Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Dự án nhà máy lọc dầu dung quất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.2 KB, 11 trang )

TÌNH HUỐNG
DỰ ÁN NHÀ MÁY LỌC DẦU DUNG QUẤT
Quá trình hình thành và phát triển của Khu kinh tế Dung Quất và nhà máy
lọc dầu Dung Quất được thể hiện qua những mốc thời gian và sự kiện quan
trọng sau đây:
* tháng 2/1992, sau khi phân tích tình hình phát triển kinh tế của khu vực
và vị trí chiến lược của các tỉnh miền Trung trong giai đoạn sắp tới, Phó tiến
sĩ Trương Đình Hiển và Kỹ sư Bùi Quốc Nghĩa đã soạn thảo và triển khai
chương trình nghiên cứu và lựa chọn các khu vực có thể làm cảng biển ở
khu vực miền Trung và đã tiến hành nghiên cứu 12 vị trí: Quy Nhơn, Đề Gi,
An Dũ, Tam Quan (Bình Định), Sa Huỳnh, Trà Câu, Cửa Đại, Sa Kỳ, Dung
Quất (Quảng Ngãi), Kỳ Hà (Quảng Nam), Vịnh Đà Nẵng (Đà Nẵng) và
Chân Mây (Thừa Thiên - Huế).
* tháng 9/1992, PTS.Trương Đình Hiển và KS.Bùi Quốc Nghĩa đã hoàn
thành dự án chọn địa điểm cảng biển nước sâu Dung Quất.
* ngày 10/9/1992, PTS.Trương Đình Hiển và KS.Bùi Quốc Nghĩa đến
báo cáo và giới thiệu dự án với Ban Khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi và
xin đi thực địa để kiểm tra hiện trường tại Dung Quất.
* ngày 11/9/1992, nhóm tác giả đã báo cáo dự án với UBND tỉnh
Quảng Ngãi.
* tháng 11/1992, đại diện UBND tỉnh Quảng Ngãi, Ban Khoa học kỹ
thuật và Sở Giao thông vận tải vào TP Hồ Chí Minh để nghe tác giả báo cáo
dự án.
* ngày 18/12/1992, UBND Tỉnh Quảng Ngãi gửi báo cáo dự án Dung
Quất và Tờ trình lên Văn phòng Chính Phủ.
1
* ngày 10/01/1993, tác giả Trương Đình Hiển báo cáo dự án Cảng biển
nước sâu Dung Quất với Phó Thủ tướng Phan Văn Khải tại hội trường
UBND tỉnh Quảng Ngãi.
* ngày 19/9/1994 Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến UBND xã Bình Thuận,
huyện Bình Sơn để nghe Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu các dữ


liệu ban đầu về cảng biển nước sâu Dung Quất (gọi tắt chương trình 693) và
UBND tỉnh Quảng Ngãi báo cáo về dự án cảng biển nước sâu Dung Quất và
KCN Dung Quất và đi thị sát Vũng Dung Quất.
Sau chuyến viếng thăm, khảo sát của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, các Bộ
ngành chức năng và các đoàn của Trung ương đã khẩn trương về Quảng
Ngãi khảo sát, làm việc và lập các phương án quy hoạch khu công nghiệp và
cảng biển nước sâu Dung Quất.
Vào ngày 09/11/1994 Thủ tướng Chính Phủ ký Quyết định 658/TTg
về chọn địa điểm nhà máy lọc dầu tại Dung Quất và quy hoạch Khu Kinh tế
trọng điểm miền Trung; Chính phủ đã giao cho Tổng Công ty dầu khí Việt
Nam phối hợp cùng đối tác nước ngoài lập báo cáo khả thi chi tiết nhà máy
lọc dầu số 1 tại Dung Quất và giao cho Uỷ ban kế hoach nhà nước chủ trì lập
sơ đồ phát triển, giao cho Bộ Xây dựng lập quy hoạch bố trí mặt bằng và
giao cho các ngành liên quan phối hợp với Tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam
– Đà Nẵng lập đề án phát triển ngành trong khu kinh tế trọng điểm miền
trung.
Ngày 11/4/1996, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Quyết định số 207/
TTg về việc “Phê duyệt quy hoạch chung khu công nghiệp Dung Quất”.
Quyết định nêu rõ KCN Dung Quất là KCN lọc và hoá dầu đầu tiên của cả
nước, tập trung nhiều ngành công nghiệp có quy mô lớn, gắn liền với cảng
biển nước sâu Dung Quất và sân bay Quốc tế Chu Lai, là trung tâm kinh tế
2
của tỉnh Quảng Ngãi trong vùng kinh tế trọng điểm miền trung và có ý nghĩa
quan trọng về quốc phòng.
Để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc xây dựng và phát triển KCN
Dung Quất theo đúng kế hoạch, tiến độ đã định, ngày 16/8/1996 Thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định số 553/TTg thành lập Ban quản lý KCN Dung
Quất.
Ngày 5/12/1997, tại kỳ họp thứ hai - Quốc hội khoá 10 (từ ngày
21/11/1997 - 12/12/1997) đã thông qua Nghi quyết số 07/1997/QH10 về dự

án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất là công trình quan trọng Quốc gia.
Ngày 10/7/1997, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 514/TTg về việc
đầu tư Dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất.
10 giờ ngày 8/1/1998 - Động thổ - khởi công xây dựng nhà máy lọc dầu
số 1 - Dung Quất.
Ngày 11/3/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 50/2005/
QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Khu kinh tế
Dung Quất, cùng với việc gói thầu số 1 và số 4 của Nhà máy lọc dầu Dung
Quất được ký kết, khẳng định sự nghiệp Dung Quất phải thực hiện thành
công mục tiêu đã đặt ra ngay từ đầu. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng,
quyết định thúc đẩy tiến trình phát triển của Khu kinh tế Dung Quất; thể
hiện sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Ngãi; sự quan
tâm đúng mức và quyết tâm của Nhà nước ta đối với công cuộc phát triển
kinh tế của Khu vực trọng điểm Miền Trung.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định thành lập KKT Dung
Quất (Quyết định số 50/2005/QĐ-TTg ngày 11/3/2005 và Quyết định số
72/2005/QĐ-TTg ngày 05/4/2005) tình hình thu hút đầu tư vào Dung Quất
có những chuyển biến mạnh mẽ, nhiều dự án có qui mô lớn đã và đang đăng
ký đầu tư vào KKT Dung Quất, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như các
3
dự án công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến, dịch vụ... Tháng 11/2005
Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã khởi công trở lại, tất cả các yếu tố trên đã
đưa KKT Dung Quất bước vào một giai đoạn mới, đó là giai đoạn tăng tốc
và phát triển.
Ngày 7 – 2 – 2007 ,Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (petrovietnam)
chính thức kí hợp đồng EPC dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất với Tổ hợp
nhà thầu TPC theo hình thức hợp đồng trọn gói,chìa khóa trao tay.
Tổ hợp nhà thầu TPC gồm các đơn vị là Công ty Technip (Pháp),
Technip Geoproduction (Malaysia), JGC (Nhật Bản) và Tecnicas Reunidas
(Tây Ban Nha).

Theo ông Trần Ngọc Cảnh, Tổng Giám đốc Petrovietnam, đây là gói
thầu chính và quan trọng nhất của dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, bao
gồm toàn bộ các phân xưởng công nghệ, các phân xưởng phụ trợ, các hạng
mục công trình chung khác trong phạm vi hàng rào nhà máy và hạng mục
công trình nhập dầu thô.
Phạm vi khối lượng công việc của tổ hợp Technip trong hợp đồng 1+4
bao gồm thiết kế chi tiết, mua sắm vật tư thiết bị; xây dựng, lắp đặt; chạy
thử, nghiệm thu và chuyển giao cho chủ đầu tư vận hành nhà máy. Ngoài ra,
nhà thầu còn phải thực hiện công tác đào tạo đội ngũ vận hành và bảo dưỡng
nhà máy cho chủ đầu tư; cung cấp các vật tư, hóa phẩm, xúc tác, phụ tùng
thay thế trong những năm đầu vận hành.
Gói thầu 1+4 bao gồm 14 phân xưởng, trong đó có 9 phân xưởng phải
mua bản quyền công nghệ. Tiến độ thực hiện hợp đồng là 44 tháng, kể từ
ngày hợp đồng có hiệu lực (ngày 25/6). Trong đó giai đoạn hoàn thiện xây
lắp là 36 tháng, giai đoạn chạy thử, nghiệm thu là 8 tháng. Thời gian bảo
hành công trình theo hợp đồng là 24 tháng. Nhà thầu cũng cam kết sử dụng
tối đa năng lực của các nhà thầu phụ VN.
4
Trị giá hợp đồng vào khoảng 1,564 tỷ USD, còn giá trị của cả nhà máy
công suất 6,5 triệu tấn/năm này sẽ vào khoảng 2,5 tỷ USD. Như vậy là giá
thành gói thầu số 1+4 cũng như giá thành cả nhà máy nói chung đã cao gấp
hai lần so với khi dự án này được thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa
X (năm 1997). Tuy nhiên, đến nay, dự án mới chỉ triển khai được một số
công việc ban đầu trị giá khoảng 200 triệu USD.
Theo các chuyên gia trong ngành, khó khăn lớn nhất khiến dự án đội
giá là do phải phát sinh thêm 2 phân xưởng công nghệ để có thể cho ra được
xăng Mogas 90, thay vì xăng Mogas 80, 83 như dự kiến ban đầu. Thêm vào
đó, sự biến động tỷ giá giữa đồng Euro và USD (khoảng 40%), giá thép
nguyên liệu và các loại vật tư đều tăng gần gấp 2 lần... khiến nhà máy đắt
gấp đôi. Trong các lý do chậm trễ còn phải kể đến việc lựa chọn hình thức

liên doanh 50-50 với Nga đã không phù hợp, dẫn tới việc phải xóa sổ liên
doanh Vietross. Nguyên nhân cuối cùng là những yếu kém của phía VN.
Ngày 16/8/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1056/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung
Quất, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng,
quyết định thúc đẩy tiến trình phát triển của Khu kinh tế Dung Quất; thể
hiện sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Ngãi, mà nhất
là huyện Bình Sơn; sự quan tâm đúng mức và quyết tâm của Nhà nước ta đối
với công cuộc phát triển kinh tế của Khu vực trọng điểm Miền Trung.
Hiện nay, KKT Dung Quất đã hoàn thiện cơ bản hệ thống hạ tầng
thiết yếu; đang tiếp tục phát triển hạ tầng, tiện ích nhằm đáp ứng đồng bộ và
tốt hơn yêu cầu của các dự án đầu tư.
Ngày 22-2-2009, cả nước đón chào mẻ dầu đầu tiên xuất xưởng từ Nhà
máy lọc dầu Dung Quất mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam”. Điều đó đã
khẳng định sự thành công trong việc quan tâm chỉ đạo lãnh đạo của Đảng và
5

×