Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Luận văn thạc sĩ truyền thuyết và lễ hội dân gian ở chi lăng lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 148 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LƯƠNG MẠNH HOÀN

TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

c


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LƯƠNG MẠNH HOÀN

TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương


THÁI NGUYÊN - 2018

c


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính bản thân tơi thực hiện, dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một cơng trình khoa học nào khác.
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 9 năm 2018
Tác giả

Lương Mạnh Hoàn

i

c


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn,
Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học trường Đại học sư phạm Thái Nguyên - Đại học Thái
Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình học tập. Xin được cảm
ơn q thầy, cơ đã nhiệt tình giảng dạy tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu đề tài
luận văn của mình.
Đặc biệt, tơi xin được gửi đến cô giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn
Hằng Phương lịng biết ơn chân thành. Cơ đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn và tạo điều
kiện giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành luận văn.
Tơi xin cảm ơn các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn như: Sở Văn
hóa thơng tin, Hội Văn học nghệ thuật của tỉnh, Thư viện tỉnh, phịng văn hóa huyện

Chi Lăng và gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ, nhiệt tình giúp đỡ
tơi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả

Lương Mạnh Hoàn

ii

c


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn.......... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 7
NỘI DUNG .................................................................................................................. 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN ....... 8
1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế xã hội, đời sống văn hóa và truyền
thống lịch sử ....................................................................................................... 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên............................................................................................... 8

1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ................................................................................... 10
1.2.3. Đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử ........................................................ 12
1.2. Khái niệm truyền thuyết và lễ hội........................................................................ 16
1.2.1. Khái niệm truyền thuyết ................................................................................... 16
1.2.2. Khái niệm lễ hội dân gian ................................................................................. 17
1.3. Khái lược về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng, Lạng Sơn ................ 19
1.3.1. Truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn ............................................................... 19
1.3.2. Hệ thống lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ............................................. 20
Chương 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỀN THUYẾT Ở CHI

LĂNG - LẠNG SƠN ................................................................................................. 25
2.1. Nội dung truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn .................................................. 25
2.1.1. Phản ánh thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc ......................................... 25
2.1.2. Thể hiện tấm lịng kính u, ngưỡng mộ của người dân với những vị anh hùng.. 36

iii

c


2.1.3. Lí giải những địa danh, tên gọi ......................................................................... 43
2.2. Nghệ thuật truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn ............................................... 51
2.2.1. Biểu tượng núi - đá trong truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn ..................... 51
2.2.2. Thời gian và không gian nghệ thuật ................................................................. 54
2.2.3. Motif trong truyền thuyết ở Chi Lăng - Lặng Sơn ........................................... 57
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 62
Chương 3: LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TRUYỀN
THUYẾT Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN ....................................................................... 63

3.1. Lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn .............................................................. 63

3.1.1. Những lễ hội còn tồn tại trong đời sống dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ...... 63
3.1.2. Những lễ hội trong tâm thức dân gian của người dân Chi Lăng - Lạng Sơn ... 79
3.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ....... 86
3.2.1. Truyền thuyết là nguồn gốc phát sinh lễ hội..................................................... 86
3.2.2. Lễ hội làm sống lại truyền thuyết trong đời sống nhân dân ............................. 90
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 99
PHỤ LỤC.......................................................................................................................
PHỤ LỤC ẢNH .............................................................................................................

iv

c


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chi Lăng là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn, là vùng
đất địa linh, nhân kiệt và rực rỡ chiến cơng ở miền biên ải phía Bắc của Tổ quốc. Huyện
Chi Lăng nằm cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 40km về phía nam, phía đơng
giáp huyện Lộc Bình, phía tây giáp huyện Văn Quan, phía bắc giáp huyện Cao Lộc, phía
nam giáp huyện Hữu Lũng và huyện Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang). Mặc dù phong tục tập
quán, ngôn ngữ và thời gian định cư sớm muộn khác nhau, nhưng nhân dân các dân tộc
trên địa bàn huyện Chi Lăng ln ln đồn kết, gắn bó tương trợ lẫn nhau cùng chung
sống, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Huyện Chi Lăng hiện có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn và 19 xã,
205 thơn, 7 khu phố. Nhiều nơi không đơn thuần chỉ là địa danh hay là nơi sản sinh
những nhân vật có thật trong lịch sử mà nó cịn gắn với những câu chuyện truyền
thuyết dân gian vô cùng sống động. Lịch sử và truyền thuyết gắn liền với những lễ
hội dân gian hòa quyện, đan xen vào nhau đã tạo nên một Chi Lăng anh hùng.

Từng địa danh, từng ngọn núi, dịng sơng, dịng suối ở vùng Chi Lăng đều ghi
dấu ấn lịch sử và mang những giá trị văn hóa rất ý nghĩa. Có nhiều cơng trình nghiên
cứu khoa học cho thấy Chi Lăng là mảnh với nhiều giá trị văn hóa, văn học truyền
thống. Việc tìm hiểu, nghiên cứu văn học và văn hóa dân gian qua tiến hành khảo sát,
tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội ở vùng Chi Lăng được lưu truyền và tồn tại trong đời
sống xã hội có tác dụng và ý nghĩa tăng cường sự hiểu biết về giá trị văn hóa tinh
thần, phát huy sự đồn kết, gắn bó các dân tộc ở Chi Lăng nói riêng, của cả dân tộc
Việt Nam nói chung. Để từ đó, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, giàu đẹp, đậm
đà bản sắc dân tộc. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian nói
chung là việc làm vơ cùng thiết thực để thực hiện đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đến nay, có khá nhiều nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội ở Lạng Sơn. Tuy
nhiên, mảng truyền thuyết và lễ hội ở địa phương cịn ít và chưa có hệ thống. Trong
tình hình ấy, truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng - Lạng Sơn cho đến nay vẫn chưa có
nhà nghiên cứu nào khảo cứu một cách có hệ thống.

1

c


Là người con sinh ra và lớn trên mảnh đất Chi Lăng lịch sử, nơi ghi dấu bao
chiến công chống giặc ngoại xâm của dân tộc, cũng là nơi hội tụ nhiều nét đẹp văn
hóa dân gian với nhiều danh thắng nổi tiếng như Ải Chi Lăng, Núi Mặt Quỷ, Núi Mã
Yên, Núi Cai Kinh… đồng thời là giáo viên tham gia giảng dạy bộ mơn ngữ văn nói
chung trong đó có văn học dân gian nên việc tìm hiểu, nghiên cứu truyền thuyết và lễ
hội ở Chi Lăng - Lạng Sơn là dịp để giữ gìn, bảo lưu và phát triển văn hóa, văn học
q hương mình. Cũng từ đó, khơi gợi và bồi đắp cho học sinh niềm tự hào về truyền
thống văn hóa của quê hương, giúp các em có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống lịch sử.

Xuất phát từ những lý do khoa học và thực tiễn nêu trên mà chúng tôi chọn
“Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn” làm làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ điểm lại lịch sử nghiên cứu truyền
thuyết dân gian xứ Lạng, các cơng trình nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ở một số
địa phương.
Tình hình nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Lạng.
Bài viết: “Sắc thái truyền thuyết trong Folkore xứ Lạng” của tác giả Lê Trường
Phát được đăng trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật năm 1993, đã có cái nhìn tồn diện về
truyền thuyết dân gian xứ Lạng.
Cuốn: “Truyện cổ xứ Lạng” của Nguyễn Duy Bắc (1997), Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, thống kê các truyện kể dân gian ở xứ Lạng.
Hai cuốn “Lễ hội dân gian Lạng Sơn”, của tập thể các tác giả Hoàng Páo, Hà Văn
Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh (2002), Sở Văn hóa thơng tin tỉnh Lạng Sơn.) và “Ai
lên xứ Lạng”, của Hà Văn Thư - Hoàng Văn Nam - Vi Hồng Nhân - Vương Tồn (1994),
Nxb văn hóa dân tộc Hà Nội có điểm qua sơ lược một số truyền thuyết dân gian Lạng Sơn
gắn liền với lễ hội.
Ngoài ra phải kể đến một số các cơng trình nghiên cứu là khóa luận, luận văn,
luận án về truyền thuyết dân gian ở Lạng Sơn như:
- Hoàng Thị Khánh Xuân (2007), “Truyền thuyết Bàn Hồ và tục thờ cúng Bàn
Hồ của người Dao Lơ Gang ở huyện Lộc Bình - tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ
khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

2

c


- Phạm Thị Huyền (2008), “Truyền thuyết và lễ hội ven sơng Kỳ Cùng - Lạng
Sơn”, Khóa luận tốt nghiệp Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

- Nguyễn Thị Tân Hương (2012), “Khảo sát truyện kể dân gian Tày Nùng xứ
Lạng”, luận văn thạc sĩ, trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
- Phạm Duy Tùng (2014), “Truyền thuyết về núi non xứ Lạng”, Luận văn thạc
sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ở một số địa phương
- Bùi Văn Nguyên (1969), “Hình tượng anh hùng trong truyện dân gian các
dân tộc thiểu số miền Bắc”, Tạp chí Văn học, số 9, tr 64-74.
- Nguyễn Thế Dũng (2001), “Truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trưng ở Hát
Môn- Phú Thọ - Hà Tây”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Mai Thu Thủy (2005), “Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của người
Tày ở Bắc Kạn”, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Trần Duy Phương (2008), “Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả, Lục
Ngạn, Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
- Vũ Ngọc Long (2009), “Khảo sát truyền thuyết và lễ hội về cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng ở Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Hồ Thị Mai Hương (2009), “Khảo sát truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng
Đại Từ Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
- Hà Xuân Hương (2011), “Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội
về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc”, Luận văn thạc sĩ, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Phương Thủy (2013) “Hệ thống truyền thuyết và lễ hội về võ tướng
Dương Tự Minh ở Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Ngun.
….
Những cơng trình trên đều nêu lên những nét đặc trưng của truyền thuyết ở địa
phương gắn với văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội.
Nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn
Chi Lăng - mảnh đất với bao kỳ tích lịch sử gắn liền với cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta qua các thời kỳ lịch sử. Chi Lăng cũng là mảnh đất
của những giá trị truyền thống văn hóa, văn học.


3

c


Tập kỷ yếu “Chi Lăng lịch sử” (với trên 30 bản báo cáo khoa học và tham
luận của các nhà nghiên cứu ở Trung ương và địa phương) chủ yếu đi sâu vào nghiên
cứu, tìm hiểu thắng lợi quân sự của chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang ở thế kỷ
XV, khẳng định vị thế hiểm yếu của vùng đất Chi Lăng. Chúng tôi tổng hợp được
một số truyền thuyết trong tập kỷ yếu này.
Cuốn “Kỳ tích Chi Lăng” của tác giả Nguyễn Trường Thanh. Chúng tôi nhận
thấy ở cuốn sách, tác giả đã giới thiệu 52 truyền thuyết gắn với mảnh đất Chi Lăng
lịch sử. Các câu chuyện truyền thuyết trong cuốn sách này đã kể lại những sự kiện hào
hùng của dân tộc trên mảnh đất Chi Lăng lịch sử, đó là khi nước ta cịn bị nhà Đường
đô hộ, các cuộc đấu tranh của các nghĩa binh cùng nhân dân cả nước đánh đuổi bọn
phong kiến phương Bắc, đến chiến thắng trước quân xâm lược Tống, Nguyên - Mơng,
Minh, Thanh, thực dân Pháp.
Dự án “Đình Làng Mỏ, xã Quang Lang, Huyện Chi Lăng, Tỉnh Lạng Sơn” (Sở
Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn), đã cung cấp về truyền thuyết về người
anh hùng nhân dân nơi đây thường gọi là Ngài gắn lịch sử của ngơi đền Cấm và đình
làng Mỏ. Đặc biệt tác giả đã khảo tả về lễ hội dân gian đình làng Mỏ một cách khá tỉ
mỉ và chi tiết.
Đặc biệt luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
của tác giả Ngô Thị Huế (2016), “Hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm qua
nhóm truyền thuyết Chi Lăng, Lạng Sơn”. Trong luận văn này, tác giả có nghiên cứu,
tập hợp khá nhiều truyền thuyết ở Chi Lăng. Ngồi ra tác giả cịn đi sâu tìm hiểu về
những đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật về hình tượng người anh hùng
chống giặc ngoại xâm qua nhóm truyền thuyết Chi Lăng, Lạng Sơn
Như vậy, chúng tơi thấy đó là những tư liệu và kiến thức rất quý giá. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng

- Lạng Sơn một cách đầy đủ một cách đầy đủ và có hệ thống.
Từ những điều kiện thực tế đó và trên cơ sở tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu đi
trước, chúng tơi quyết định chọn “Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng
Sơn” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Chúng tơi xem những cơng trình đi trước là tiền đề khoa học quý giá, là những
ý kiến gợi mở giúp chúng tơi thực hiện đề tài của mình.

4

c


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các truyền thuyết dân gian ở vùng Chi Lăng, Lạng Sơn.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của truyền thuyết dân gian ở Chi Lăng,
Lạng Sơn là thường gắn với các nghi lễ tế thần ở đình, đền, miếu…nên tác giả đồng
thời khảo tả các lễ hội dân gian ở nơi đây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Tư liệu đã xuất bản như: Kỳ tích Chi Lăng (Nxb Thanh Niên - 2002); tập kỷ
yếu (1987) Chi Lăng lịch sử; Ai lên xứ Lạng (Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1994); dự
án Đình Làng Mỏ, xã Quang Lang, Huyện Chi Lăng, Tỉnh Lạng Sơn (Sở Văn hóa thể
thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn)….
+ Tư liệu lưu truyền trong đời sống dân gian: Một số truyền thuyết và lễ hội
dân gian do tác giả sưu tầm.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: luận văn chủ yếu tìm hiểu một số phương diện
nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn và một số thể thức về lễ
hội dân gian nơi đây trong mối quan hệ với truyền thuyết.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
- Hướng tới tìm hiểu những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của truyền
thuyết ở Chi lăng, Lạng Sơn và ý nghĩa sâu sa của các lễ hội dân gian gắn với truyền
thuyết. Qua đó khẳng định vai trị, vị trí và ý nghĩa của truyền thuyết và lễ hội dân
gian nơi đây.
- Trên cơ sở đó, bước đầu định hướng cho việc bảo tồn, phát huy những giá trị
văn hóa, văn học dân gian địa phương nói riêng, bản sắc văn hóa dân tộc nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.
- Điền dã, sưu tầm, tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng, Lạng Sơn, đồng
thời tìm hiểu thêm văn hóa ở địa phương nơi chúng tơi khảo sát, nghiên cứu.
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm truyền thuyết, tìm hiểu
mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng lễ hội nơi đây.

5

c


5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được kết quả và mục đích nghiên cứu, chúng tơi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp điền dã: Chúng tôi sử dụng để tiến hành điền dã sưu tầm văn học,
văn hóa dân gian ở huyện Chi Lăng. Chúng tơi đến tham quan, tìm hiểu các di tích lịch sử,
đền chùa, đình…có liên quan đến các truyền thuyết của Chi Lăng. Gặp gỡ, nói chuyện và
trao đổi với những cán bộ văn hóa, quản lí di tích lịch sử, những người dân địa phương ở
một số làng, xã trong địa bàn huyện.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đưa ra được những số liệu cụ
thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận khách quan, có
cơ sở khoa học.

Phương pháp phân tích văn bản văn học dân gian: Để tìm ra được
những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của các truyền thuyết, chúng tôi
lấy văn bản của các truyền thuyết làm cơ sở. Từ đó tiến hành hệ thống, phân
tích cụ thể hóa để làm nổi bật trọng tâm của các vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Do văn học dân gian nói chung và truyền
thuyết nói riêng có đặc trưng là ngun hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi
tiến hành đề tài này chúng tôi đã vận dụng phương pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như: lịch sử, văn hóa, địa lý … để giải quyết vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn phác họa diện mạo chung của truyền thuyết và lễ hội dân gian ở
Chi Lăng, Lạng Sơn một cách tương đối đầy đủ và hệ thống.
- Làm rõ những đặc điểm về nội dung, hình thức nghệ thuật và ý nghĩa của
thuyền thuyết và lễ hội dân gian Chi Lăng, Lạng Sơn.
- Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của văn
học dân gian Chi Lăng, Lạng Sơn nói riêng và văn học dân gian cả nước nói chung.
Từ đó khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc của địa phương và của đất
nước Việt Nam.
- Luận văn góp phần bồi đắp tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý
thức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước của thế hệ trẻ hôm nay. Cũng thông qua

6

c


đó, luận văn giúp có thêm nguồn tư liệu về truyền thuyết và lễ hội trong chương trình
giảng dạy ở trường phổ thông, nhất là ở địa phương Chi Lăng, Lạng Sơn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tế của việc nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội
dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn.
Chương 2: Nội dung, nghệ thuật truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn.
Chương 3: Lễ hội dân gian trong mối quan hệ với truyền thuyết ở Chi Lăng,
Lạng Sơn.

7

c


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRUYỀN
THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN
1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế xã hội, đời sống văn hóa và truyền
thống lịch sử

1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Địa danh Chi Lăng - tên gọi về mảnh đất thiêng - vùng đất lịch sử, nơi gắn liền
với công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi, gìn giữ nền độc lập, tự
chủ của Quốc gia, dân tộc. “Huyện Chi Lăng nằm trọn trong vùng nhiệt đới gió mùa,
có diện tích tự nhiên 704,81 km2, trong đó núi và đồi chiếm 3/4 diện tích; có nhiệt độ
trung bình hằng năm 21,5o C, với lượng mưa bình quân gần 1.500mm. Theo chu trình
thời gian. gió mùa Đơng Bắc thường xuất hiện từ tháng 11 năm trước đến tháng 3
năm sau. Từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm thường có những đợt gió Tây khơ nóng,
dễ gây hạn hán kéo dài. Thời gian mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 9 hàng năm. Do
sự kiến tạo tự nhiên của vùng núi khá khép kín mà Chi Lăng ít chịu ảnh hưởng của
bão. Tuy nhiên, do có nhiều triền dãy núi đá cao thẳng đứng nên cũng thường xuất
hiện mưa đấ và lốc gây khơng ít thiệt hại cho sản xuất và sinh hoạt đời sống của

nhân dân” [ 20, tr.9].
Một đặc điểm nổi bật về tự nhiên của Chi Lăng là sự kiến tạo tự nhiên của
vùng núi khá khép kín mà nơi đây ít chịu ảnh hưởng của bão. Tuy nhiên, do có nhiều
triền dãy núi đá cao thẳng đứng nên cũng thường xuất hiện mưa đá và lốc gây khơng
ít thiệt hại cho sản xuất và sinh hoạt đời sống của nhân dân. “Nguồn nước tự nhiên ở
Chi Lăng khá dồi dào. Đặc biệt có dịng sơng Thương chảy từ phía Đơng Bắc xuống
hướng Nam huyện Chi Lăng, là nguồn nước lớn phục vụ cho canh tác sản xuất và
sinh hoạt của nhân dân các dân tộc thuộc các xã Bắc Thuỷ, Nhân Lý, Mai Sao,
Quang Lang, Chi Lăng, thị trấn Đồng Mỏ và thị trấn Chi Lăng.” [ 20, tr.10]. Ngoài
ra ở các nơi trong huyện đều có các con suối lớn, nhỏ chảy quanh qua các triền khe,
chân đồi núi, ven các bản làng, chân ruộng… Có thể khẳng định đây là nguồn nước
thường xun vơ cùng thuận lợi cho canh tác và đời sống của nhân dân các dân tộc ở
từng vùng khác nhau.

8

c


Rừng Chi Lăng rất phong phú về thành phần loại cây. Vùng Chi Lăng nổi
tiếng với các loại cây gỗ quý như: lim, trầm, mộc lan, nghiến, lát, hoàng đàn, cam
thảo, hà thủ ô... Rừng núi Chi Lăng không chỉ bao bọc, che chở cho người dân mà
còn cung cấp nguồn lương thực dồi dào và nhiều cây dược liệu quý hiếm. Yếu tố
rừng khiến cho cảnh quan thêm phong phú, mặt khác cũng chính là những yếu tố,
những điều kiện thuận lợi cho việc bố phòng quân sự. Dưới lòng đất ở vùng này cũng
tiềm ẩn nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng và đang nhờ đôi bàn tay, khối óc con
người phát hiện, khai thác, phục vụ phát tiển kinh tế - xã hội và đời sống lâu dài. Chi
Lăng một thế hiểm đặc biệt hiếm có, bởi sự cắt xẻ của các yếu tố tự nhiên đã tạo cho
tồn bộ vị trí của ải Chi Lăng nằm gọn trong một thung lũng nhỏ, hình bầu dục chạy
theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, trên tả ngạn sông Thương, nằm giữa một bên là

dãy núi đá vôi thành vại cao ngất ở phía Tây, cịn một bên là những núi đất nối tiếp
nhau trùng điệp ở phía Đơng. Có thể nhận thấy: “Từ đầu phía Bắc đến đầu phía Nam
thung lũng dài khoảng 4km. Từ thành núi đá phía Tây sang chân núi đất phía Đơng,
chỗ rộng nhất khoảng 1km, chỗ trung bình từ 200 đến 300 mét. Tại hai đầu Bắc và
Nam, hai mạch núi khép nhỏ lại, tạo ra hai cửa ải rất hiểm trở. Xung quanh chân núi
Mã Yên, ngọn núi cuối cùng ở phía nam thung lũng, là một cánh đầm lầy, muốn đi
qua phải bắc cầu. Kết hợp địa hình, khí hậu và thủy văn tạo thành các khe rạch chi
chít và rừng cây cối gai góc, rậm rạp là một điều hết sức thuận lợi cho việc giấu
quân mai phục. Đây là một yếu đại bậc nhất trên quan lộ này” [ 10, tr.13]. Và đặc
biệt, với các yếu tố tự nhiên, Chi Lăng là “một thiên thời địa lợi” đối với ta, nhưng
lại là “một bất lợi” lớn đối với kẻ thù. Núi rừng ở vùng đất này với thế hiểm độc đáo
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược. Nhờ nắm
được đặc điểm của thế núi, thế sơng với lịng u nước và căm thù giặc sâu sắc, ông
cha ta đã đánh tan quân thù, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.
Niềm tự hào về mảnh đất Chi Lăng là nguồn cảm hứng bất tận cho tác giả dân
gian thuê dệt và sáng tác nên vô vàn những câu chuyện truyền thuyết vô cùng hấp dẫn
và sống động. Đặc biệt với những đặc điểm về tự nhiên nhiều đá núi, suối khe… nên
chúng ta thấy, nhiều những câu chuyện truyền thuyết ở Chi Lăng không gian chủ yếu
là cảnh rừng núi, sông suối, hang động. Điều này tạo nên sự hấp dẫn và độc đáo riêng
cho những câu chuyện truyền thuyết ở Chi Lăng.

9

c


1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
Chi Lăng không chỉ được thiên nhiên ưu đãi đẹp tuyệt vời ở cảnh thiên nhiên
hùng vĩ, non xanh nước biếc, tài nguyên quý hiếm mà hơn thế nữa cái đẹp, cái đáng
quý hơn nữa ở Chi Lăng là những tộc người định cư sinh sống nơi đây. Họ đã góp

phần làm nên lịch sử Chi Lăng, góp phần vào cơng cuộc dựng nước và giữ nước từ
buổi bình minh của lịch sử dân tộc cho đến ngày nay. “Chi Lăng vốn là địa bàn quần
cư lâu đời của các dân tộc anh em cùng nhau chung sống. Đồng bào Tày, Nùng định
sư sớm hơn, tạo dựng làng bản tập trung, ổn định theo một dòng họ hay nhiều dòng
họ bên những cánh đồng, bờ bãi thung lũng, triền sông. Đồng bào các dân tộc anh
em khác sống xen kẽ, rải rác các vùng đất mới khai khẩn trên triền đồi núi, khe dọc.
Đồng bào Kinh sống tập trung chủ yếu ở thị trấn, ven các trục đường Quốc lộ và
đường dân sinh. Mặc dù phong tục tập quán, ngôn ngữ và thời gian định cư sớm,
muộn khác nhau, nhung đồng bào các dân tộc Tày, Nùng Kinh….” [ 20, tr.12]. Người
dân ở Chi Lăng ln nêu cao tinh thần đồn kết, tương thân tương ái, hiểu biết, tôn
trọng và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau ổn định cuộc sống, phát triển kinh
tế. Mỗi khi có giặc ngoại xâm hoặc thiên tai đe dọa tàn phá, các dân tộc anh em đều
đồng lòng, chung sức đánh giặc, khắc phục thiên tai, bảo vệ làng xóm q hương,
đồn kết xây dựng cuộc sống. Đó là mạch nguồn văn hóa, đạo đức lẽ sống của đồng
bào các dân tộc ở vùng đất lịch sử này.
Nhân dân các dân tộc Chi Lăng luôn luôn phát huy những truyền thống tốt đẹp
của quê hương, của dân tộc quyết tâm vươn lên phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống
đường giao thông đi lại, giao lưu và trao đổi hàng hóa cơng thương ở Chi Lăng khá
thuận tiện trong tỉnh. Đặc biệt là hiện nay con đường cao tốc mới đang được xây
dựng quy mô và hiện đại, dự kiến hoàn thành vào năm 2020 thuận tiện cho việc đi lại
và giao lưu phát triển kinh tế thương mại - dịch vụ, vốn đã diễn ra khá sôi động trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn khi Việt Nam mở cửa làm ăn, trao đổi hàng hóa, buôn bán với
nước láng giềng Trung Quốc. Trục đường Quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn đi qua Chi
Lăng và tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn qua ga Sơng Hóa, ga Chi Lăng, ga Đồng
Mỏ mở cho phép giao lưu đi lại, trao đổi vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, thuận lợi
từ Chi Lăng đi thành phố Lạng Sơn, xuôi về Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng

10

c



Yên, Vĩnh Phúc và các tỉnh khác trong cả nước. “Tuyến đường Đồng Mỏ vượt Đèo
Bén, Đèo Lăn qua chợ Bãi đi Tu Đồn là trục đường giao thông quan trọng trong phát
triển kinh tế, nối liền nhiều xã trong huyện. Đó cũng là con đường giao thơng liên
huyện Chi Lăng - Văn Quan, gặp nhau tại đường Quốc lộ 1B đi các huyện Bình Gia,
Bắc Sơn rồi tới Thái Nguyên. Hầu hết các xã trong huyện đều có đường dân sinh liên
xã đa số đã được bê tơng hóa khá thuận lợi, tỏa ra các nhánh đường nhỏ nối liền các
thôn, bản, phục vụ thiết thực cho vận chuyển hàng hóa, vật tư cho sản xuất và đi lại
sinh hoạt của nhân dân các dân tộc”[ 20, tr.11]. Trải qua nhiều bước thăng trầm của
lịch sử, bao thế hệ lớp người Chi Lăng ln đồn kết gắn bó, khơng ngường tìm tịi,
sáng tạo trong lao động sản xuất, chung sức đồng lòng, đấu tranh chế ngự thiên nhiên,
biến những tiềm năng, thế mạnh của đồi rừng, sông suối, bãi bồi… phục vụ cho mục
đích cuộc sống lâu dài, mở mang trồng trọt, chăn nuôi và khai thác lâm thổ sản.
Nguồn thu chủ yếu trên địa bàn huyện Chi Lăng là sản xuất nông nghiệp, trồng
cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Những vùng triền đồi núi đất, nhân dân các dân tộc cịn tận dụng trồng thêm.
Diện tích gieo cấy lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp. Huyện Chi Lăng
đang tập trung phát triển trồng na và cây na được chú trọng là cây chủ lực của huyện.
Cây na đươc trồng chủ yếu ở Thị trấn Chi Lăng, xã Chi Lăng, thị trấn Đồng Mỏ, xã Y
Tịch… Trong những năm qua, quả na Chi Lăng được người dân cả nước biết đến và
từng bước khẳng định được giá trị cũng như thương hiệu là cây đặc sản của vùng.
Về công nghiệp, Ngày 08/10/2014, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
1575/QĐ-UBND về việc thành lập Khu công nghiệp Đồng Bành, tỉnh Lạng Sơn. Theo
đó, Khu cơng nghiệp đồng bành có diện tích sử dụng đất gần 322 ha, được xây dựng
tại thị trấn Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thuộc Ban Quản lý Khu Kinh tế cửa khẩu
Đồng Đăng - Lạng Sơn. Khu công nghiệp Đồng Bành là Khu cơng nghiệp được xây
dựng tập trung, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hiện đại, đáp ứng nhu cầu thu hút
đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Có
các ngành nghề sản xuất cơng nghiệp đa ngành với công nghệ hiện đại, tiên tiến đảm

bảo vệ sinh môi trường. Đến nay Chi Lăng đã tiến hành khai thác đá ở xã Mai Sao
với công suất vài chục ngàn tấn/năm. Đặc biệt, hiện nay ở Thị trấn Chi Lăng có nhà

11

c


máy xi măng Đồng Bành giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động ở địa
phương. Đây là điều kiện thuận lợi để Chi Lăng phát triển sản xuất công nghiệp vật
liệu xây dựng - ngành công nghiệp mũi nhọn của huyện. Hoạt động thương mại và
dịch vụ ở Chi Lăng cũng từng bước phát triển. Khu chợ ở thị trấn Đồng Mỏ đã được
đầu tư xây dựng khá khang trang là nơi giao lưu thông thương, trao đổi hàng hóa của
tồn huyện, khu trưng bày hàng nơng sản ở xã Quang Lang cũng là nơi thuận tiện cho
việc trưng bày, quảng bá nông sản của huyện, chợ na Đồng Bành ở thị trấn Chi Lăng
cũng được đầu tư xây dựng khá quy mô. Hầu hết ở các xã duy trì các chợ phiên góp
phần đắc lực vào việc giao lưu thơng thương, trao đổi hàng hóa.
Chi Lăng được biết đên với nhiều địa danh nổi tiếng như dãy núi Cai Kinh, núi
Mặt Quỷ, núi Mã Yên, quỷ Môn quan. Nơi đây cịn có đền Chầu Năm, đền Chầu Bát,
đền Cơ Chín, đền Chầu Mười…hàng năm đón một lượng khách du lịch rất đông đảo
khách thập phương đến cúng bái, cầu lộc, cầu tài, cầu mùa màng bội thu, bn may
bán đắt đồng thời góp phần bảo tồn, lưu giữ, phát huy và tôn vinh các giá trị truyền
thống văn hóa dân tộc nước nhà.
Hiện nay, ở các xã trong huyện đều có các trường phổ thơng cơ sở, các trường
tiểu học, các trường mầm non. Đặc biệt toàn huyện có ba trường phổ thơng trung học
là trường THPT Chi Lăng, trường THPT Đồng Bành, trường THPT Hịa Bình và 1
trung tâm giáo dục nghề, giáo dục thường xuyên. Hàng năm, các trường học phổ
thông thường xuyên thu hút hàng nghìn con em các dân tộc trong độ tuổi theo học.
“Cùng với sự mở mang hệ thống giáo dục, mạng lưới y tế trong huyện cũng được
thiết lập rộng khắp đến các cơ sở xã. Tồn huyện có một bệnh viện đa khoa tập trung

được đầu tư xây dựng quy mơ, hiện đại và ba phịng khám khu vực ln sẵn sàng
phục vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân các đân tộc trong huyện. Đời sống
kinh tế - xã hội đã và đang có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực, nếp sống mới,
đời sống mới đã và đang tỏa khắp các làng bản, ngõ xóm và thị trấn quê hương.
Trong bước đi đổi mới đất nước, huyện Chi Lăng đã có nhiều đổi thay cơ sở vật chất
được nâng lên, trình độ dân trí ngày càng phát triển và được nâng cao.
1.2.3. Đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử
Chi Lăng mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời. Lịch sử
dân tộc đã khắc ghi cuộc kháng chiến 10 năm trường kỳ chống quân Minh xâm lược,
12

c


với chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang vang dội năm 1427, giành lại độc lập tự chủ
cho nước nhà. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ cách mạng, căn cứ điều
kiện địa lý tự nhiên và cư dân có nhiều đặc điểm phù hợp, từ năm 1964, triểu theo
quyết định của Hội đồng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Ơn
Châu và 8 xã phía Đơng Nam của huyện Bằng Mạc được hợp nhất thành huyện mới
có tên gọi là huyện Chi Lăng cho đến ngày nay.
Trong cuốn Lịch Sử Đảng Bộ huyện Chi Lăng có viết về vùng đất Chi Lăng:
“Dưới thời Minh Mệnh (Triều đình phong kiến nhà Nguyễn 1819 - 1840), Ôn Châu
và Bằng Mạc là 2 trong số các đơn vị hành chính trực thuộc Trùng Khánh. Từ
năm1894, sau khi hoàn tất xâm chiếm, sắp xếp bộ máy cai trị ở Lạng Sơn, thực dân
Pháp vẫn đặt nguyên trạng địa danh Ôn Châu và Bằng Mạc là hai châu trong tỉnh
Lạng Sơn. Trải qua hơn nửa thế kỷ (1894 -1964) trong khn khổ của mỗi đơn vị
hành chính có các yếu tố đặc trưng kinh tế - xã hội khác nhau. Ôn Châu và Bằng
Mạc vẫn là tên gọi rất đỗi thân thương, găn bó mật thiết với bao thế hệ con người lớn
lên cùng năm tháng, hun đúc lên truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng quý
báu đáng trân trọng .”[ 18, tr.8-9]. Niềm tự hào về truyền thống quê hương, truyền

thống cách mạng là dấu ấn tình cảm cao qui, là giá trị văn hóa, là sự lưu giữ lịch sử
hơn là ghi nhận riêng rẽ, biệt lập hơn là sự phân chia địa giới hành chính và sự biến
thiên của bối cảnh xã hội qua các thời kỳ lịch sử. Cũng chính bởi thế mà các thế hệ
con người trong vùng đất này vốn đã có sự giao lưu mật thiết hịa đồng phong tục,
cùng chung sống, cùng tồn tại và phát triển. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, mọi người
trên dải đất kiên cường ấy đều nhất tề đứng lên đánh giặc bảo vệ q hương. Khi bình
n, núi rừng sơng suối hiền hịa reo vui ấm áp tình người vượt đồi, vượt núi để giao
lưu, để gắn bó với nhau. Ơn Châu - Bằng Mạc, chợ Đồng Mỏ (Châu lỵ Ôn Châu) hay
chợ Vạn Linh (Châu lỵ Bằng Mạc) đều là nơi hội tụ tình nghĩa, hội tụ văn hóa giữa
các dân tộc anh em từ bao đời nay và còn truyền lại mãi cho thế hệ mai sau.
Người dân Chi Lăng rất đỗi tự hào về mảnh đất quê hương, về những thế hệ
ông cha đã không tiếc xương máu, nêu cao tinh thần yêu nước đã ghi danh và để lại
truyền thống yêu nước, cách mạng tươi đẹp cho con cháu đời đời noi theo học tập.
“Năm 1427, đội binh của người anh hùng Đại Huề đã đóng góp đáng kể cùng quân
dân cả nước làm nên chiến công hiển hách của dân tộc chống giặc phương Bắc.

13

c


Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang lịch sử đã đi qua nhiều thế kỷ song những tên
đất, tên làng ở Chi Lăng vẫn như đang lay động âm hưởng của niềm tự hào lớn lao
ấy: Làng Đăng, Làng Cóc, Làng Lìu, Ba Đàn, Quán Bầu….”[ 18, tr.13].
Giai đoạn lịch sử từ năm 1883 - 1885, trong cuộc chiến đấu chống sự xâm lấn
của thực dân Pháp lên Lạng Sơn, quân ta đã dựa vào thế hiểm yếu của núi rừng Chi
Lăng - Hữu Lũng, nghĩa qn Hồng Đình Kinh đã anh dũng đánh trả, tiêu diệt kẻ
thù, làm cho địch bao phen khốn quẫn. Cũng từ đó, dãy núi Cai Kinh lưu truyền
nhiều chiến cơng và khí phách anh hùng của nghĩa qn Hồng Đình Kinh, mãi mãi
là niềm tự hào sống động ngay trên mảnh đất Chi Lăng hào hùng, “Năm Thành Thái

thứ 3 (1891 - Triều đình phong kiến nhà Nguyễn), thực dân Pháp tiến hành mở rộng
quy mô chiếm lĩnh và thống trị lên mảnh đất Lạng Sơn, với tinh thần yêu nước, không
chịu khuất phục giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc ở Bằng Mạc đã dựa vòa thế
thuận lợi ở rừng núi, liên tiếp chiến đấu chống trả kẻ thù suốt hơn ba năm rịng rã
với mn vàn khó khăn, thiếu thốn, làm cho kẻ thù khơng dễ gì thiết lập chế độ cai trị
ở đây.”[ 18, tr.14].
Từ mạch nguồn của truyền thống yêu nước, bước vào thời kỳ đấu tranh giải
phóng dân tộc. Đặc biệt trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược; quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân các dân tộc trên
quê hương Chi Lăng lịch sử đã phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí cách
mạng, vượt qua mn vàn khó khăn gian khổ, sát cánh với nhân dân các dân tộc trong
tỉnh chung sức, chung lòng cùng nhau xây dựng quê hương giàu đẹp
Chi Lăng có truyền thống lịch sử rất oai hùng. Trải qua hơn 1.000 năm Bắc
thuộc, vào thế kỷ thứ X, Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập chính thức được xác
lập. Cũng từ đó, tên gọi Chi Lăng, mảnh đất Chi Lăng được nói tới như một tấm cửa
lim vững chắc ở cửa ngõ phía bắc của Tổ quốc. Nơi đây có nhiều khu di tích văn hóa
lịch sử, thời gian qua, huyện Chi Lăng đã xây dựng phương án phát triển du lịch di
tích gắn với sinh thái của vùng.
Mảnh đất Chi Lăng là nơi có nhiều điểm di tích lịch sử, đó cũng là điều kiện
thuận lợi, là tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa tâm linh của vùng. Chẳng thế mà
người du khách thập phương vẫn thường gọi Chi Lăng là “đất Chầu”, bởi lẽ trong
huyện có ba ngơi đền là đền Chầu Năm, đền Chầu Bát và đền Chầu Mười rất linh
14

c


thiêng, được người dân cả nước biết đến. Hiện nay trên địa bàn huyện Chi Lăng có
112 điểm di tích, bao gồm: 56 di tích lịch sử cách mạng; 10 di tích danh thắng; 6 di
tích khảo cổ; 40 di tích tín ngưỡng, tơn giáo. Trong đó có 3 di tích xếp hạng cấp quốc

gia, 5 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Những di tích này phần lớn nằm trong chuỗi quần thể
di tích lịch sử Chi Lăng. Đây là những điểm di tích rất có tiềm năng phát triển nếu biết
kết hợp đúng hướng và tận dụng lợi thế sinh thái của địa phương. Các di tích ở huyện
Chi Lăng, điển hình là ải Chi Lăng. Đây là những di tích rất nổi tiếng, gắn với lịch sử
của dân tộc. Được biết, hằng năm, huyện đều có kế hoạch nâng cấp, tu bổ các di tích
đồng thời phối hợp với các ngành, các tổ chức trong và ngoài tỉnh đẩy mạnh việc xây
dựng, hình thành tuyến du lịch này. Đặc biệt là xây dựng tuyến du lịch gồm 6 điểm:
nhà trưng bày chiến thắng Chi Lăng - đền Quỷ Môn - ải Chi Lăng - hang Xăng dầu đập Bãi Hào - ải Chi Lăng. Nhiều lễ hội dân gian, nhiều loại hình và sản phẩm di sản
phi vật thể được khảo cứu, sưu tầm và phụng dựng, bảo tồn như: Lễ hội đình Làng Mỏ,
lễ hội “Đập đất” xuống đồng Làng Thượng, lễ hội Háng Ví, lễ hội lồng tồng xóm Ná
và thơn Cây Hồng… và các làn điệu hát Sli, hát lượn, hát then… tất cả làm nên nét đẹp
truyền thống, đặc trưng của vùng đất Chi Lăng lịch sử hịa trong nền văn hóa chung
của dân tộc Việt Nam. Nơi đây, ngồi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ơng bà, thể hiện lịng
hiếu thảo, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc trong các gia đình, dịng họ. Một số
thơn, xóm cịn có chùa, có đền được nhân dân lưu giữ và bảo tồn. Thờ thần ở nơi đây
cũng khá đa dạng có miếu, đình, đền thờ Thành hoàng - vị thần bảo vệ cho làng làng.
Trong đó vị thần được thờ nhiều nhất thường là những vị anh hùng hoặc có cơng với
dân làng được người dân suy tôn, gắn liền với các truyền thuyết.
Nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, xã hội chính là tạo tiền đề, tạo cơ sở để
bước đầu tìm hiểu về kho tàng văn học, văn hóa dân gian ở Chi Lăng. Nơi đây chính
là vùng đất giàu truyền thống lịch sử nơi ghi dấu ấn của những chiến công hiển hách
gắn liền với những truyền thuyết về những con người được nhân dân ngưỡng mộ,
mến yêu và chính cuộc đời và sự nghiệp của họ là nguồn cảm hứng để tác giả dân
gian sáng tác nên những truyền thuyết vô cùng hấp dẫn và sinh động.
15

c


1.2. Khái niệm truyền thuyết và lễ hội

1.2.1. Khái niệm truyền thuyết
Truyền thuyết là một trong 12 thể loại của văn học dân gian Việt Nam. Truyền
thuyết ra đời với chức năng chủ yếu là truyện của lịch sử, phản ánh lịch sử sinh hoạt
của con người. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thuyết.
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên 2008 có định nghĩa về
truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là truyện dân gian truyền miệng về các nhân vật
và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang yếu tố thần kỳ” [30, tr.1053].
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” có khái niệm: “Truyền thuyết là một
thể loại dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải các nhân vật và sự
kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng tới một thời kỳ, một bộ tộc, một địa phương hay
một quốc gia”. [7, tr. 367].
Trong giáo trình “Văn học dân gian” của trường Đại học sư phạm Hà Nội, Đỗ
Bình Trị đã đưa ra định nghĩa: “Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử
mà lại có sự kì diệu là lịch sử hoang đường - hoặc là những truyện tưởng tượng ít
nhiều gắn với lịch sử”. [48, tr.71-72]
Trong bài tiểu luận của Kiều Thu Hoạch in trong cuốn sách: “Văn học Việt
Nam - Văn học dân gian những cơng trình nghiên cứu” có nêu: “Truyền thuyết là một
thể tài truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt
truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các
phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến
của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng các yếu tố hư ảo, thần
kì như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ khơng nhằm phản ánh xung đột
gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận cá nhân mà thường phản ánh những vấn đề
thuộc phạm vi quốc gia, dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự
nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không hồn tồn trong trí tưởng
tượng và bằng trí tưởng tượng” [9, tr.141].
Theo Lê Chí Quế: Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian
phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo
thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kì. [33, tr. 49].


16

c


Chúng tôi nhận thấy các tác giả đã đưa ra một vài tiêu chí cơ bản nhận diện
truyền thuyết như sau: Truyền thuyết là tác phẩm tự sự dân gian truyền miệng, nó gắn
với các sự kiện và nhân vật có liên quan đến lịch sử và thường mang yếu tố kỳ ảo,
hoang đường.
Trong các định nghĩa trên, chúng tôi sử dụng cách hiểu về truyền thuyết mà
Kiều Thu Hoạch đưa ra thuyết phục và phù hợp hơn với hệ thống truyền thuyết ở Chi
Lăng, Lạng Sơn.
Nằm trong thể loại truyền thuyết nói chung, truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng
Sơn khơng chỉ góp phần làm giàu, phong phú thêm kho tàng văn học dân gian nói
riêng và nền văn học dân tộc nói chung mà cịn giúp cho người dân có cái tồn diện
về một thời kỳ lịch sử của dân tộc.
1.2.2. Khái niệm lễ hội dân gian
Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa lâu đời, nơi chung sống của 54 dân
tộc anh em. Bên cạnh sự thống nhất, hài hịa về nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc của người Việt, mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có những nét phong tục, tập quán
mang bản sắc riêng đóng góp vào sự phong phú và đa dạng mang những giá trị đặc
sắc của nền văn hóa người Việt. Trong đời sống tâm linh, đời sống văn hóa con người
ta vẫn ln có niềm u mến, ngưỡng mộ, biết ơn những người có cơng lao với q
hương đất nước. Người dân tơn thờ và có niềm tin vào tự nhiên che chở và bảo vệ
cho họ. Từ đó hình thành khát vọng cầu mùa, cầu mong sự bình an trong các lễ hội
dân gian. “Theo thư tịch cổ, lễ hội của người Việt xuất hiện từ thời Lý (thế kỉ 11)
nhưng có quan điểm cho rằng lễ hội của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát
triển cùng với lịch sử của dân tộc, của đất nước biểu hiện qua trống đồng Đông Sơn
mà tiêu biểu là vùng đồng bằng Bắc Bộ - cái nơi của dân tộc Việt đó là hội mùa, hội
làng…”[ 11, tr.21].

Lễ hội là dịp mọi người cầu mong thần linh phù hộ cho bách gia trăm họ từ
đầu năm đến giữa - giữa năm đến cuối được khỏe mạnh, bình an, cầu mùa màng được
bội thu, được đắc tài, sai lộc và họ cũng không quên cảm tạ thần linh đã phù hộ cho
mình với lịng thành kính sâu sắc nhất trong khơng khí vui tươi nhưng linh thiêng,
kính cẩn của ngày hội. Thông thường một lễ hội gồm có hai phần, đó là phần lễ và

17

c


phần hội. “Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của con
người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước
cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa tơn
giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự bình yên cho
từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dịng họ, sự sinh
sơi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng mà bao đời nay đã quy tụ vào niềm
mơ ước chung với bốn chữ: Nhân khang vật thịnh.”[11, tr.21].
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, có sự xuất hiện cả những lễ hội mới, như vậy,
có sự song hành giữa lễ hội dân gian và lễ hội mới. Chúng tôi sử dụng thật ngữ lễ hội
dân gian nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Trong một lễ hội dân gian, phần lễ là phần không thể thiếu, bởi lẽ: “Lễ là phần
tín ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo”.
Con người ta thường gửi gắm vào lễ hội niềm tin thiêng liêng và cả ước mơ về những
điều tốt đẹp của cuộc đời. Hệ thống lễ bao gồm các nghi lễ của tín ngưỡng dân gian
cùng với những đồ vật được sử dụng là đồ lễ mang tính linh thiêng và được sử dụng
rất chu đáo và nghiêm túc. Người ta tin rằng, thơng qua các nghi lễ thì con người
được cảm nhận, được giao tiếp với thế giới tâm linh, với các các thiên thần và các
nhân thần. Những vị thần thánh đó do chính họ tưởng tượng ra. Thơng qua đó, con
người cầu mong các vị thần, vị thánh che chở, giúp đỡ và có tác động đến tương lai,

cuộc sống của họ được tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, phần hội trong lễ hội dân gian cũng được đề cao và rất quan trọng .
Thông thường “hội” gắn liền với “lễ” và chịu sự quy định nhất định của lễ, có lễ mới
có hội. Phần hội thường có các trị chơi, trị diễn dân gian, phần thi tài năng…Cũng
chính nhờ phần hội đã làm cho nội dung lễ hội thêm phong phú, hấp dẫn hơn đồng
thời cũng làm sáng tỏ thêm chủ đề và nội dung của lễ hội. Mặc dù có hai hệ thống “lễ”
và “hội” nhưng thực chất chúng không tách biệt ra thành từng phần và mức độ “lễ” và
mức độ “hội” của từng lễ hội khơng hồn tồn giống nhau mà tùy thuộc vào từng lễ hội
cụ thể của từng nơi tổ chức .
Xuất phát từ lòng biết ơn đối với những người có cơng với dân, với nước từ đó
lễ hội được hình thành và trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống

18

c


văn hóa tinh thần của nhân dân, lễ hội là yếu tố vừa đặc trưng cho mỗi dân tộc, mỗi
vùng miền, lại vừa góp phần làm cho văn hóa dân tộc thêm phần đặc sắc và hấp dẫn.
Chính vì thế, trong cuốn từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên có nêu rõ:
“Lễ hội là cuộc vui tổ chức chung có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền
thống của dân tộc” [30, tr.694].
1.3. Khái lược về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng, Lạng Sơn
1.3.1. Truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn
Văn học dân gian ln có xu hướng “hiện đại hóa tác phẩm”[2, tr.45]. Mà
hơn thế nữa “Trong bối cảnh hiện đại, văn học dân gian có mối quan hệ chặt chẽ với
văn học quần chúng”[1, tr.19-20]. Khi nghiên cứu văn học dân gian ở Chi Lăng,
không thể bỏ qua mảng truyền thuyết về vùng đất và con người nơi này. Truyền
thuyết là tấm gương phản chiếu muôn mặt phong phú và đa dạng của đời sống nhân
dân, “Truyền thuyết sở dĩ có giá trị vì nó đã bổ sung vào chính sử những chi tiết

nhiều khi rất chân thực, làm rõ tính cách nhân vật, vai trị, vị trí những nơi xảy ra sự
kiện”[46, tr.14]. Chi Lăng - cái tên nơi mà từng tấc đất, từng tên núi, tên hang, tên
động, tên suối, tên đình, tên đền, tên chùa ở nơi đây đều gắn chặt với những câu
chuyện, gắn với những chiến công lịch sử oai hùng chống giặc, thắng giặc ngoại xâm
của dân tộc. Những câu chuyện truyền thuyết ở nơi đây được kể từ đời này sang đời
khác với nội dung, chủ đề như: Truyền thống đánh giặc giữ nước, công khai sơn phá
thạch tạo dựng đời sống văn hóa cho cộng đồng. Chi Lăng có một vị trí địa lí chiến
lược hiểm yếu. Đặt biệt, các yếu tố về điều kiện tự nhiên, xã hội, đời sống văn hóa và
truyền thống lịch sử, con người Chi Lăng hiền hịa, sống giàu tình nghĩa là nguồn
cảm hứng cho biết bao câu chuyện truyền thuyết sinh động, hấp dẫn.
Trong quá trình làm đề tài này, chúng tơi đã tiến hành thu thập và khảo sát từ
những tư liệu địa phương đến tư liệu lưu hành trên toàn quốc. Nguồn tư liệu mà
chúng tôi sử dụng để khảo sát truyền thuyết gồm cuốn sách “Kỳ tích Chi Lăng”[42],
trong cuốn sách này chúng tôi thu thập được 52 truyện, Ở các cuốn “Chi Lăng lịch
sử”[26], “Ai lên xứ Lạng”[46], chúng tôi sưu tầm được thêm 13 truyền thuyết.
Trong quá trình đi sưu tầm truyền thuyết ở Chi Lăng, chúng tơi có tìm hiểu,
tiếp cận với những cụ cao tuổi, những người am hiểu về lịch sử văn hóa ở địa
phương. Qua đó, chúng tơi có được 10 truyền thuyết như sau:
19

c


×