LỜI NĨI ĐẦU
Trong q trình mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới chúng ta đã đạt
được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt như kinh tế chính trị, ngoại
giao vv… Đặc biệt về mặt hợp tác kinh tế, nhờ vào quá trình hội nhập kinh tế đã tạo
ra những cơ hội hợp tác kinh tế, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong
nước với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong quá trình hội nhập kinh tế
thì đầu tư trực tiếp nước ngồi là một hình thức đầu tư phổ biến và thu hút được
nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định cũng như của các doanh nghiệp.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng trở nên quan trọng với
chúng ta bởi FDI không chỉ là nguồn cung cấp vốn quan trọng mà cịn là con đường
cung cấp cơng nghệ hiện đại, những bí quyết kĩ thuật đặc biệt là những kinh
nghiệm trong quản lý và là cơ hội tốt cho Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế thế
giới. Vì thế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong giai đoạn hiện nay đồng thời chúng ta phải có những giải pháp phù
hợp để các doanh nghiệp liên doanh hoạt động mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn này.
Sau thời gian học môn Luật Kinh tế, tôi xin chọn đề tài: "Một số vấn đề pháp
lý về doanh nghiệp liên doanh" để viết bài tiểu luận môn học.
Trang 1
PHẦN I
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI DOANH
NGHIỆP LIÊN DOANH.
1.1. KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
Vậy bản chất của doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh tế được hình
thành trên cơ sở góp vốn của các tổ chức kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau hoạt
động trong những lĩnh vực nhất định.
Trên thực tế thường có các quan niệm doanh nghiệp liên doanh là một cơng
ty được hình thành do sự cùng tham gia của hai hoặc nhiêu công ty khác nhau. Theo
quan niệm này, một xí nghiệp liên doanh phải được hình thành ít nhất từ hai cơng ty
khác nhau. Các cơng ty có thể cùng quốc tịch hoặc khác quốc tịch. Trong quan niệm
này khía cạnh pháp lý hầu như chưa được đề cập đến.
Một quan niệm khác coi “ Liên doanh là sự cùng làm chủ của hai hãng hoặc
một hãng và chính phủ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Liên doanh làm cho
tổng số vốn được sử dụng lớn hơn trong việc cung ứng hàng hoá và dịch vụ, và có
thể có hiệu quả đặc biệt trong việc khai thác nguồn, bổ sung đối với một bên, chẳng
hạn đóng góp tri thức về q trình sản xuất và đóng góp kiến thức về thị trường.
Quan niệm này chỉ ra liên doanh là sự cùng làm chủ của hai hãng hoặc một
hãng và chính phủ đối với việc sản xuất – kinh doanh. Điều này nhấn mạnh đến khía
cạnh sở hữu của liên doanh và số lượng các bên tham gia vào liên doanh. Liên
doanh thuộc quyền sở hữu của cả hai bên tham gia liên doanh. Hai bên có thể là 2
hãng, hoặc một bên là một doanh nghiệp và một bên là chính phủ nhằm thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
Tuy vậy, quan niệm này mới chỉ dừng lại ở liên doanh với sự tham gia của 2
bên. Trên thực tế, số lượng các bên tham gia vào liên doanh cịn có thể lớn hơn.
Ngồi ra, trong quan niệm, khía cạnh pháp lý chưa được đề cấp xác đáng. Hơn nữa,
liên doanh không chỉ dừng lại ở lĩnh vực sản xuất – kinh doanh mà còn cả trogn
hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Theo Luật đầu tư nước ngồi 2000 thì “doanh nghiệp liên doanh” là doanh
nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
Trang 2
đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngồi hoặclà doanh nghiệp do doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với nhà đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Như vậy các đối tác trong liên doanh doanh với nước ngoài bao gồm:
Một bên Việt Nam và một bên nước ngoài
Một bên Việt Nam và nhiều bên nước ngoài
Nhiều bên Việt Nam và 1 bên nước ngoài
Nhiều bên Việt Nam và nhiều bên nước ngồi
Theo Luật đầu tư nước ngồi thì doanh nghiệp liên doanh được tổ chức dưới
dạng công ty TNHH hoặc chuyển hố thành cơng ty cổ phần. Thời gian hoạt động
của doanh nghiệp liên doanh không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt không
quá 70 năm.
Những đặc trưng của doanh nghiệp liên doanh có thể mơ tả bằng mơ hình
sau:
DOANH
NGHIỆP LIÊN
DOANH
Đặc trưng về
kinh doanh
Cùng
sở
hữu
vốn
Cùng
tham
gia
quản
lý
Cùng
phân
chia
lợi
nhuận
Đặc trưng về
pháp lý
Cùng
chia
sẻ rủi
ro
DNLD
hoạt
động
theo hợp
đồng liên
doanh,
điều lệ
DNLD
có
tư cách
pháp nhân
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
Trang 3
1.2.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch FDI trên cơ sở chiến lược và quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Sau khi có chủ trương về chuyển đổi cơ chế từ cơ chế tập trung chuyển sang
cơ chế thị trườn với nhiều thành phần kinh tế Đảng và nhà nước ta đã thừa nhận
kinh tế nước ngoài và coi nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là một nguồn vốn quan
trọng trong phát triển kinh tế. Từ đại hội Đảng tồn quốc lần thứ sáu đến nay, vai trị
của FDI luôn được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng và thực chất nó đã
chiếm một vai trị quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Đại hội
Đảng toàn quốc VIII nâng tầm quan trọng của kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi lên
một bước với việc đưa kinh tế vốn đầu tư nước ngoài trở thành một thành phần kinh
tế bên cạnh kin tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Như vậy, trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội chúng ta đã thừa nhận vai trò quan trọng của kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi đặc biệt là các nguồn FDI.
1.2.2 Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách FDI
Trên cơ sở chiến lược, định hướng phát triển kinh tế – xã hội của toàn bộ nền
kinh tế, Nhà nước đề ra mục tiêu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế và thị trường. Thể hiện dưới các định
hướng sau:
Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi vào các
ngành cơng nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp
phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi
thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi vào những địa bàn có nhiều lợi thế
để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng
khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho
đầu tư trực tiếp nước ngồi vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn
này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực
Trang 4
tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi vào các Khu cơng
nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt.
Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngồi có tiềm năng lớn
về tài chính và nắm cơng nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục
thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các
tập đồn, cơng ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các cơng ty có quy
mơ vừa và nhỏ, nhưng cơng nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Từ những định hướng các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch hành động
cũng như các chính sách khuyến khích, ưu tiên, nhằm thu hút được nguồn vốn FDI,
đầu tư dưới các hình thức khác nhau, trong đó có hình thức DNLD.
Các địa phương bám chặt vào những hướng dẫn của Nhà nước, và từ thực tế
của địa phương đề ra những quyết sách khác nhau cho địa phương mình, với xu
hướng tích cực đầu tư vào các doanh nghiệp hiện có tại địa phương, và thành lập
thêm các doanh nghiệp mới.
Như vậy, ngành, nghề hoạt động, lãnh thổ và thị trường của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi về cơ bản đã được Nhà nước định hướng phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của đất nước từ Trung ương đến địa phương.
Bên cạnh việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, Nhà nước cịn xây
dựng các chính sách đầu tư nước ngồi. Nhà nước đảm bảo cho hệ thống chính sách
khuyến khích đầu tư nước ngoài được mềm dẻo, hấp dẫn, đồng bộ và ổn định. Các
chính sách khuyến khích đầu tư được soạn thảo và ban hành trong nhiều lĩnh vực
khác nhau như: chính sách ưu đãi thuế, tiền thuê mặt bằng, th đất, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng; chính sách thúc đẩy xuất khẩu; chính sách tiền tệ, thu nhập; chính
sách hỗ trợ nguồn nhân lực, đào tạo nghề
1.2.3. Công tác thẩm định và cấp giấy phép dự án
Việc cấp giấy phép đầu tư được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính
phủ số 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 Quy định chi tiết thi hành Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được sửa đổi bổ sung bởi nghị định 27/2003/NĐCP ngày 19 tháng 3 năm 2003.
Trang 5
Về thẩm quyền cấp giấy phép
Thẩm quyền quyết định dự án đầu tư tuỳ thuộc vào các dự án thuộc nhóm A,
B hay C. Theo đó:
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A gồm:
*Các dự án không phân biệt quy mô vốn đầu tư thuộc các lĩnh vực:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao,
Khu đô thị; dự án BOT, BTO, BT;
- Xây dựng và kinh doanh cảng biển, sân bay; kinh doanh vận tải đường biển,
hàng khơng;
- Hoạt động dầu khí;
- Dịch vụ bưu chính, viễn thơng
- Văn hố; xuất bản, báo chí; truyền thanh, truyền hình; cơ sở khám, chữa
bệnh; giáo dục, đào tạo; nghiên cứu khoa học; sản xuất thuốc chữa bệnh cho người;
- Bảo hiểm, tài chính, kiểm tốn, giám định;
- Thăm dị, khai thác tài nguyên quý hiếm;
- Xây dựng nhà ở để bán;
- Dự án thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
* Các dự án có vốn đầu tư từ 40 triệu USD trở lên thuộc các ngành điện, khai
khoáng, luyện kim, xi măng, cơ khí chế tạo, hố chất, khách sạn, căn hộ Văn phòng
cho thuê, khu vui chơi - giải trí - du lịch;
*Các dự án sử dụng đất đô thị từ 5 ha trở lên và các loại đất khác từ 50 ha trở
lên.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định dự án nhóm B.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với những dự án quy định nhóm C
Về phân cấp cấp Giấy phép đầu tư:
Dự án đầu tư phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh
phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được duyệt;
Khơng thuộc dự án nhóm A có quy mô vốn đầu tư theo quy định của Thủ
tướng Chính phủ.
Trang 6
. Không phân cấp việc cấp Giấy phép đầu tư cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối
với dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực sau đây (không phân biệt quy mô vốn đầu tư):
Xây dựng đường quốc lộ, đường sắt;
Sản xuất xi măng, luyện kim, điện, đường ăn, rượu, bia, thuốc lá; sản xuất, lắp
ráp ôtô, xe máy;
Du lịch lữ hành.
Về nội dung và quy trình thẩm định dự án đầu tư được quy định trong nghị
định 24 như sau:
Nội dung thẩm định dự án đầu tư gồm:
- Tư cách pháp lý, năng lực tài chính của Nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam;
- Mức độ phù hợp của dự án với quy hoạch;
- Lợi ích kinh tế - xã hội (khả năng tạo năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới
và sản phẩm mới; mở rộng thị trường; khả năng tạo việc làm cho người lao động;
lợi ích kinh tế của dự án và các khoản nộp cho ngân sách,...);
- Trình độ kỹ thuật và cơng nghệ áp dụng, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài
ngun, bảo vệ mơi trường sinh thái;
- Tính hợp lý của việc sử dụng đất, định giá tài sản góp vốn của Bên Việt Nam
(nếu có).
Quy trình thẩm định dự án do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư
- Đối với dự án nhóm A, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ, ngành
và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định. Trường hợp có ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức họp tư vấn với đại diện có thẩm quyền của các cơ
quan có liên quan để xem xét dự án trước khi trình Thủ tướng Chính phủ. Tùy từng
trường hợp cụ thể, Thủ tướng Chính phủ có thể yêu cầu Hội đồng thẩm định Nhà
nước về các dự án đầu tư nghiên cứu và tư vấn để Thủ tướng Chính phủ xem xét
quyết định;
- Đối với dự án nhóm B thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân
cấp tỉnh có liên quan trước khi xem xét, quyết định.
- Thời hạn thẩm định dự án:
Trang 7
+ Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ tới các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh liên
quan lấy ý kiến.
+ Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, các
Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có ý kiến bằng văn bản gửi Bộ Kế hoạch và
Đầu tư về nội dung dự án thuộc phạm vi quản lý của mình; quá thời hạn trên mà
khơng có ý kiến bằng văn bản thì coi như chấp thuận dự án.
+ Đối với dự án nhóm A, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình ý kiến thẩm định lên Thủ tướng
Chính phủ. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được Tờ trình của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định đối với dự án. Trong thời
hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thơng báo quyết định về việc cấp Giấy phép đầu tư đối với
dự án;
+ Đối với dự án nhóm B, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được hồ sơ hợp lệ , Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành việc thẩm định dự án và cấp
Giấy phép đầu tư.
Thời hạn trên đây không kể thời gian Nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ xin
cấp Giấy phép đầu tư.
Mọi yêu cầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với Nhà đầu tư về việc sửa đổi,
bổ sung hồ sơ dự án được thực hiện bằng văn bản trong vòng 20 ngày làm việc kể từ
ngày nhận hồ sơ hợp lệ .
Sau khi hết thời hạn quy định nêu trên mà không cấp Giấy phép đầu tư, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn bản cho Nhà đầu tư nêu rõ lý do, đồng sao gửi
cho các cơ quan có liên quan.
- Việc cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự án trong các Khu công nghiệp,
Khu chế xuất và Khu công nghệ cao thực hiện theo cơ chế uỷ quyền của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
Quy trình thẩm định đối với các dự án do Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh cấp
Giấy phép đầu tư
Thời hạn thẩm định dự án và cấp Giấy phép đầu tư:
Trang 8
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban
Nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ dự án tới Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật và các Bộ,
ngành liên quan lấy ý kiến đối với dự án.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, các Bộ,
ngành có ý kiến bằng văn bản gửi Uỷ ban Nhân dân tỉnh về nội dung dự án thuộc
phạm vi quản lý của mình; quá thời hạn trên mà khơng có ý kiến bằng văn bản thì
coi như chấp thuận dự án.
Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban
Nhân dân cấp tỉnh hoàn thành việc thẩm định dự án và cấp Giấy phép đầu tư.
Thời hạn trên đây không kể thời gian Nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ xin
cấp Giấy phép đầu tư.
Mọi yêu cầu của Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh đối với Nhà đầu tư về việc sửa
đổi, bổ sung hồ sơ dự án được thực hiện bằng văn bản trong vòng 20 ngày làm việc
ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ .
Sau khi hết thời hạn quy định nêu trên mà không cấp Giấy phép đầu tư, Uỷ
ban Nhân dân cấp tỉnh thông báo bằng văn bản cho Nhà đầu tư nêu rõ lý do, đồng
thời sao gửi cho các cơ quan có liên quan.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy phép đầu tư, Giấy phép
điều chỉnh, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh gửi bản gốc Giấy phép đầu tư, Giấy phép
điều chỉnh đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư và bản sao đến Bộ Tài chính, Bộ Thương
mại, Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên
quan
Như vậy việc cấp giấy phép đầu tư được phân cấp quản lý theo từng lĩnh vực
đầu tư và số vốn đầu tư. Các DNLD sẽ được cấp phép đầu tư sau khi đơn và hồ sơ
dự án được các cấp có thẩm quyền thẩm định và tiến hành cấp giấy phép đầu tư.
Cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể điều chỉnh nội dung trong giấy phép
đầu tư đối với các dự án đã được cấp giấy phép nhwng trong q trình triển khai cần
có những điều chỉnh về mục tiêu dự án, thay đổi đối tác, tăng vốn, thay đổi mức ưu
đãi.... Để giúp các doanh nghiệp có những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo hoạt động
có hiệu quả, cơ quan quản lý nhà nước xem xét, cấp giấy phép chia tách, hoặc hợp
nhất các doanh nghiệp khi có đề nghị từ các doanh nghiệp, thậm chí dưa ra các
Trang 9
quyết định về việc chấm dứt hoạt động và thu hồi giấy phép đầu tư đối với các
trường hợp giải thể trước thời hạn.
Quy định về tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh.
Đối với liên doanh nói chung, tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam càng cao càng
tốt, nhất là đối với các dự án quan trọng, tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi
vốn nhanh. Nhà nước khuyến khích các đối tác Việt Nam cùng góp vốn chung để có
được cổ phần hoặc vốn góp lớn hơn trong các liên doanh, đưa ra các chính sách cụ
thể trong việc huy động vốn trong nước cho những lĩnh vực thu lợi nhuận nhanh và
lôi kéo các ngân hàng của Việt nam vào cuộc. Cụ thể như sau:
- Vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu
tư. Đối với các dự án xây dựng cơng trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn
khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mơ lớn, tỷ lệ này có thể thấp
hơn, nhưng khơng dưới 20% vốn đầu tư và phải được Cơ quan cấp Giấy phép đầu
tư chấp thuận.
- Tỷ lệ góp vốn của Bên hoặc các Bên liên doanh nước ngoài do các Bên liên
doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của Doanh
nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả
kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp Giấy phép
đầu tư có thể xem xét cho phép Bên liên doanh nước ngồi có tỷ lệ góp vốn thấp
hơn, nhưng khơng dưới 20% vốn pháp định.
Trường hợp thành lập Doanh nghiệp liên doanh mới, tỷ lệ góp vốn pháp định
của các Nhà đầu tư nước ngoài phải bảo đảm điều kiện nêu trên.
- Đối với những dự án quan trọng theo quy định của Chính phủ, khi ký kết
Hợp đồng liên doanh, các Bên liên doanh thoả thuận việc tăng tỷ lệ góp vốn của Bên
Việt Nam trong vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh.
Bên cạnh đó, nhà nước cịn có biện pháp tính tốn, kiểm sốt chặt chẽ về giá
cả, máy móc thiết bị, cơng nghệ của phía nước ngồi để tránh tình trạng nước ngồi
nâng giá q cao gây thiệt hại không chỉ bên Việt nam mà cho cả lợi ích của Nhà
nước Việt Nam.
Kiểm sốt, giám sát việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ.
Trang 10
Nhà nước quản lý q trình chuyển giao cơng nghệ, nhập máy móc, thiết bị
của các doanh nghiệp có vốn dầu tư trực tiếp nước ngoài để tránh trường hợp các
doanh nghiệp nhập khẩu những công nghệ đã lạc hậu. Tuy nhiên, việc lựa chọn
cơng nghệ phải mang tính loại trừ, tức là phải hi sinh một mục tiêu khác. Muốn tạo
được nhiều việc làm thì phải hi sinh mục tiêu cơng nghệ và ngược lại, muốn só có
cơng nghệ cao thi phải hi sinh mục tiêu tạo việc làm.
Trên giác độ quản lý nhà nước nhất thiết phải quy định cụ thể những lĩnh vực
nào phải nhập thiết bị và công nghệ mới, những lĩnh vực nào cho phép nhập những
công nghệ đã qua sử dụng... để tránh nhập khẩu tràn lan.
Tuy nhiên, thiết bị, máy móc, vật tư nhập khẩu phải đáp ứng những yêu cầu
sau:
- Thiết bị, máy móc, vật tư nhập khẩu vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư
phải bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng, phù hợp với yêu cầu sản xuất, yêu cầu về bảo
vệ mơi trường, an tồn lao động nêu trong giải trình kinh tế - kỹ thuật, thiết kế kỹ
thuật và các quy định về nhập khẩu thiết bị, máy móc.
- Trừ thiết bị, máy móc đã qua sử dụng thuộc danh mục cấm nhập khẩu,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các Bên hợp doanh được quyền quyết định
và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của việc nhập khẩu thiết bị, máy
móc đã qua sử dụng và đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo
quy định của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Lao động, tiền lương trong doanh nghiệp liên doanh.
Nhà nước ban hành các quy định về chức năng cung ứng lao động đối với các
đơn vị cung ứng lao động và chủ những đơn vị nào có đủ điều kiện và được Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội cấp chứng chỉ hành nghề thì mới được hoạt động
cung ứng lao động cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Xét về mặt phát triển dài hạn, nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị
trường lao động Việt Nam tồn tại và phát triển một cách đầy đủ đúng luật. Nhà
nước quy định bắt buộc với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chấp hành
nghiêm chỉnh những chính sách, chế độ về tuyển dụng lao động như: Thời gian thử
việc, chế độ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm
Trang 11
xã hội, bồi dưỡng nâng cao tay nghề và các quyền lợi chính đáng khác của người lao
động...
DNLD tuyển dụng lao động Việt Nam thông qua các tổ chức cung ứng lao
động Việt Nam. Sau thời hạn tối đa 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cung ứng
lao động của DNLD mà tổ chức cung ứng lao động Việt Nam khơng đáp ứng được
thì DNLD được trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam. Khi có nhu cầu sử dụng
lao động nước ngoài, DNLD làm thủ tục tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
hoặc Ban quản lý Khu công nghiệp để được xem xét cấp Giấy phép lao động theo
quy định của pháp luật về lao động.
Mức lương tối thiểu và lương của lao động Việt Nam làm việc trong DNLD
được quy định và trả bằng tiền đồng Việt Nam. Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội công bố mức lương tối thiểu theo từng thời kỳ.
Mức lương tối thiểu và lương của lao động Việt Nam có thể được điều chỉnh
khi chỉ số giá tiêu dùng tăng từ 10% trở lên so với lần điều chỉnh gần nhất.
Việc tiếp nhận, thẩm định và cấp phép cho các dự án được tiếp tục thực hiện
theo quyết định phân cấp của Thủ tướng Chính phủ và quyết định ủy quyền của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho các Ban Quản lý KCN-KCX. Công tác thẩm
định cấp phép đầu tư được tiến hành chặt chẽ. Tuy nhiên thủ tục thẩm định vẫn còn
phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án kéo dài do các văn bản pháp quy và quy
hoạch phát triển ngành chưa rõ ràng, phần khác đối với khơng ít dự án thiếu ý kiến
thống nhất giữa các Bộ, ngành.
1.2.4. Ban hành hệ thống luật pháp và Kiểm tra giám sát việc chấp
hành pháp luật của các đơn vị liên doanh.
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN đã được cải
thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thơng thống, thuận lợi hơn cho hoạt
động ĐTNN.
Riêng từ năm 2000, sau khi Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật ĐTNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31
tháng 7 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Ngày
19/3/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định 24/2000/NĐ-CP theo hướng: mở rộng lĩnh vực khuyến khích
Trang 12
ĐTNN; xóa bỏ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với một số sản phẩm công nghiệp cũng
như những hạn chế về tỷ lệ vốn góp bằng chuyển giao cơng nghệ và về tuyển dụng
lao động; quy định cụ thể, minh bạch hơn các tiêu chí áp dụng ưu đãi đầu tư... Nghị
định 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 của Chính phủ về việc chuyển đổi
một số doanh nghiệp ĐTNN sang hoạt động theo hình thức cơng ty cổ phần để tạo
cơ sở pháp lý nhằm đa dạng hóa hình thức ĐTNN, mở thêm kênh mới để thu hút
nguồn vốn này; Ngồi ra Chính phủ cũng đã có Quyết định 146/2003/QĐ-TTg ngày
11/3/2003 về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN trong các doanh nghiệp
Việt Nam.
Hệ thống các văn bản có liên quan đến hoạt động ĐTNN cũng tiếp tục được
bổ sung, hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua các luật: Luật Đất đai (sửa đổi), Bộ
Luật lao động (sửa đổi), Luật Xây dựng, Luật Thủy sản... Luật Thuế TNDN và các
văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ 01/1/2004 đã quy định danh mục lĩnh
vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng như thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất
cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một số tiêu
chí áp dụng ưu đãi mới nhằm khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng cơng nghệ,
kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động. Ngoài một số hạn chế cần được nghiên cứu
giải quyết trong thời gian tới, việc ban hành các văn bản nói trên là bước tiến quan
trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư
trong nước và ĐTNN. Tại kỳ họp thứ 4, tháng 11 năm 2003, Quốc hội đã thơng qua
Chương trình xây dựng pháp luật năm 2004, trong đó có việc chuẩn bị xây dựng
Luật Đầu tư chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi. Chính phủ đã giao
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành hữu quan nghiên cứu xây
dựng dự án Luật Doanh nghiệp áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế.
Khung pháp lý song phương và đa phương về đầu tư tiếp tục được hoàn
thiện.
Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực tháng 12/2001
mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN tiếp cận thị
trường Hoa Kỳ và tạo điều kiện để thu hút ĐTNN vào các lĩnh vực có lợi thế xuất
khẩu vào thị trường này. Mặt khác, những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định này
Trang 13
cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về
ĐTNN. Nhiều cam kết đã được thực thi ngay khi Hiệp định có hiệu lực (xóa bỏ sự
phân biệt đối xử giữa người tiêu dùng trong và nước ngồi về giá, phí một số hàng
hóa, dịch vụ; giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối,
sử dụng đất đai).
Cùng với việc triển khai thực hiện BTA, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp
định song phương về đầu tư với một số đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam
(Vương Quốc Anh, Hàn Quốc..). Trong tháng 11/2003, Hiệp định về tự do hóa,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam- Nhật Bản đã được ký kết với những cam
kết mạnh mẽ của hai Bên trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi,
minh bạch, ổn định và bình đẳng cho các nhà đầu tư. Tháng 12/2003, Sáng kiến
chung Việt Nam- Nhật Bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã
được công bố với các nhóm giải pháp cơ bản, gồm: xây dựng và thực hiện chính
sách thu hút đầu tư; hồn thiện khung pháp luật về ĐTNN; nâng cao năng lực của
các cơ quan chính phủ; cải tiến thủ tục đầu tư; phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội.
Cơ chế pháp lý đa phương về đầu tư cũng tiếp tục được củng cố, mở rộng
với việc Chính phủ Việt Nam ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về Khu
vực đầu tư ASEAN, tham gia Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện
ASEAN- Trung Quốc và các Hiệp định tương tự với Nhật Bản, ấn Độ, đồng thời
tích cực triển khai Chương trình hành động về tự do hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư
trong khn APEC, ASEM... Việc thực hiện các cam kết/thỏa thuận song phương và
đa phương về đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để các nhà ĐTNN tiếp cận rộng rãi hơn
với thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, đồng thời góp phần thiết
lập một khung pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cải thiện mạnh
mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 61/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó
có việc thành lập Cục ĐTNN tạo điều kiện để thống nhất đầu mối quản lý nhà nước
về ĐTNN.
Công tác xúc tiến đầu tư:
Trang 14
Thực hiện Nghị quyết 09 của Chính phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính
phủ, từ năm 2001 trở lại đây công tác vận động, xúc tiến đầu tư tiếp tục được cải
tiến, đa dạng về hình thức( kết hợp trong khuôn khổ các chuyến thăm của Lãnh đạo
cấp cao Đảng, Chính phủ tại Nhật, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc qua hội
thảo, tiếp xúc, trao đổi).... Việc gắn chặt hơn các hoạt động ngoại giao với hoạt
động xúc tiến đầu tư và thương mại đã có tác động tích cực đối với việc thu hút
ĐTNN vào Việt Nam. Thêm vào đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các ngành, các
địa phương tổ chức hàng chục hội thảo xúc tiến đầu tư khác ở trong và ngoài nước,
thể hiện sự chuyển biến tích cực về nhận thức của chính quyền các địa phương trong
việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên,
để chấn chỉnh tình trạng tự phát, nội dung hội thảo đơn điệu, kém hiệu quả của các
hội thảo xúc tiến đầu tư, Bộ trưởng Bộ KH & ĐT ký công văn số 4416 BKH/ĐTNN
ngày 22/7/2003 nhằm hướng dẫn, nâng cao chất lượng xúc tiến đầu tư của các địa
phương.
1.2.5. Các chức năng khác quản lý nhà nước về kinh tế
Ngồi các chức năng trên nhà nước cịn tác động đến hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài thông qua một số chức năng khác.
Hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được phân cấp ở trung
ương và địa phương trong đó trung ương chủ yếu quyết định các vấn đề vĩ mô như
các vấn đề về chính sách, khung pháp lý đối với các hoạt động đầu tư. Ngồi ra
trung ương cịn đóng một vai trị quan trọng trong việc tạo mơi trường đầu tư và ký
kết các văn bản đầu tư hay tham gia vào các tổ chức kinh tế.
Mỗi địa phương tuỳ theo tình hình cụ thể lại có những cách riêng để quản lý
hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngồi. Các địa phương trong thẩm quyền của
mình có thể đưa ra các chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài riêng
trong khung pháp lý cho phép. Mặt khác do điều kiện về địa lý, trình độ nhân lực và
điều kiện về công nghệ khác nhau nên các địa phương lại có những chính sách cụ
thể riêng biệt về FDI.
Trang 15
Trang 16
PHẦN II
PHƯƠNG HƯỚNG HỒN THIỆN MƠI TRƯỜNG ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT
TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP LIÊN DOANH
2.1. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1.1 Kết quả thu hút vốn ĐTNN:
Đến hết năm 2003, cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5.424 dự án ĐTNN với
tổng vốn đăng ký 54,8 tỷ USD, trong đó có 4.376 dự án FDI còn hiệu lực với tổng
vốn đầu tư đăng ký 41 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng
lớn nhất, chiếm 66,9% về số dự án và 57,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là
lĩnh vực dịch vụ, chiếm 19,5% về số dự án và 35,8% về số vốn đầu tư đăng ký; lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 13,6% về số dự án và 7% về vốn đầu tư đăng ký.
Trong số 64 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Singapore đứng
đầu, chiếm 6,6% về số dự án và 19% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là Đài
Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông.
Việt kiều từ 15 nước khác nhau đã đầu tư 63 dự án với vốn đầu tư đăng ký 208,67
triệu USD, chỉ bằng 0,5% tổng vốn đầu tư, quy mô bình qn của một dự án thấp
hơn quy mơ bình quân của cả nước. Vốn đầu tư của Việt kiều chủ yếu là từ ba nước:
CHLB Đức, Liên bang Nga và Pháp.
Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi vẫn là những địa phương
dẫn đầu thu hút ĐTNN. Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước, chiếm 31,2% về
số dự án và 26% về vốn đăng ký. Hà Nội đứng thứ hai, chiếm 11% về số dự án và
11,1% về vốn đăng ký. Tiếp theo là Đồng Nai và Bình Dương. Riêng vùng trọng
điểm phía Nam (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu)
chiếm 56% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà
Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 26,3% tổng vốn
ĐTNN đăng ký của cả nước.
Đến hết năm 2003, có khoảng 1.400 dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX
(không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, với tổng vốn đăng
ký 11.145 triệuUSD, bằng 26,7% tổng vốn ĐTNN cả nước.
(nguồn trang Web chính thức của Bộ kế hoạch đầu tư)
Trang 17
2.1.2. Tình hình thực hiện dự án:
Tổng vốn ĐTNN thực hiện từ năm 1988 đến nay đạt hơn 28 tỷ USD (gồm cả
vốn thực hiện của các dự án hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn); trong đó vốn
nước ngoài khoảng 25 tỷ USD, chiếm 89% tổng vốn thực hiện. Riêng thời kỳ
1991-1995, vốn thực hiện đạt 7,15 tỷ USD, thời kỳ 1996-2000 đạt 13,4 tỷ USD.
Trong 3 năm 2001-2003, vốn thực hiện đạt 7,7 tỷ USD bằng 70% mục tiêu đề ra tại
Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ cho 5 năm 2001-2005
(11 tỷ USD).
Trong q trình hoạt động, nhiều dự án triển khai có hiệu quả đã tăng vốn đăng ký,
mở rộng quy mô sản xuất. Từ 1988 tới cuối năm 2003 đã có khoảng 2.100 lượt dự
án tăng vốn đăng ký với số vốn tăng thêm trên 9 tỷ USD. Trong ba năm 2001-2003,
vốn bổ sung đạt gần 3 tỷ USD, bằng 47,6% tổng vốn đầu tư đăng ký mới.
Tính đến hết năm 2003, các dự án ĐTNN đã đạt tổng doanh thu gần 70 tỷ USD
(khơng kể dầu khí). Trong đó, riêng ba năm 2001-2003 đạt khoảng 38,8 tỷ USD.
Giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt trên 26 tỷ USD, riêng ba năm 2001-2003
đạt 14,6 tỷ USD (nếu tính cả dầu khí là 24,7 tỷ USD). Xuất khẩu của khu vực doanh
nghiệp có vốn ĐTNN tăng nhanh, bình qn trên 20%/năm đã làm cho tỷ trọng của
khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước tăng liên tục qua các
năm: năm 2001 là 24,4%, năm 2002 là 27,5% và năm 2003 là 31,4% (khơng kể dầu
khí).
Đến nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tạo việc làm cho 665 ngàn lao động trực
tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp.
Đến hết năm 2003, đã có 39 dự án kết thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký 658
triệu USD và có 1.009 dự án giải thể trước thời hạn với vốn đăng ký khoảng 12,3 tỷ
USD . Như vậy số dự án giải thể trước thời hạn chiếm gần 18,6% tổng số dự án
được cấp phép; vốn đăng ký của các dự án giải thể trước thời hạn chiếm 23% tổng
vốn đăng ký của tất cả các dự án được cấp phép.
(Nguồn Bộ kế hoạch đầu tư)
Tình hình FDI trong 6 tháng đầu năm 2005
Trong 6 tháng đầu năm 2005, vốn thực hiện của khu vực có vốn FDI ước đạt
khoảng 1,5 tỷ USD, tăng gần 8% so với cùng kỳ năm 2004; doanh thu đạt khoảng
Trang 18
11.300 triệu USD, tăng 32,9% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó doanh thu xuất
khẩu đạt khoảng 5.111 triệu USD, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm trước. Có thể nêu
ra một số doanh nghiệp FDI có giá trị doanh thu cao trong 5 tháng đầu năm 2005
như:
- Công ty xe máy Hon đa Việt Nam (số 495/GP ngày 6/01/1993), doanh thu 5
tháng đạt trên 220 triệu USD, xuất khẩu khoảng 9,5%.
- Công ty Canon Vietnam (số 2198/GP ngày 12/4/2001) doanh thu 5 tháng đạt
trên 130 triệu USD, xuất khẩu 100%.
- Cơng ty đèn hình Orion-Hannel (số 495/GP ngày 6/01/1993), có doanh thu 5
tháng đạt trên 100 triệu USD, xuất khẩu 76,5%
Nhập khẩu đạt khoảng 6.660 triệu USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm 2004.
Nộp ngân sách đạt khoảng 442 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Dự
kiến hết tháng 6 năm 2005 có 81,6 vạn lao động trực tiếp trong khu vực FDI.
Trong 6 tháng đầu năm 2005, kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
có vốn FDI đạt khá, sản lượng các loại sản phẩm do các doanh nghiệp nói trên sản
xuất ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng của cả nước. Trừ một số sản phẩm
của khối FDI sản xuất chiếm 100% sản lượng của cả nước, như dầu thơ, khí đốt, bột
ngọt; một số sản phẩm chủ yếu khác.
Trong 6 tháng đầu năm 2005, cả nước có gần 350 dự án cấp mới với tổng vốn
đầu tư đăng ký hơn 1,9 tỷ USD, tăng 24,6% về số dự án và gấp 2,3 lần về vốn đăng
ký cấp mới so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư đăng ký tập trung chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ và chủ yếu vẫn từ
các nước châu Á.
Các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm (Hà Nội, Đồng Nai, TP Hồ Chí
Minh, Bình Dương) vẫn thu hút được nhiều vốn FDI hơn các địa bàn khác, chiếm
62% tổng vốn đăng ký của cả nước.
Trang 19
Cũng trong 6 tháng đầu năm /2005 dự kiến có 222 dự án mở rộng đầu tư với
tổng vốn đầu tư tăng thêm khoảng 867 triệu USD, tăng 4,7% về vốn tăng thêm so
với cùng kỳ năm 2004.
Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, trong 6 tháng đầu năm 2005 đã thu
hút được 2,7 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm trước, đạt 60%
mục tiêu đề ra (4,5 tỷ USD).
Căn cứ kết quả 6 tháng đầu năm 2005 và trên cơ sở đánh giá môi trường đầu tư
của nước ta, các giải pháp Chính phủ đang tiến hành nhằm tăng thu hút ĐTNN cũng
như xu hướng FDI trên thế giới và khu vực, dự báo thu hút ĐTNN cả năm 2005 như
sau:
- Vốn đầu tư thực hiện: đạt 3,1 tỷ USD tăng khoảng 5% so với năm 2004, trong
đó vốn nước ngồi đưa vào chiếm khoảng 85-90%.
- Về doanh thu và xuất khẩu: Dự báo tiếp tục tăng với tốc độ cao, có thể trên
20% do năng lực sản xuất của khu vực có vốn ĐTNN được mở rộng nhờ có thêm
nhiều doanh nghiệp mới và các dây chuyền đầu tư mở rộng đi vào sản xuất kinh
doanh.
- Về thu hút vốn đầu tư mới: Năm 2005 có thể thu hút được khoảng 4,5 tỷ USD
vốn đăng ký mới.
Hiện có một số dự án lớn đang trong quá trình xem xét như:
(1) Dự án sản xuất thép không rỉ của Công ty Thiên Hưng (Đài Loan), tổng vốn
đầu tư 700 triệu USD tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;
(2) Dự án phát triển khu đô thị Tây Hồ Tây, tổng vốn đầu tư 309 triệu USD;
(3) Dự án Sài Gòn Atlantis Hotel (Hoa Kỳ), tổng vốn đầu tư 300 triệu USD;
(4) Dự án cáp biển Việt Nam-Hồng Kơng vốn đầu tư 180 triệu USD;
Ngồi ra có một số dự án cần tiếp tục xúc tiến như:
Trang 20
- Dự án Đà Lạt-Dankia với đối tác Nhật Bản có tổng vốn đầu tư khoảng 1 tỷ
USD;
- Dự án Khu Du lịch liên hợp và trung tâm thương mại Toàn cầu, tổng vốn đầu
tư khoảng 800 triệu USD do Mỹ đầu tư ở tỉnh Quảng Nam;
- Dự án cảng Cái Mép vốn đầu tư 150 triệu USD;
- Dự án Daewoo Bus, vốn đầu tư 30 triệu USD;
- Các dự án khai khoáng, luyện kim như Sắt Thạch Khê, Boxit Lâm Đồng và
Đắc Nông;
- Dự án BOT xây dựng đường cao tốc Mơng Dương-Móng Cái tại Quảng Ninh
có tổng vốn đầu tư 315,5 triệu USD…
Đồng thời, có một số dự án đang hoạt động và sẽ bổ sung vốn, mở rộng sản xuất
như dự án của Công ty Hoya Glass Disk (Nhật Bản) giai đoạn II có tổng vốn đầu tư
45 triệu USD; dự án Chinfon (Đài Loan), …
Do đó có khả năng vốn cấp mới trong năm 2005 sẽ đạt và vượt mục tiêu (4,5 tỷ
USD) đặt ra từ đầu năm vào khoảng 15% và đạt mức 5 tỷ USD hoặc trên 5 tỷ USD.
(nguồn Bộ kế hoạch đầu tư)
2.2. ĐÁNH GIÁ MẶTTÍCH CỰC HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
2. 2.1. Mặt tích cực:
Sau khủng hoảng kinh tế khu vực, từ năm 2001 đến nay, ĐTNN vào nước ta đã có
xu hướng phục hồi. Năm 2003, vốn thực hiện tăng 8,1% so với năm 2001.
ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác
và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát
triển mới cho nền kinh tế.
Tính chung từ năm 1996 đến nay vốn ĐTNN chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Thông qua vốn ĐTNN, nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai,
tài nguyên) được khai thác và đưa vào sử dụng tương đối có hiệu quả.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1993 là
3,6%/năm, năm 1995 là 6,3%, năm 1998 là 10,1%, năm 2000 là 13,3%, năm 2001 là
13,1%, năm 2002 là 13,9% và năm 2003 đã tăng lên 14,3%.
Trang 21
Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp
cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong thời kỳ 1996-2000 đạt
trên 10,6 tỷ USD (khơng tính xuất khẩu dầu thơ), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước
đó; trong 3 năm 2001-2003, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 14,6 tỷ USD, riêng
năm 2003 đạt 6,34 tỷ USD, chiếm 31,4% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Xuất
khẩu của khu vực ĐTNN chiếm tới 84% giá trị xuất khẩu mặt hàng điện tử, 42% đối
với mặt hàng giày dép và 25% hàng may mặc. Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu
của doanh nghiệp ĐTNN cũng đã tăng nhanh: bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt
30%; thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%; trong ba năm 2001-2003 đạt khoảng 50%.
Ngoài ra, khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các
hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu
ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong
nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
Việc thu hút ĐTNN đã chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, ĐTNN hiện chiếm 36,2% giá trị sản lượng
công nghiệp (năm 2003), góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả
nước. Hiện nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN chiếm 100% về khai thác dầu thơ,
sản xuất ơtơ, máy giặt, tủ lạnh, điều hồ nhiệt độ, thiết bị văn phịng, máy tính,
khoảng 60% sản lượng về thép cán, 28% về xi măng, 33% về sản xuất máy móc
thiết bị điện, điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 55% về sản lượng sợi các loại,
30% vải các loại, 49% về da giày dép, 18% sản phẩm may, 25% về thực phẩm và đồ
uống ....
Thông qua ĐTNN đã thúc đẩy hình thành hệ thống các KCN, KCX, góp phần phân
bổ cơng nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư... Ngoài ra, việc thu hút ĐTNN đã
chú trọng kết hợp các dự án công nghệ hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao
động, tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Nguyên nhân của những thành quả đạt được
Trang 22
- Nước ta kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực
đối với các nhà đầu tư.
- Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc
tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước.
- Môi trường đầu tư nước ta từng bước được cải thiện. Hệ thống luật pháp
chính sách về ĐTNN đã được hồn chỉnh hơn tạo khn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng
và thơng thống hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi.
- Cơng tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các bộ, ngành và chính
quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một
giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành
chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
- Cơng tác xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực. Thực hiện Nghị quyết
09 của Chính phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ, nhất là trong năm 2003
cơng tác xúc tiến đầu tư đã có những bước chuyển biến tích cực. Cơng tác vận động
xúc tiến đầu tư được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và nước
ngồi dưới nhiều hình thức đa dạng như tổ chức các cuộc hội thảo vận động đầu tư
ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, nhiều chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo
Đảng, Nhà nước đã được tiến hành ở nhiều quốc gia, gắn với việc quảng bá hình
ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, trong hoạt động ĐTNN tại
Việt Nam trong năm qua vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục:
- Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng, nhưng vẫn còn ở mức thấp. Năm 2003, vốn
đăng ký mới đạt 3,1 tỷ USD chỉ bằng khoảng 40% của năm 1996. Vốn đầu tư thực
hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư tồn xã
hội lại có xu hướng giảm dần do vốn ĐTNN thực hiện tăng chậm hơn so với vốn
đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tỷ trọng vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội giảm từ 25% trong thời kỳ 1991 - 1995 xuống 24% trong thời kỳ 1996 2000 và xuống còn 17,8% trong năm 2003.
Trang 23
- Cơ cấu vốn ĐTNN cịn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng ĐTNN còn quá thấp
và tỷ trọng vốn ĐTNN đăng ký liên tục giảm. ĐTNN tập trung chủ yếu vào những
địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực
miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sơng Cửu
Long.
- Đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ nguồn như Nhật,
EU, Mỹ tăng chậm, những năm gần đây chưa có sự chuyển biến đáng kể. Hiệp định
hương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy gia tăng mạnh mẽ kim ngạch buôn bán
giữa hai nước nhưng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa có chuyển biến đáng
kể.
- Việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho
các doanh nghiệp ĐTNN còn rất hạn chế, làm giảm khả năng tham gia vào chương
trình nội địa hố và xuất khẩu qua các doanh nghiệp ĐTNN. Nhìn chung, sự liên kết
giữa khu vực ĐTNN và kinh tế trong nước cịn lỏng lẻo.
- Khả năng góp vốn của Việt Nam còn hạn chế. Bên Việt Nam trong các liên
doanh hầu hết là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm 98% tổng vốn đầu tư và 92%
tổng số dự án liên doanh) chủ yếu là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nên tỷ
lệ góp vốn của Việt Nam khơng đáng kể. Cho đến nay vẫn còn thiếu cơ chế huy
động các nguồn lực khác nhau để góp vốn liên doanh với nước ngoài.
- Chủ trương phân cấp, uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, quản lý hoạt động
ĐTNN cho các địa phương, Ban quản lý các KCN đã phát huy tính năng động, sáng
tạo của các địa phương, xử lý các vấn đề phát sinh kịp thời, sát thực tế. Tuy nhiên
trong q trình thực hiện phân cơng quản lý ĐTNN cũng đã nẩy sinh hiện tượng
cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam.
- Tỷ lệ dự án đổ bể, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số dự án quy mô lớn
chậm triển khai.
Nguyên nhân của những mặt hạn chế nói trên là:
- Mơi trường đầu tư nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn
chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN
tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư mới.
Trang 24
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó tiên đốn trước. Một số bộ, ngành chậm ban
hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ (như Nghị định số 06 về
lĩnh vực giáo dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định cấp phép đầu
tư và thu hút các dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của Chính phủ đã được
quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5
năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu
tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nhưng thiếu hướng
dẫn nên chưa được áp dụng. Nghị định 164 về thuế TNDN là bước tiến mới trong lộ
trình xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN, nhưng
quy định mới về thuế TNDN cũng đã làm giảm ưu đãi đối với ĐTNN nhất là vào
các KCN, KCX.
- Cơng tác quy hoạch cịn bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu
hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam
kết quốc tế. Theo quy định của pháp luật, ngồi các dự án khơng cấp Giấy phép đầu
tư, nhà đầu tư có quyền lập các dự án xin cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy
nhiên, trong quá trình chỉ đạo điều hành, ta đã ban hành thêm một số quy định tạm
dừng hoặc không cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự án thuộc các lĩnh vực như:
sản xuất thép, xi măng, cấp nước theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp
ráp xe gắn máy hai bánh, nước giải khát có gas... Ngoài ra, các văn bản về một số
ngành ban hành gần đây cũng đã hạn chế ĐTNN như điều kiện về kinh doanh dịch
vụ hàng hải, về đại lý vận tải hàng không, về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ
bảo vệ. Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút ĐTNN, làm cho các nhà ĐTNN cho
rằng chính sách của Việt Nam khơng nhất qn, minh bạch ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư
- Thủ tục thẩm định, cấp Giấy phép đầu tư tuy đã được cải tiến nhưng vẫn
còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án còn dài do phải thống nhất ý kiến
giữa các bộ, ngành.
- Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngồi ban hành năm 2002
cịn thiếu những thông tin cần thiết khi chủ đầu tư quan tâm. Mặt khác, Danh mục
Trang 25