Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.92 KB, 24 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư quốc tế quan trọng trong
tình hình thế giới hiện nay và là xu hướng chung. Ở Việt Nam, bên cạnh
nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là
một trong những nguồn vốn quan trọng. Trong đó, FDI được coi là nguồn
vốn thích hợp đối với nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được coi
là khu vực kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (năm 1987) đến
nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tỷ trọng đáng kể trong
nền kinh tế quốc dân, trong đó chủ yếu là FDI.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2007
đã có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng
ký là 98 tỷ USD.
Cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần
tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước và trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
khả năng tích lũy và huy động vốn trong nước còn vô cùng khó khăn, vốn
ĐTNN trở nên cực kỳ quan trọng tạo đà tăng tốc kinh tế cho giai đoạn
tiếp theo.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, FDI có thể ảnh hưởng xấu đến
cán cân thanh toán của nước ta, tới nguồn tài nguyên, môi trường sinh
thái,... thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến lợi ích, chủ quyền của quốc gia
nếu như không có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời.
Hiện nay, số lượng các dự án đầu tư của Việt Nam rất lớn song lại
chưa đạt được hiệu quả tốt.
Do vậy, nhiều hoạt động nghiên cứu về ĐTNN đã và đang được
thực hiện rất đa dạng. Việc nghiên cứu FDI ở VIệt Nam hiện nay là vô
cùng cần thiết trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là trong điều
kiện nước ta đã gia nhập WTO và là thành viên không thường trực của


Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, khi tình hình thế giới và khu vực có
nhiều diễn biến phức tạp.
Vì vậy việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam” là thực sự cần thiết.
Chính vì những lý do trên mà em chọn đề tài này!
1

TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Phần I: Nhận thức chung về FDI.
1. Quan niệm về FDI.
2. Đặc điểm của FDI ở Việt Nam.
3. Mục đích của FDI.
4. Hình thức FDI.
5. Vai trò của FDI.
Phần II: Tình hình FDI ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay.
Phần III: Đánh giá.
1. Kết quả đạt được.
2. Hạn chế, những vấn đề đang đặt ra.
Phần IV: Giải pháp.
2

PH ẦN I:
NHẬN THỨC CHUNG VỀ FDI.
1. Quan niệm về FDI.
Trước hết, theo từ điển tiếng Việt- NXB KHXH-1998: đầu tư là bỏ
nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì trên cơ sở tính toán hiệu quả
kinh tế xã hội. FDI (Foreign Direct Investment) được biết đến từ thời kỳ
đổi mới đến nay. Nó được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Theo quỹ
Tiền tệ thế giới IMF thì FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay
công ty nước ngoài vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh

doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở
sản xuất kinh doanh này. FDI “nhằm đạt được quyền lợi lâu dài trong một
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà
đầu tư”.
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của Tổ chức UNCTAD-tổ
chức thế giới đóng vai trò quan trọng đối với FDI thì “FDI là hoạt động
đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát
lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước
ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp thường trú
ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài)”.
2. Đặc điểm của FDI ở Việt Nam.
- FDI gắn liền với hoạt động của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt
Nam. Hoạt động của họ có địa vị pháp lý riêng theo nguyên tắc quốc tế,
theo hoạt động kinh doanh trong điều kiện mới; nó không chỉ mang ý
nghĩa kinh tế mà còn liên quan đến mọi lĩnh vực khác trong đời sống
chính trị - xã hội và tác động đến chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư thuộc sở hữu một phần hoặc toàn bộ của
nước ngoài. Hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI phải tuân thủ theo
pháp luật Việt Nam, hưởng quyền lợi và phải làm nghĩa vụ như các
doanh nghiệp Việt Nam.
- Doanh nghiệp FDI có vốn lớn, công nghệ cao, khả năng quản lý nên
nó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích của FDI.
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và
hàng thay thế hàng nhập khẩu.
- Sử dụng kỹ thuật cao, nhân công lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để
khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao năng suất của các cơ sở
kinh tế hiện có.
- Sử dụng nhiều lao động, tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
4. Hình thức FDI.
3

* FDI phân loại theo tính chất dòng vốn:
- Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần
hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một
mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định của công ty.
- Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI dùng lợi nhuận thu
được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
- Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay
công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để
đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
* FDI phân theo bản chất nhà đầu tư:
- Đầu tư phương tiện hoạt động.
- Mua lại và sáp nhập.
* FDI phân theo động cơ của nhà đầu tư:
- Vốn tìm kiếm tài nguyên.
- Vốn tìm kiếm thị trường.
- Vốn tìm kiếm hiệu quả.
5. Vai trò của FDI:
FDI đã đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: vốn FDI là nguồn vốn quan
trọng và là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện
và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý.
- Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tạo điều kiện mở rộng thị
trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: tạo ra đội ngũ lao

động có kỹ năng cho nước ta.
- Nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang phát triển và
với nhiều địa phương, thuế thu được từ các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
là nguồn ngân sách quan trọng. Ví dụ ở Hải Dương, riêng thu thuế từ
công ty lắp ráp ôtô Ford đã chiếm 50% số thu nôi địa trên địa bàn toàn
tỉnh năm 2006.
- Đối với các nước đang phát triển, khi có sự xuất hiện của doanh
nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không
khí hoạt động của các doanh nghiệp “nóng lên” và buộc họ phải hoàn
thiện và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp để tồn tại và phát
triển.
PHẦN II :
TÌNH HÌNH FDI Ở VIỆT NAM TỪ 1988 ĐẾN NAY.
4

Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 20 năm qua, có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện
nay, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh
tế quốc tế rất có hiệu quả đối với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam.
1. Sơ lược về quá trình hình thành hệ thống pháp luật về ĐTNN tại
Việt Nam.
Nhìn lại hơn 20 năm trước, trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp; các nước ở Đông Á và Đông Nam Á dang thực
hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới.
Về trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, mang nặng tính
chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế
lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọn, mức lạm phát lên tới trên
700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào

tình trạng thiếu vốn trầm trọng.
Trong hoàn cảnh dó, Đảng ta đã chủ trương mở của nền cửa nền
kinh tế, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc
“đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư
năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. từ
khi ban hành năm 1987 đến nay, luật ĐTNN dã được sửa đổi, bổ sung 4
lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990; 1992; 1996; 2000. Sự
ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã
bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho
phù hợp với hoàn cảnh mới. Việc ban hành luật này đã mở đầu cho việc
thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực
hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày
01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước.
Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần
quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình
ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 đến nay.
Luật Đầu tư đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng hơn tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
2. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2007:
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ
5

các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự
án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
2.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007:

* Giai đoạn 1999- 1990: Những năm đầu của hoạt động ĐTNN tai Việt Nam.
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã
hội đất nước.
* Giai đoạn 1991-1996: Bước đầu tăng trưởng của FDI trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng
vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh
tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN
tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với
1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng
vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt
Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với
một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị
trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các
thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh
tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng
gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD).
Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm
trước.
* Giai đoạn 1997-1999: Sự suy giảm của hoạt động FDI ở Việt Nam.
Trong 3 năm 1997- 1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng
ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước: năm
1998, vốn FDI là 3,897 tỷ USD, chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng
46,8% năm 1998; và chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ.
Năm Tổng vốn đầu tư
(tỷVNĐ)
Vốn trong nước
(tỷ VNĐ)

Đầu tư nước ngoài
Số lượng(tỷVNĐ) Tỷ trọng(%)
1991 13471 11545 1926 14,3
1992 24737 19552 5185 21,0
1993 24177 31556 10621 25,2
1994 54296 37796 16500 30,4
1995 68048 46048 2200 32,3
1996 79367 56667 22700 28,6
1997 96870 66570 30300 31,3
1998 97336 73036 24300 25,0
1999 105200 86300 18900 18,0
2000 120600 989200 21800 12,2
Tổng 701502 527270 174232 24,8
6

Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những
năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về
tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
* Số dự án bị giải thể trước thời hạn:
Gai đoạn Số dự án bị giải thể
trước thời hạn
Số vốn đăng ký
(triệuUSD)
1988-1990 6 24
1990-1995 236 1.468
1996-2000 400 6.159
2001-6/2003 246 3.718
* Giai đoạn 2000-2005: Những bước phục hồi chậm của FDI ở Việt Nam.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng

21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn
đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD),
tăng 6% so với năm 2002.
* FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1%
so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007
đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và
tăng hơn gấp đôi so với năm 1996 - năm cao nhất của thời kỳ trước khủng
hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8
tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục
tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức
năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là
các dự án có quy mô vừa và nhỏ.
* Tỷ trọng vốn FDI của các châu lục đầu tư vào Việt Nam qua các thời kỳ.
1988 - 1990 1991 - 1995 1996 - 2000 2001 - 2005
Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng
Tổng 1.58 100% 16.24 100% 21.64 100% 30.40 100%
Châu Á 0.78 49.3% 11.20 69.0% 13.51 62.4% 21.22 69.8%
Châu Âu 0.69 43.4% 2.63 16.2% 4.55 21.0% 5.08 16.7%
Châu Mỹ 0.11 7.3% 2.31 14.5% 2.68 12.4% 1.83 6.0%
Châu Phi 0 0% 0.47 0.3% 0.90 4.2% 1.61 5.3%
* Giai đoạn từ 2006 đến nay:
Trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể
(32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu
7

trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...)
và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao
cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt

Nam.
Năm 2007, vốn FDI đã đạt mức kỷ lục là 20,3 tỷ USD vốn đầu tư đăng
ký, vượt 56% kế hoạch dự kiến. Như vậy, chỉ riêng năm 2007, số vốn thu hút
được đã chiếm 25% tổng số vốn trong 20 năm qua.
2.2 Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007):
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu
tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự
án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng
vốn đầu tư đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong
5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm
trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ
USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong
đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và
từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm
trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7%
trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2
năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn
tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao
nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt
70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là
72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng
kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm
phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ

1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ
lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là
36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại
Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn,
mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của
nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
2.3 Quy mô dự án :
8

Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng
tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư
Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua
các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu
vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5
triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án
đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án
trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được
cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên,
quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ
2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn
2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy
mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số
dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm
của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic,
Honhai, Compal, Piaggio....).
2.4 Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:
* ĐTNN phân theo ngành nghề:
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú

trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Trong những năm 90
thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi,
khuyến khích các dự án : 1- Sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, 2- Sản
xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), 3- Sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam
đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không
yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước.
Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy
có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng
khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông
tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện
tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt
Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án
ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các
sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất
hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế,
xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao
động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ
trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT)
với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic,
Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại
9

×