2 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THƠNG QUA HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN
DỤNG NỘI BỘ

1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại
Ngay từ xa xưa, người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm trung
gian trao đổi hàng hoá. Thơng qua tiền, việc trao đổi hàng hố được tiến hành một cách
thuận lợi, dễ dàng hơn, chính vì thế đã kích thích sản xuất, đưa xã hội lồi người ngày
càng phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát huy.
Thương mại phát triển, một tầng lớp thương nhân giàu có ra đời và họ cần có những nơi
an tồn để gửi tiền. Những người nhận tiền gửi chủ yếu là chủ tiệm vàng, họ nhận thấy:
ln có một lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi do tiền và vàng người ta gửi vào luôn nhiều
hơn tiền rút ra, mặt khác, luôn tồn tại nhu cầu vay mượn để chi tiêu, đầu tư kinh doanh.


Và những người giữ hộ tài sản nghĩ đến việc sử dụng số tiền nhàn rỗi đó để cho vay kiếm
lời, nên thay vì thu phí giữ hộ, người ta trả một khoản lãi cho người có tài sản đem gửi.
Bên cạnh đó, người giữ hộ tiền cũng cho vay để thanh tốn cho một người nào đó bằng
cách ghi nợ cho người vay tiền và ghi tăng tài sản cho người được thanh toán. Và lúc các
nghiệp vụ trên hình thành cũng là lúc ngân hàng xuất hiện.
Khoảng đầu thế kỉ thứ XV (1401) có một tổ chức trên thế giới được coi là một
ngân hàng thực sự theo quan niệm ngày nay đó là BAN - CA - DI Barcelona (Tây Ban
Nha), đây là ngân hàng đầu tiên trên thế giới. Đến năm 1409, ngân hàng thứ hai là BAN CO -DI Valencia (TBN) xuất hiện và cả hai ngân hàng này đã thực hiện hầu hết các
nghiệp vụ ngân hàng như ngày nay như: nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán,...
Từ thế kỉ XVII, song song với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, kinh tế và
thương mại đã có những tiến bộ lớn, đồng thời ngân hàng cũng phát triển mạnh, đầu tiên
là ở Châu Âu, sau đó là ở Châu Mỹ rồi đến Châu Á và được phát triển trên phạm vi toàn
thế giới. Các nhà sản xuất cần đến vốn để sản xuất, các thương gia cần vốn để thành lập


các công ty thương mại, xuất nhập khẩu, họ chỉ có thể dựa vào ngân hàng và chỉ có ngân
hàng mới có thể cung cấp đủ vốn cho họ. Do đó, vị thế của ngân hàng ngày càng được
nâng cao và ngân hàng trở thành một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế.
Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ XX khi mà
các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình. Các sản
phẩm mới của ngân hàng ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng trở
thành nơi cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng và phong phú nhất cho nền kinh tế.
1.1.1.2. Khái niệm
Vào năm 1930, Đan Mạch ra luật ngân hàng trong đó có định nghĩa: “Những nhà
băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các
nghiệp vụ chuyển ngân”
Đến năm 1941, các nhà kinh tế Pháp lại khẳng định rằng: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của cơng chúng dưới hình thức ký thác


hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín
dụng hay dịch vụ tài chính”
Điều 20 trong Luật các tổ chức tín dụng( Số 07/1997/QHX) của Việt Nam định
nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Bên cạnh đó, Luật Ngân hàng
Nhà nước cũng do Quốc hội khóa X thông qua cùng ngày 12 tháng 12 năm 1997, định
nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng
dịch vụ thanh tốn”.
Mỗi khái niệm có khác nhau nhưng đều khẳng định rằng Ngân hàng thương mại là
một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nhiệm vụ thường
xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết hồn trả lại đúng số tiền
đó cộng thêm một khoản tiền lãi, sau đó, sử dụng số tiền này cho vay và cung ứng các
dịch vụ thanh toán cùng một số nghiệp vụ khác.

Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố
kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý,… đồng thời đến lượt mình, ngân hàng lại có khả năng
tác động trở lại các yếu tố này. Không thể phủ nhận rằng, nền kinh tế của một nước chỉ
phát triển ổn định và bền vững khi có chính sách tài chính – tiền tệ đúng đắn và hệ thống
ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có khả năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ
hợp lý nguồn vốn đó vào các ngành sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. NHTM nhận tiền
gửi và cho vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công
cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thơng qua
thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đơi khi khơng đem lại hiệu quả
cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thơng tin, chi phí tìm kiếm thơng tin lớn, chất


lượng thơng tin khơng cao, chi phí giao dịch lớn và phải có sự trùng khớp về nhu cầu
giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời hạn... Chính vì thế, NHTM với
tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho
nền kinh tế với số lượng, thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của
khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa
dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, chuyên mơn hố vào từng lĩnh vực, NHTM đã thực
sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao
hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh tốn
Ở đây, Ngân hàng thương mại đóng vai trị là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như: trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung
cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như: Séc, Ủy nhiệm chi, Ủy

nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh tốn, thẻ tín dụng…
Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh tốn phù
hợp, nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp
chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương
thức nào đó để thực hiện các khoản thanh tốn. Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm
được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh tốn an tồn. Chức năng này vơ hình
chung đã thúc đẩy lưu thơng hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh tốn, tốc độ lưu chuyển
vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền (bút tệ)
Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh
doanh tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi và rồi cho
vay cũng chính bằng các đồng tiền đó, thì nay các ngân hàng đã có thể cho vay bằng tiền
giấy của mình, thay thế tiền bạc và vàng do khách hàng gửi vào ngân hàng.


Hơn nữa, khi đã hoạt động trong một hệ thống ngân hàng, NHTM có khả năng
“tạo tiền” bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa
NHTM lên vị trí là nguồn tạo tiền. Quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM dựa trên cơ sở
tiền gửi của xã hội. Song số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thơng
qua cơ chế thanh tốn chuyển khoản giữa các ngân hàng.
1.2 Lý luận chung về tín dụng, rủi ro tín dụng ngân hàng.
1.2.1 Khái niệm, bản chất và chức năng của tín dụng.
1.2.1.1 Khái niệm tín dụng.
Tín dụng là mối quan hệ giữa hai chủ thể, trong đó một bên là chuyển giao tiền
hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận
tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thỏa thuận.
Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung như sau:
-

Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị


này thể hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc,
v.v...
-

Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết

hạn sử dụng theo thỏa thuận người đi vay phải hoàn tất cho người cho vay.
-

Giá trị trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác, người đi

vay phải trả thêm một phần lợi tức. Đây là giá cả của việc mua bán quyền sử dụng tiền
và lãi suất.
1.2.1.2 Bản chất của tín dụng.
Từ khái niệm đã nêu cho thấy trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhượng
quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời hạn nhất định. Tuy nhiên, người đi
vay khơng có quyền sở hữu số vốn ấy nên phải hoàn trả lại cho vay khi đến hạn thỏa
thuận. Sự hồn trả này khơng chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng được tăng
thêm dưới hình thức lợi tức. Ở đây, quá trình vận động mang tính chất hồn trả của tín


dụng là biểu hiện đặc trưng nhất sự khác biệt giữa quan hệ tín dụng và các mối quan hệ
kinh tế khác.
Quan hệ tín dụng dù vận động ở phương thức sản xuất nào, đối tượng vay mượn là
hàng hóa hay tiền tệ thì tín dụng cũng mang 3 đặc điểm cơ bản sau:
+ Chỉ thay đổi quyền sử dụng mà khơng thay đổi quyền sở hữu tín dụng.
+ Có thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và người
đi vay.
+ Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.

1.2.1.3 Chức năng của tín dụng.
 Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hồn trả.
Tập trung và phân phối lại tín dụng là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành
của hệ thống tín dụng. Ở đây sự có mặt của tín dụng được xem như là chiếc cầu nối giữa
các nguồn cung cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế.
Thơng qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham gia vào việc huy động đại bộ
phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để
bổ sung kịp thời cho các đơn vị kinh tế, cá nhân đang có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ
cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Hiện nay, vốn tín dụng là một bộ phận quan trọng trong tổng nguồn vốn của các xí
nghiệp. Xét trên tồn bộ nền kinh tế, việc phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín
dụng chia làm 2 cách: Phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp.
-

Phân phối trực tiếp: Là việc phân phối vốn từ chủ thể có nhiều vốn tạm thời nhàn

rỗi sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
- Phân phối gián tiếp: Là việc phân phối được thực hiện thông qua các tổ chức tài
chính trung gian như: Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, cơng ty tài chính,v.v..
 Tín dụng giúp tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thơng cho xã hội.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường đã và đang mở rộng thanh tốn
khơng dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Điều này một mặt trực tiếp
tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, mặt khác khi công tác thanh tốn khơng


dùng tiền mặt tăng, việc tập trung tiền mặt vào tài khoản ngân hàng sẽ giảm chi phí bảo
quản và cất giữ tiền tệ tại doanh nghiệp.
Đồng thời, nếu thanh tốn qua ngân hàng nhanh chóng sẽ thúc đẩy q trình lưu
thơng hàng hóa. Do đó, giảm bớt chi phí bảo quản hàng hóa.
 Tín dụng phản ánh q trình hoạt động của nền kinh tế.

Trong quá trình thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại tiền tệ, tín dụng có
khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế.
Thể hiện qua các mặt khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu của nền kinh tế.
Mặt khác qua nghiệp vu cho vay, ngân hàng có thể thấy cấu trúc tài chính của từng
đơn vị vay vốn.Từ đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh
tế nhà nước.
Bên cạnh đó, qua các số liệu được phản ánh trên tài khoản tiền gửi, ngân hàng có
điều kiện tăng cường vai trị kiểm sốt bằng tiền đối với các đơn vị kinh tế.
Ngồi ra, khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt, tín dụng có thể phản ánh q
trình phân phối sản phẩm kinh tế quốc dân trong nền kinh tế.
1.2.2 Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.2.1 Khái niệm.
Rủi ro tín dụng là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng
bao gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng khơng giới hạn ở họat động cho vay,
mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: các
hoạt động bảo lãnh, cam kết, chấp nhận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân
hàng, những chứng khốn có giá (trái phiếu, cổ phiếu,....), trái quyền, Swap, tín dụng thuê
mua, đồng tài trợ, v.v... Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt
động ngân hàng ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của
các ngân hàng. Vì thế, ở tất cả các nước , rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm
không chỉ ở phạm vi Ngân hàng, mà cả trong nền kinh tế. Các ngân hàng ln ln tìm
kiếm lợi nhuận cực đại qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các khoản
cho vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến các hoạt động


cho vay như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ lâu dài, quy định
các mức tín dụng, vật thế chấp và hạn chế tín dụng. Dẫu sao, không một Ngân hàng nào
nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng
cho vay; sẽ luôn ln có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một loại quy
định hạn chế nào loại bỏ được chúng cả. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.

Rủi ro tín dụng là rủi ro khơng thu nợ khi đến hạn thanh toán. Việc đánh giá rủi ro
này là trách nhiệm chính của Ngân hàng. Dù cho cơ quan chức trách về tiền tệ (Ngân
hàng trung ương) không trực tiếp giám sát việc này, nhưng họ đặc biệt vẫn coi trọng việc
theo dõi rủi ro bằng cách:
-

Lập hệ số phân tán rủi ro. Hệ số này đánh giá khả năng hạn chế các rủi ro từ phía

khách hàng , phân tán rủi ro khơng tập trung vốn cho một khách hàng hoặc một số khách
hàng quá lớn.
-

Thực hiện việc kiểm tra tại chỗ chất lượng các khoản tín dụng cấp ra.
Nhưng ngồi khía cạnh quy chế, khó mà đánh giá được qua các chúng từ kế tốn.

Việc phân tích từ bên ngồi cho thấy là rủi ro tín dụng cịn có thể phụ thuộc:
-

Tính chất tín dụng, ví dụ: chiết khấu là hình thức tín dụng ít rủi ro hơn phương

thức tạm ứng trên tài khoản,..
-

Thời hạn tín dụng, tín dụng trung và dài hạn được coi là rủi ro nhiều hơn tín dụng

ngắn hạn.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, về mất lịng tin của xã hội là những tổn
thất còn lớn hơn gấp nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như “ngịi nổ” tự mình nó phá hoại
chỉ trong phạm vi hẹp nhưng khi có chất kích nổ, sự phá hoại lan truyền và sự tàn phá

khủng khiếp xảy ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của những cuộc khủng
hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế - xã hội.
1.2.2.2 Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
1.2.2.2.1 Do nguồn nhân lực.


Trình độ nghiệp vụ và năng lực của cán bộ tín dụng hạn chế: Chính điều này đã
dẫn đến những quyết định cho vay không đúng, đầu tư vào những dự án kinh doanh kém
hiệu quả. Sự hạn chế này trong quá trình thẩm định và quyết định cho vay, q trình phân
tích và đánh giá khách hàng, đánh giá doanh nghiệp đã dẫn đến đầu tư sai và dẫn đến rủi
ro tín dụng.
Đạo đức của cán bộ tín dụng: Tình trạng tham ơ tiêu cực của cán bộ tín dụng trong
nội bộ ngân hàng. Nay là vấn đề cần hết sức đặc biệt quan tâm vì nó là ngun nhân dẫn
đến rủi ro tín dụng và mức tác động ảnh hưởng là rất lớn.
1.2.2.2.2 Do yếu tố kỹ thuật
Đối với hoạt động quản trị rủi ro: Hoạt động phòng ngừa rủi ro tín dụng chủ yếu
dựa trên chính sách tín dụng. Tuy nhiên trong các ngân hàng vẫn cịn tồn tại những hạn
chế.
Các ngân hàng chưa có bộ phận quản trị rủi ro chuyên biệt để quản lý, phân loại,
tích hợp dự phịng và xử lý các khoản nợ có vấn đề nhằm phịng ngừa và hạn chế thấp
nhất rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Cán bộ tín dụng sẽ thực hiện tất cả các
nghiệp vụ khi thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng từ khâu tiếp nhận, kiểm tra điều
kiện vay, thẩm định dự án, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thanh lý hợp đồng hoặc
xử lý nợ khi có vấn đề.
Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng trong quá trình thẩm định: Hồ sơ vay
vốn của doanh nghiệp thiếu thơng tin từ các báo cáo tài chính, nhiều doanh nghiệp chưa
tiến hành kiểm toán hoặc chậm hơn so với thời gian ngân hàng cần thông tin để sử dụng
cho q trình phân tích. Đối với khách hàng là cá nhân, thông tin về thu nhập cơ bản, thu
nhập khác kê khai không đầy đủ làm cho việc xác định dịng tiền khơng chính xác.
Cơng tác đánh giá tín dụng và xếp loại khách hàng không thống nhất: Việc chấm

điểm tín dụng và xếp loại khách hàng là q trình giúp cho ngân hàng đánh giá khả năng
thực hiện các nghiệp vụ tài chính của một khách hàng đối với ngân hàng nhằm xác định
rủi ro trong hoạt động tín dụng. Việc không thống nhất trong công tác định giá tín dụng


và xếp loại khách hàng sẽ làm cho các ngân hàng gặp trở ngại khi tham khảo thông tin
xếp loại khách hàng.
Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa cao,
việc chấp hành các quy định của ngân hàng về an toàn vốn, về tín dụng, về bảo lãnh vẫn
chưa chấp hành đầy đủ, công tác tổ chức, quản lý cán bộ tín dụng cịn nhiều bất cập.
Đối với chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng khơng hợp lý, đầu tư tín dụng
vào nhiều dự án lớn, tỉ trọng cho vay trung dài hạn cao trong khi đó nguồn vốn dài hạn
thấp. Cùng với những vấn đề mang tính kỹ thuật: đánh giá tài sản đảm bảo, định kỳ hạn
nợ không hợp lý cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn và rủi ro tín dụng.
1.2.2.2.3 Do yếu tố thị trường, yếu tố khách hàng.
Biến động giá cả, đặc biệt là giá cả hàng hóa chủ lực, đã tác động ảnh hưởng đến
việc triển khai thực hiện dự án, đến hiệu quả dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng
và gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng.
Do khách hàng bị thua lỗ hay thất bại trong cạnh tranh, hoặc các doanh nghiệp vay
vốn khơng thích nghi được mơi trường kinh doanh mới, hoặc có ý muốn chủ quan người
đi vay cố tình khơng trả nợ. Đây là trường hợp xấu nhất trong các nguyên nhân chủ quan
dẫn đến rủi ro tín dụng. Loại nguyên nhân được xếp vào nguyên nhân rủi ro về tư cách
đạo đức của người đi vay.
1.2.2.2.4 Do yếu tố môi trường và công cụ pháp lý.
Đây là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng phát sinh rủi ro tín dụng,
cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn.
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ mơi trường kinh tế, trong nền kinh tế tăng
trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội cịn lớn thì hoạt động sản
xuất kinh doanh cịn có nhiều điều kiện tốt để phát triển và ngược lại. Khi nền kinh tế có

hiện tượng lạm phát tăng vọt sẽ kéo theo đồng tiền nội bộ bị mất giá, dẫn đến sản xuất


kinh doanh trong nước trở nên khó khăn. Khiến khả năng thu hồi vốn tín dụng trở nên
phức tạp.

1.3 Tổng quan về xếp hạng tín dụng nội bộ.
1.3.1 Khái niệm:
Xếp hạng tín dụng nội bộ là việc phân tích, đánh giá, cho điểm và phận loại khách
hàng theo hai hạng mục rủi ro và lợi ích đối với Ngân hàng.
 Xếp hạng rủi ro: Là kết quả phân tích và đánh giá về khả năng hoạt động, thực
hiện các nghĩa vụ thanh toán và trả nợ của khách hàng trong mơi trường kinh doanh.
 Xếp hạng lợi ích: Là đánh giá các lợi ích mà khách hàng mang lại cho Ngân hàng
trong quá trình hoạt động; bao gồm: trả lãi tiền vay, phí trả cho các dịch vụ và số dư tiền
gởi bình quân tại Ngân hàng so với những khách hàng khác.
1.3.2 Mục đích xếp hạng tín dụng nội bộ.
-

Xếp hạng tín dụng nội bộ được thực hiện nhằm hỗ trợ Ngân hàng biết rõ tình hình

“lành mạnh” của khách hàng. Dựa vào kết quả này, Ngân hàng sẽ đưa ra quyết định cho
vay hoặc từ chối, tăng hoặc giảm hạn mức tín dụng, áp dụng các ưu đãi về lãi suất cho
vay, lãi suất tiền gởi cũng như các loại phí dịch vụ nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng và
Ngân hàng.
 Ra quyết định cấp tín dụng: Xác định hạn mức của một khách hàng, số tiền cho
vay/ bảo lãnh, thời hạn, mức lãi suất/ phí, biện pháp bảo đãm cho khoản tín dụng
 Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ,
hạng khách hàng cho phép Ngân hàng lường trước những dấu hiệu xấu về chất lượng
khoản vay và có những biện pháp xử lý kịp thời.
 Hỗ trợ việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của Ngân hàng

 Phát triển chiến lược Marketing nhằm hướng tới khách hàng ít rủi ro.


1.3.3 Phân nhóm khách hàng:
Do tính chất khác nhau giữa các khách hàng nên việc xếp hạng khách hàng được
chia thành hai nhóm: Khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân.
-

Khách hàng doanh nghiệp: Bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngồi

nước có đủ năng lực và tư cách pháp nhân đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với Ngân
hàng.
-

Khách hàng cá nhân: Bao gồm cá nhân và hộ gia đình có đủ năng lực và hành vi

dân sự đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
1.3.4 Cơng cụ xếp hạng khách hàng:
Xếp hạng tín dụng nội bộ được Ngân hàng xây dựng thành quy trình hoạt động cụ
thể. Qua đó, việc xếp hạng khách hàng thường được dựa vào những chỉ tiêu tài chính và
phi tài chính
 Chỉ tiêu tài chính: Là cơng cụ để chấm điểm tín dụng dựa trên một số chỉ số tài
chính căn bản như chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu cân nợ, vốn, chỉ tiêu hoạt động.
 Chỉ tiêu phi tài chính: Là các chỉ số định tính như năng lực và kinh nghiệm của
lãnh đạo, vị trí trên thị trường, quan hệ với khách hàng, với Ngân hàng.
1.3.5 Vai trò và tầm quan trọng của việc xếp hạng tín dụng nội bộ:
 Về phân loại khách hàng: Xếp hạng tín dụng nội bộ hỗ trợ việc phân loại khách
hàng một cách tương đối chính xác thơng qua các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Qua
đó, khách hàng được chia thành nhiều nhóm với từng thang điểm cụ thể. Những khách
hàng sau khi đã được phân nhóm, Ngân hàng có thể theo dõi theo từng thời kỳ và điều

chỉnh phù hợp qua từng giai đoạn để ra những quyết định đúng đắn nhằm bảo vệ lợi ích
của khách hàng và hạn chế rủi ro cho Ngân hàng đến mức thấp nhất.
 Về quyết định cấp tín dụng: Xếp hạng khách hàng giúp cho Ngân hàng ra quyết
định cấp tín dụng cho khách hàng một cách khách quan hơn. Quyết định cấp tín dụng ban


đầu chính xác sẽ hạn chế được những rủi ro tiềm tàng, giúp cho hoạt động tín dụng của
Ngân hàng ngày một hiệu quả hơn.
 Về phân loại nợ: Xếp hạng tín dụng nội bộ là một cơng cụ hiệu quả trong việc
phân loại nợ. Việc dựa vào nhiều chỉ tiêu, nhiều phương thức khác nhau để phân loại nợ
giúp cho việc phân loại nợ được chính xác và khách quan hơn. Qua đó, Ngân hàng ra
quyết định tăng hoặc giảm hạn mức tín dụng đối với khách hàng, áp dụng các ưu đãi hoặc
chế tài trong những trường hợp đặc biệt. Đồng thời, qua việc xếp hạng khách hàng, Ngân
hàng kịp thời có những biện pháp nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, bảo vệ lợi
ích của khách hàng và Ngân hàng một cách hiệu quả nhất.

1.3.6 Hiệu quả của việc xếp hạng tín dụng nội bộ.
Kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ hỗ trợ ngân hàng ra quyết định cấp tín dụng: Hệ
thống chấm điểm và XHTD nội bộ giúp NHTM quản trị RRTD bằng phương pháp tiên
tiến, giúp kiểm soát được mức độ tín nhiệm của khách hàng, là cơ sở để ra quyết định cho
vay, thiết lập hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm… phù hợp với
dự báo rủi ro của từng nhóm khách hàng.
Chủ động đánh giá và giám sát khách hàng trong quá trình theo dõi nợ vay để có
những biện pháp đối phó kịp thời: Trong quá trình ngân hàng định kỳ tiến hành chấm
điểm xếp hạng lại doanh nghiệp, khi kết quả xếp hạng của khách hàng thấp hơn kết quả
trước đó chính là dấu hiệu thể hiện khoản vay đang có vấn đề, doanh nghiệp bắt đầu có
dấu hiệu khơng tốt, để từ đó ngân hàng có biện pháp phịng ngừa, hạn chế rủi ro kịp thời
như giảm dần hạn mức, yêu cầu doanh nghiệp bổ sung thêm tài sản đảm bảo.
Hỗ trợ ngân hàng quản lý và điều chỉnh danh mục tín dụng: Ngồi ra NHTM có
thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua tái XHTD nội bộ, qua đó điều chỉnh

danh mục tín dụng theo hướng ưu tiên nguồn lực vào những nhóm khách hàng an tồn, từ
đó, ngân hàng sẽ thiết lập một danh mục tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra và
tăng lợi nhuận cho ngân hàng.


XHTD là công cụ để thực hiện phân loại nợ theo thông lệ quốc tế: Theo Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN yêu cầu các TCTD phải thực hiện phân loại nợ theo Điều 7
của QĐ trên cơ sở đánh giá toàn diện năng lực tài chính và khả năng trả nợ của khách
hàng để từ đó có cái nhìn chính xác và trung thực về chất lượng tín dụng tại ngân hàng.
Muốn thực hiện được phân loại nợ theo Điều 7 thì các TCTD phải xây dựng thành công
đề án XHTD nội bộ của mình và được NHNN cho phép thực hiện.



×