Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Phát triển khu vực kinh tế tư nhõn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.11 KB, 37 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế như hiện nay thì nó
cũng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta. Để có thể thúc đẩy và
phát triển kinh tế-xã hội nước ta, thực hiện chủ chương đường lối CNH-HĐH
của Đảng và Nhà nước thì đòi hỏi lỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, các
thành phần kinh tế và toàn dân. Trong đó phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân, nó là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống nền kinh tế nước
ta. Những đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế là không nhỏ trong những
năm qua. Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ đóng góp lớn vào GDP của cả
nước mà nó còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao
động. Nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì khu vực
kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn, thách thức và cơ hội. Nguyên nhân
một phần là do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó còn do thói quen dựa dẫm ỷ
lại, tư duy cũ của thể chế kế hoạch hoá tập trung và những suy nghĩ không đúng
đắn của một số bộ phận công chức công quyền về khu vực này. Từ đó dẫn đến
yêu cầu cấp thiết là phải có những giải pháp hợp lý để phát triển khu vực kinh tế
tư nhân trước thềm hội nhập đang đến gần. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối kết
hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, phía doanh nghiệp …Từ những vai trò và ý
nghĩa trên chúng em quyết định chọn đề tài: “Phát triển khu vực kinh tế tư
nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”để viết.
1
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN THỜI
GIAN QUA
1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân
1.1. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện
1.1.1. cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được cải thiện
Trong năm 2004 vấn đề cải cách thủ tục hành chính liên quan đến khu vực
kinh tế tư nhân đã được cộng đồng các doanh nghiệp đánh giá cao. Chính sách
thuế và các vấn đề liên quan đến thuế là một trong những vấn đề bức xúc nhất
của cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung


trong nhiều năm qua. Trong năm 2004, chính sách thuế tiếp tục được cải thiện
nhằm tạo “sân chơi” bình đẳng, xoá dần những bất hợp lý, khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân. Quyết định 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
có hiệu lực từ ngày 1/1/2004 thí điểm về tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, bỏ cơ
chế thông báo , áp đặt hoặc tính thuế thay doanh nghiệp. Cơ chế tự tính, tự kê
khai, tự nộp thuế năm 2004 được áp dụng thí điểm ở khoảng 300 doanh nghiệp
tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh. Kết quả thử nghiệm này sẽ được
xem xét vào năm 2005 và sau đó sẽ mở rộng cho các doanh nhiệp ở các địa
phương khác. Đây là một bước tiến xây dựng một hệ thống tự đánh giá theo
chuẩn mực quốc tế trong việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp .
các quy định về thuế suất ,quy định miễn giảm thuế trong năm 2004 đã có
sự điều chỉnh theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Mức
thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh : mức thuế suất phổ thông đã
được giảm xuống còn 28%, thuế suất ưu đãi là 20%, 15%, và 10% (mức thuế
suất cũ là 32% , 25%, 20% và 15% ); bỏ thuế thu nhập bổ sung đối với doanh
nghiệp trong nước, mở rộng diện thuế ưu đãi, mở rộng diện thuế áp dụng thuế
suất 0% đối với thuế giá trị gia tăng. Đến nay, hầu hết các chính sách thuế đã
được xây dựng trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp. Chính sách ưu đãi thuế được áp
dụng chung cho các thành phần kinh tế. Bất kì doanh nghiệp nào, nếu có đủ điều
2
kiện ưu đãi đều có thể được hưởng các ưu đãi theo quy định. Chẳng hạn, tiền sử
dụng đất, các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế đều được hưởng các ưu
đãi về khoản thu về đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có giá trị sản lượng hàng
xuất khẩu trên 30% giá trị hàng hoá, dịch vụ sản xuất, kinh doanh cũng được
giảm tiền sử dụng đất hoặc miễn tiền thuê đất trong một số năm ; miễn giảm
thuế sử dụng đất với cơ sở sản xuất, kinh doanh được nhà nước giao đất để thực
hiện dự án thuộc ưu đãi đầu tư. Mức ưu đãi tuỳ thuộc vào mức độ đáp ứng các
điều kiện ưu đãi của dự án, không phân biệt loại hình hay thành phần kinh tế .

Ngày5/4/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg về
một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao, theo đó nhà đầu
tư sẽ được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập ở mức cao nhất (10% trong suốt
thời gian thực hiện dự án; miễn bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm
50% trong chín năm tiếp theo ) ; ưu đãi về sử dụng đất; cho phép vay vốn tín
dụng trung hạn, dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu
tư .v.v..
Các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ đã được hưởng các chính sách ưu
đãi ở mức cao hơn bình thường như: Kinh tế trang trại, làng nghề .v.v.. Nghành
thuế cũng đã áp dụng phương thức thu thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với năng
lực quản lý của các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều chính sách tài chính khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn
đã được sửa đổi, bổ sung như : chính sách khuyến khích nghành nghề nông
thôn, chính sách khuyến tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng,
khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế trang trại, dịch vụ nông thôn .
Công tác kiểm tra của hải quan được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm”, thực hiện kiểm tra có trọng điểm, mở rộng diện miễn kiểm tra hoặc kiểm
tra xác suất, giảm bớt các loại giấy tờ trong hồ sơ, thủ tục hải quan.
Các thủ tục hành chính về đăng kí kinh doanh và chế độ báo cáo của
doanh nghiệp tiếp tục được đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh
3
nghiệp. Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay
thế Nghị định 02/NĐ-CP năm 2000, đã đưa ra một số quy định mới thuận lợi
hơn cho đăng ký kinh doanh. Trình tự, thủ tục và hồ sơ thành lập doanh nghiệp
được rút ngắn. Thời gian thành lập doanh nghiệp đã được giảm từ khoảng hơn
90 ngày trước đây, xuống còn 7 ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ (ở nhiều
địa phương thời gian đăng ký kinh doanh chỉ còn 2-4 ngày ). Thành phố Hồ Chí
Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời gian đăng ký
kinh doanh còn 1 giờ, chí phí kinh doanh giảm đáng kể .
Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, các cơ quan thuế,

hải quan, kho bạc đã bước đầu thực hiện kết nối thông tin với nhau nên đã làm
giảm được khoảng 50% số chi tiêu mà doanh nghiệp cần báo cáo và giúp cho
thủ tục kê khai nộp thuê, hoàn thuế nhanh chóng hơn. Thời gian làm thủ tục
đăng ký mã số thuế và hải quan ở một số địa phương đã giảm xuống còn 10
ngày. Thủ tục mua hoá đơn tài chính cũng đơn giản hơn và khuyến khích doanh
nghiệp tự phát hành hoá đơn. Việc đơn giản hơn các thủ hành chính là một trong
những nhân tố quan trọng làm cho số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và bổ
sung ngành, nghề kinh doanh tăng nhanh trong năm 2004.
1.1.2. Môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế tư nhân cũng tiếp tục
đựơc đổi mới. Cơ sở pháp lý phân định rõ quyền của Nhà nước, của cán bộ,
công chức với quyền của người đầu tư và doanh nghiệp đã được xác định rõ
hơn, từng bước xoá bỏ thói quen ôm đồm, làm thay và gây phiền hà, khó khăn
cho doanh nghiệp từ phía cơ quan Nhà nước. Lần đầu tiên, thẩm quyền cấm hay
hạn chế kinh doanh đựoc giới hạn vào 3 cơ quan thẩm quyền cao nhất (Quốc
hội, Uỷ ban thưòng vụ Quốc hội và Chính phủ ). Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc bãi bỏ 116 giấy phép, chuyển 46 giấy phép sang điều kiện kinh
doanh không cần giấy phép hoặc sang quản lý theo phương thức khác .
Để tạo môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng cho các thành phần kinh
tế, Luật Doanh nghiệp sửa đổi theo hướng thống nhất các loại hình doanh
nghiệp đang được soạn thảo; Luật Đầu tư thống nhất cũng đang được nghiên
4
cứu sửa đổi chuẩn bị nhằm điều chỉnh chung cho cho hoạt động đầu tư cả trong
nước và quốc tế. Dự kiến, năm 2005 sẽ ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp thống nhất .
1.1.3. Công tác quản lý đất đai cũng được cải tiến và phân cấp cụ thể hơn.
Các khâu trung gian và thời gian làm các thủ tục hành chính trong việc giao đất,
thuê đất làm mặt bằng kinh doanh được rút ngắn. Các doanh nghiệp được phép
tự thoả thuận với người có đất trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất,
kinh doanh thông qua việc nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhiều địa phương đã ban hành các quy định

thông thoáng, minh bạch, đơn giản hơn về quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê
đất và quy trình thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng .
Trong năm 2004, Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định quy định chi tiết
việc thi hành Luật Đất đai: Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi
hành Luật Đất đai; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày
16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 13/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về
thu tiền sử dụng đất. Các nghị định này đã tạo điều kiện thuân lợi hơn cho doanh
nghiệp trong việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy chưa phát
huy tác dụng trong năm 2004, những nghị định trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các năm tiếp theo trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tồn tại nhiều năm
nay.
Để thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với
các nguồn vốn vay, Chính phủ đã ban hành một số quyết định mở rộng đôí
tượng được uỷ thác thực hiện tác nghiệp của Quỹ bảo lãnh cho Quỹ hỗ trợ phát
triển; giao hoặc uỷ thác cho quỹ đầu tư tài chính địa phương. Ngân hàng nhà
nước và các ngân hàng thương mại cũng đã có các quy định thông thoáng hơn,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể, chủ trang trại tiếp
5
cận thuận lợi hơn với các nguồn vốn tín dụng. Vì vậy, số lượng các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng chính
thức đã tăng lên đáng kể.
Trong những năm gần đây và năm 2004, Chính phủ, các bộ ngành và một
số địa phương đã có nhiều biện pháp góp phần giúp cho doanh nghiệp giảm chi
phí sản xuất, nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm
2004, đã bãi bỏ 343 loại phí và lệ phí, đã thống nhất áp dụng mức thu và giảm
thu đối với hàng chục loại phí và lệ phí với mức giảm bình quân chung là 20%,
giãn cách các mức phí, cải tiến quy trình thu phí, giảm giá cước và các dịch vụ

viễn thông đến mức thấp hơn hoặc tương đương với mức bình quân khu vực,
bình ổn giá xăng, xi măng.
Trong năm 2004, hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục được hình
thành, phát huy tác dụng tích cực đối với các doanh nghiệp. Hình thành nhiều tổ
chức hỗ trợ gồm các quỹ, các trương trình hỗ trợ, các câu lạc bộ, các trung tâm
hỗ trợ cung cấp thông, hỗ trợ tư vấn đào tạo …Nhiều bộ, ngành đã thành lập
các tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: Cục xúc tiến thương mại (Bộ
thương mại ), Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp (Bộ tư pháp), Trung tâm thông
tin doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp, trong năm 2004, Chính
phủ đã giao trách nhiệm cho các cơ quan hữu quan tập hợp và đề xuất cách giải
quyết các kiến nghị của doanh nghiệp về thể chế, chính sách, đồng thời lập các
nhóm công tác gồm cán bộ có trách nhiệm của một số ngành, đặc biệt là thuế hải
quan, quản lý đất đai, ngân hàng trực tiếp đến các địa phương giải quyết tại chỗ
các vướng mắc của doanh nghiệp. Ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hải Dương,
Hải Phòng, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh v.v.., lãnh đạo các tỉnh, thành
phố cũng đã định kỳ tổ chức gặp các doanh nghiệp, không phải hàng năm mà
hàng quý, hàng tháng và đã có các biện pháp rất cụ thể để giải quyết kịp thời các
vướng mắc của doanh nghiệp.
I.2. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp
6
Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm
từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000-2004. Trong
khi đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7.165
công ty cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Sự
thay đổi về tỷ lệ loại hình doanh nghiệp mới cho thấy các nhà đầu tư trong nước
đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp;
có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh
nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với

quản trị nội bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần
nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế
chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn.
Hình 1. Số lưọng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
thời kỳ 1992-2004
Nguồn: cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004

Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập
mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ. Trong 4 năm các doanh nghiệp đã đầu
tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.175 tỷ đồng (tương
đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong
7
cùng thời kỳ); trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm
2002 là gần 3 tỷ USD, năm 2003 khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5-2004
khoảng 1,8 tỷ USD. Riêng số vốn mới đăng ký giai đoạn 2000-2003 đã cao gấp
hơn 4 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Vốn đăng ký mới ở tất cả các
tỉnh thành phố từ năm 2000 đến tháng 7-2003 đều cao hơn số vốn đăng ký thời
kì 1991-1999. Trong đó, có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc tăng cao gấp hơn 4 lần; có
11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn 10 lần; thậm chí có những tỉnh như: Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Hưng Yên …đạt tốc độ hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng, vốn đăng
ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các
tỉnh khác, nhất là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung.
Hình 2. Số vốn đăng ký hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
thời kỳ 1998-2004
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004
Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu toàn
xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và
năm 2003 trên 27%. Tỷ trọng đầu của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên
tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước

(DDNN), gần bằng tổng vốn đầu tư của DDNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu
tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là
nguồng vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư
8
của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm
38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DDNN và
ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%).
Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký
bình quân/doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm
2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng: 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ
đồng. Doanh nghiệp đăng ký vốn thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ
đồng (hơn 13 triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các
địa phương là 10 tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh
nghiệp thấp nhất (422 triệu đồng ), tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức
vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp cao nhất là ở Hưng Yên, gần 3 tỷ đồng;
tiếp đó là Quảng Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình
quân/doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 1,25 tỷ
đồng .
Vốn đầu tư thực tế. Đây là một vấn đề khó xác định chính xác, nhưng qua
phản ánh từ nhiều nguồn thông tin đều cho thấy số vốn thực tế cao hơn nhiều so
với số vốn đăng ký. Đánh giá này có thể được khẳng định qua khảo sát thực tế ở
một số tỉnh. Ví dụ, ở tỉnh Nam Định số vốn đăng ký của các doanh nghiệp năm
2002 là 84,5 tỷ đồng, thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp tại khu
công nghiệp Hoà Xá đã lên tới gần 700 tỷ trong cùng thời kỳ; ở tỉnh Lào Cai,
trong khi vốn đăng ký kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ, thì vốn đầu tư
thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ, trong đó phần quan trọng là của khuc
vực kinh tế tư nhân. Tình hình cũng tương tự ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình
và một số nơi khác.
Bảng 2. Vốn đăng ký trung bình của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời kỳ
1991-2004

Đơn vị tính: triệu đồng
Loại hình doanh 1991- 1999 2000 2001 2002 2003 2004
9
nghiệp 1998
Doanh nghiệp tư
nhân
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
Công ty hợp danh
197
1.006
11.832
-
400
1.360
5.136
-
439
1.091
4.223
550
546
1.276
4.923
88
629
1.513
6.473
-
665

1.577
6.675
300
621
1.603
5.783
981
Tổng 570 1.099 960 1.300 1.800 2.120 2.015
Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN), theo thống
kê chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996-2003), cả nước đã có 12.638 dự án
được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên
192.484 tỷ đồng (tương đương 12,8 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 1996-1997 là
trên 1,2 tỷ USD, năm 2000 là 1,7 tỷ USD, năm 2002 là 2,8 tỷ USD. Đến nay, tỷ
trọng của doanh nghiệp dân doanh liên tục tăng và đã vượt lên hẳn tỷ trọng đầu
tư của DNNN tương đương là 62,3% và 37,7% . Các dự án đầu tư theo Luật
KKĐTTN đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Tính bình quân
mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút khoảng 120 lao
động. Một điểm đáng ghi nhận nữa là sự hưởng ứng của các nhà đầu tư Việt
Kiều với Luật này và cơ chế, chính sách tạo diều kiện đầu tư về nước: tính đến
tháng 12-2003, trên cả nước có 1.200 dự án với lượng vốn đầu tư khoảng 2.500
tỷ đồng.
Bảng 3: Số lượng dự án được hưởng ưu đãi đầu tư theo ngành nghề, địa bàn
(1996-6/2004)
Dự án ưu đãi
theo ngành nghề
và địa bàn
Số dự án Vốn đầu tư (tỷ
đồng)
Lao động(người)
10

Số dự án ưu đãi theo
ngành nghề
Số dự án được ưu
đãi theo địa bàn :
- Địa bàn kinh tế
xã hội khó khăn
- Địa bàn kinh tế
xã hội đặc biệt
khó khăn
6.496
1.863
550
63.135
8.350
1.720
789.069
165.080
76.540
Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTƯ tổng hợp qua báo cáo của các tỉnh/thành phố
1.3. Tạo nhiều công ăn việc làm mới
Nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,4-1,5 triệu người đến tuổi tham gia
thị trường lao động. Ngoài ra, số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang
làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm
phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với
chính phủ và các cấp chính quyền địa phương
Thực tế ở địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết dược 5 lao
động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu từ 20-30 triệu đồng,
hàng năm 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu từ 40-50 triệu đồng .Trong khi
1 ha đất phục vụ phát triển công nghiệp có thể sử dụng hàng chục hàng trăm lao
động mỗi năm với thu nhập bình quân mỗi năm gần 10 triệu đồng. Theo điều

tra gần đây của Viện nghiên cứu Trung ương, các doanh nghiệp kinh tế tư nhân
đầu tư trung bình từ 70-100 triệu đồng là đã tạo ra một chỗ việc làm, trong khi
đó với doanh nghiệp nhà nước, thì doanh số từ 210 đến 280 triệu đồng (cao gấp
3 lần), Với suất đầu tư cho một chỗ làm bình quân như vậy, trong 4 năm qua khu
vực kinh tế tư nhân thu hút được phần lớn nhân công lao động (khoảng từ 1,6
đến 2 triệu chỗ làm việc mới).
Kết quả sơ bộ tình hình thực hiện luật KKĐT cho thấy , trong 9 năm
thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong các dự án thực hiện theo
11
Luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và
hàng nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động gián tiếp làm trong các
doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng các doanh nghiệp nhà nước; và đưa
tổng số lao động làm trong các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lên
hơn 7 triệu người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xoá
đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức của lao động nông thôn
1.4. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu
Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh
tế tư nhân sản xuất, như: hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thuỷ hải sản, cà
phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, v.v..Theo đánh giá của Bộ Thương mại, khu vực
kinh tế tư nhân, mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực
thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo
nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước trong tương lai.
Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vục kinh tế tư nhân ở nhiều
địa phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch giữa các vùng và các tỉnh. Doanh
nghiệp ở các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa
phương trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim
ngạch xuất khẩu của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả
nước (ở Tp.Hồ Chí Minh là 12,5%). Nhìn chung, tỷ lệ này ở địa phương là rất

thấp, dưới 10%; tuy nhiên cũng có một số cá biệt như; Hà Giang chiếm 60%
xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%.
1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào nguồn
ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ
khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của DNNN là
21,6% và 23,4% ). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh
12
năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu
từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu tăng 29,5% so với cùng kỳ
các năm trước.
So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh
trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, Thành phố Hồ
Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu của ngân sách
địa phương là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình
19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33% v.v..
Nhìn chung đóng góp trực tiếp vào nguồn ngân sách nhà nước của các
doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua
là chưa tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng
góp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia
đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông
thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương
trong cả nước.
1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và
các cơ chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến
quy mô hoạt động, đã đóng góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc dẩy tăng
trưởng kinh tế. Tác động tích cực này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn

đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người
dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền
kinh tế nhờ tăng thêm tính cạnh tranh trên thị trường v.v…
Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh
tế tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và
tiếp tục duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đầu năm
2003 là 18,4% (so với cùng kỳ năm 2002). Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị
sản xuất ở một số địa phương tăng với mức cao như Hà Nội: 25,8%, Hải Phòng:
13
23%, Hà Tây: 38,4%, Hải Dương: 25,2%, Vĩnh Phúc 27,2%, Bình Dương:
25,6% và cần thơ: 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần
không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị
công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc
v.v..Đến nay, tỷ trọng giá trị sản xuất của doanh nghiệp tư nhân trong công
nghiệp chiếm 26,5% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần
trăm so với thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2004, và 4 điểm phần trăm
so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh
nghiệp.
1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ
Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do xuất hiện của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào việt Nam mang theo những công
nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước ứng dụng tiến bộ công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình
trên thị trường. Năm 2002, ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển
giao công nghệ, trong đó khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Như vậy, mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Cho đến nay, mới chỉ có
một số DNNN quy mô lớn (chủ yếu là các tổng công ty 90, 91) có cơ sở hoạt
động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho

nghiên cứu, triển khai của khối DNNN ở Việt Nam cũng còn ở mức thấp,
khoảng 0,2% doanh thu, qúa thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp các
nước phát triển. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia
hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là
tiếp thu, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ, hầu hết doanh nghiệp Việt
Nam chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập
khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần
mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu
14

×