Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thụ lý vụ án hành chính , thực trạng & Giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.45 KB, 62 trang )



Trang
Lời cảm ơn
Lời giới thiệu
Chơng một: Những vấn đề lý luận chung về thụ lý vụ án hành chính ..
05
1.1 Khái quát chung về thụ lý vụ án hành chính ... 05
1.1.1 Khái niệm thụ lý vụ án hành chính . 05
1.1.2 Vị trí vai trò của thụ lý trong thủ tục tố tụng hành chính 10
1.2 Căn cứ thụ lý vụ án hành chính ... 13
1.3 Thời điểm thụ lý vụ án hành chính .. 27
Chơng hai: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án hành
chính .
28
1.1 Thụ lý vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành ... 28
1.2 Thực tiễn việc thụ lý vụ án hành chính những năm năm gần đây ... 39
1.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thụ lý vụ án hành chính . 41
Chơng ba: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính
..
47
1.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành chính ... 47
1.2 Mục tiêu và phơng hớng .. 48
1.3 Các giải pháp cụ thể 48
1.3.1 Công tác xây dựng pháp luật ... 49
1.3.2 Công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật . 55
1.3.3 Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ, Thẩm phán hành chính 56
1.3.4 Công tác tổng kết thực tiễn xét xử hành chính 59
1.3.5 Các biện pháp khác . 59
Kết luận
61


Danh mục tài liệu tham khảo và chú thích ...
63
Lời giới thiệu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việc dân kiện quan xa nay vốn không phải là điều hiếm lạ trong
lịch sử đất nớc Việt Nam. Dới thời phong kiến với những trói buộc của luật lệ
hà khắc, việc khiếu kiện đó có thể phải đổi bằng cả tính mạng của các bậc quân
thần. Từ khi chính quyền dân chủ nhân dân đợc thành lập (02/09/1945), ngay từ

1

những ngày đầu dựng nớc, Đảng và Nhà nớc ta luôn quan tâm tới công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo nói chung, giải quyết khiếu kiện hành chính nói riêng.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện và cũng
chính thực tiễn góp phần kiểm nghiệm tính hiệu quả của hệ thống pháp luật đó;
vì vậy, sự thừa nhận quyền khiếu kiện hành chính cũng nh việc thành lập Toà
hành chính (năm 1996) đã đáp ứng đợc nhu cầu bức xúc của thực tiễn- của việc
đổi mới phơng thức giải quyết khiếu kiện hành chính, sự mong mỏi chính đáng
của xã hội là để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ngăn
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan nhà nớc. Nói cách khác,
nó là chiếc chìa khoá vàng để giải quyết những khúc mắc của lòng dân.
Tuy nhiên, muốn nâng cao hiệu lực quản lý hành chính nhà nớc, thúc đẩy
kinh tế phát triển, đảm bảo thực thi tốt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
bên trong quan hệ quản lý hành chính nhà nớc, thì việc ban hành một hệ thống
các quy định về thủ tục tố tụng hành chính phù hợp và thực hiện chúng nghiêm
chỉnh trên thực tế là việc làm cần thiết. Ngày 21 tháng 5 năm1996, Uỷ ban th-
ờng vụ Quốc Hội Nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX đã thông
qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, (Pháp lệnh này đã đợc
sửa đổi, bổ sung một số điều vào ngày 25 tháng 12 năm 1998) làm căn cứ pháp
lý để tổ chức thực hiện việc xét xử hành chính ở nớc ta.

Có thể nói, với sự kiện này, trong kho tàng các phơng thức bảo đảm pháp
chế và kỷ luật trong quản lý nhà nớc có thêm một phơng thức mới, thuộc loại
rất quan trọng: Cơ quan hành chính- cơ quan công quyền đóng vai trò là bị đơn
duy nhất trong các vụ án hành chính mà Toà án xét xử [Tr 511- 16].
Căn cứ vào Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và những
văn bản pháp lý liên quan, những khiếu nại của công dân cha đợc giải quyết
thoả mãn có thể đợc khởi kiện ra Toà hành chính. Mặc nhiên, gánh nặng đơn
th khiếu nại của các cơ quan hành chính phần nào đã đợc giảm đi, góp phần
củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nớc và chế độ, nâng cao ý thức tự
giác đấu tranh của nhân dân đối với các sai phạm trong quản lý hành chính nhà
nớc. Song, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều những đơn th khiếu nại của nhân dân cha

2

thoả mãn mà vẫn không đợc giải quyết theo con đờng khởi kiện ra Toà. Lợng
đơn khởi kiện còn ùn lại trớc cửa quan là rất lớn. Nguyên nhân chính là do
thủ tục tố tụng hành chính mà trớc hết là công tác thụ lý vụ án hành chính cha
thực sự phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống, nó đã và đang bộc lộ những hạn chế
cần phải khắc phục.
Thực tế cho thấy rằng, việc hoàn thiện công tác thụ lý vụ án hành chính
là một quá trình đòi hỏi phải thờng xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
nghiên cứu đổi mới phù hợp với nhiệm vụ, yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử,
trên cơ sở nhận thức ngày một đầy đủ và khoa học hơn về thủ tục tố tụng hành
chính.
Đứng trớc thực trạng trên, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài luận văn: Thụ lý
vụ án hành chính, thực trạng và giải pháp , mong rằng luận văn sẽ đóng góp
phần nào cho việc hoàn thiện cơ chế khiếu kiện hành chính ở nớc ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ theo chiều sâu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về thụ lý vụ án hành chính. Chỉ ra những hạn chế và

nguyên nhân của nó trong việc thụ lý vụ án hành chính. Từ đó tìm ra những giải
pháp nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính đạt hiệu quả.
- Phân tích một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án hành chính, các căn cứ
để thụ lý vụ án hành chính;
- Phân tích làm sáng tỏ thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ
lý vụ án hành chính những năm vừa qua, chỉ ra những hạn chế và kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong việc xét xử hành chính của
Toà án;
3. Phơng pháp nghiên cứu.
Luận văn đợc nghiên cứu trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lê Nin, t tởng hồ chí minh, đờng lối của Đảng về xây dựng Nhà nớc pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử và các phơng pháp khác nh: phơng pháp phân tích, phơng pháp so sánh, ph-
ơng pháp thống kê, phơng pháp lịch sử cụ thể

3

4. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chơng:
- Chơng một: Những vấn đề lý luận chung về thụ lý vụ án hành chính;
- Chơng hai: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thụ lý vụ án
hành chính ở Việt Nam;
- Chơng ba: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án hành
chính;
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù đợc thầy giáo hớng dẫn tận
tình chỉ bảo và sự nỗ lực của bản thân, song trong khuôn khổ của luận văn tốt
nghiệp đại học, trình độ bản thân có hạn , đề tài đòi hỏi phải nghiên cứu theo
chiều sâu. Vì vậy, không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đợc sự
chỉ bảo và lợng thứ của các thầy cô giáo, các bạn đọc.
Hy vọng sau này có dịp, chúng ta sẽ trở lại đề tài này một cách toàn diện,

sâu sắc hơn nữa.
Sinh Viên của Thầy Cô
Nguyễn Hữu Thành
Chơng một
*****
Những vấn đề lý luận chung
về thụ lý vụ án hành chính
1.1 khái quát chung về thụ lý vụ án hành chính.
1.1.1 khái niệm thụ lý vụ án hành chính.
Công cuộc đổi mới đòi hỏi sự hoàn thiện nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và quá trình phát triển t pháp hành chính ở nớc ta thể hiện là lô
gích tất yếu của hớng tăng cờng dân chủ, tăng cờng các phơng thức, biện pháp

4

bảo vệ công dân trong quan hệ hành chính với các cơ quan Nhà nớc và đấu
tranh, hạn chế các việc làm tuỳ tiện, trái pháp luật từ phía các cơ quan, cán bộ
công chức Nhà nớc có thẩm quyền. Với sự xác lập cơ chế xét xử hành chính
này, việc xem xét, thụ lý và giải quyết vụ án hành chính thuộc về trách nhiệm
của hệ thống Toà án nhân dân nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [Tr
515- 16].
Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, thụ lý (Pháp ngữ gọi là enrôler
l affaire; Anh ngữ gọi là handle a case in a law court) có nghĩa là việc chịu
cái lẽ phán xử của pháp luật. Đơng sự thụ lý không khiếu nại gì. Còn theo
cuốn Hán Việt từ điển thì thụ lý là sự chấp nhận án kiện để phân xử. Trong
khoa học pháp lý, không phải ngẫu nhiên mà thuật ngữ thụ lý lại đợc sử dụng
một cách phổ biến nh vậy. Đồng nghĩa với cụm từ này, ta có thể thấy các cụm
từ khác cũng ít nhiều có nghĩa tơng tự, ví nh : Chấp nhận hay Đồng ý
Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ đúng và khoa học phải xuất phát từ ngữ cảnh
của nó.

Xét về mặt cấu trúc ngữ pháp, thụ lý đợc xem là một động từ chỉ hoạt
động diễn tả một trong những hoạt động có mục đích của con ngời. Khi nhà
nớc xuất hiện, phần lớn các công việc trong xã hội do nhà nớc quản lý. Trong
quản lý nhà nớc, ngời có thẩm quyền phải dựa trên cơ sở quyền lực nhà nớc để
buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng [Tr 13- 21]. Cũng
chính vì thế mà hành vi thụ lý của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền thể hiện
một quan hệ không bình đẳng và chỉ đơn phơng quyết định, (cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền không thể thoả thuận về việc có thụ lý hay không thụ lý).
Dới góc độ luật tố tụng hành chính, thụ lý thờng đợc hiểu là việc Toà
án chính thức tiếp nhận và giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của mình (thụ
lý vụ án hành chính). Do vậy, để làm rõ khái niệm thụ lý vụ án hành chính,
thì bên cạnh việc tìm hiểu khái niệm thụ lý trên đây còn cần phải nắm đợc
những vấn đề lý luận chung về vụ án hành chính.
Vụ án (case, trial- Tiếng Anh; affaire, procès- Tiếng Pháp) theo Từ điển
Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng 1998) có

5

nghĩa là sự việc không hay và rắc rối xảy ra. Dới góc độ tố tụng hành chính,
vụ án đợc hiểu là vụ việc Toà án có trách nhiệm giải quyết theo yêu cầu hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức để bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khỏi sự xâm hại một cách
trái pháp luật từ quyền hành pháp.
Thực tiễn quản lý hành chính nhà nớc diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp.
Sự xung đột về lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân là rất phổ biến. Đó là
lý do làm nảy sinh các tranh chấp, bất đồng. Các tranh chấp nảy sinh trong các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động quản lý hành chính nhà nớc có thể là tranh
chấp giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nớc với nhau (nh là tranh chấp về
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính ), cũng có thể là tranh chấp giữa chủ
thể quản lý hành chính nhà nớc với đối tợng quản lý hành chính nhà nớc

Đối với tranh chấp giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nớc với nhau
thì việc giải quyết chúng sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà
nớc, vì đó là công việc nội bộ của hệ thống quản lý hành chính nhà nớc. Còn
đối với tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nớc với đối tợng quản lý
hành chính nhà nớc (có thể hiểu là tranh chấp hành chính theo nghĩa hẹp),
chúng phát sinh từ quan hệ pháp luật hành chính giữa một bên là chủ thể quản
lý hành chính nhà nớc mang quyền lực nhà nớc và một bên là đối tợng quản lý
hành chính có nghĩa vụ phải phục tùng quyền lực ấy.
Khi thực thi công vụ, cơ quan nhà nớc và các cán bộ có thẩm quyền thờng
phải ban hành những văn bản quản lý hoặc những quyết định hành chính, hành
vi hành chính nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc ban hành
các quyết định hành chính và đơn phơng thực hiện các hành vi hành chính đó là
biểu hiện tập trung nhất thẩm quyền của các chủ thể quản lý hành chính nhà n-
ớc, đồng thời cũng là phơng thức chuyển tải nội dung áp đặt ý chí của chủ thể
quản lý hành chính nhà nớc tới các đối tợng quản lý thuộc quyền. Song, xuất
phát từ tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động quản lý hành chính nhà nớc mà
xu hớng lạm quyền, vi quyền, tuỳ tiện, thiếu căn cứ pháp lý, hoặc làm tổn hại
đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân là điều không thể tránh khỏi. Nói

6

cách khác, sự sử dụng quyền lực nhà nớc, áp đặt ý chí nhà nớc của chủ thể quản
lý hành chính nhà nớc luôn chứa đựng khả năng làm xuất hiện sự phản kháng
có ý thức của đối tợng quản lý hành chính chịu sự áp đặt ý chí nói trên. Sự phản
kháng đó thể hiện thái độ, sự đánh giá đối với hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nớc, đồng thời thể hiện sự mong muốn và lợi ích của đối tợng quản lý
hành chính nhà nớc.
Khi có sự xâm hại quyền, lợi ích do có sự áp đặt ý chí nhà nớc của chủ
thể quản lý hành chính nhà nớc, sự phản kháng của đối tợng quản lý chủ yếu đ-
ợc thể hiện thông qua các khiếu kiện hành chính đối với các hành vi, quyết định

hành chính nêu trên. Nội dung và mức độ gay gắt của khiếu kiện hành chính
chủ yếu phụ thuộc vào nội dung và mức độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía
các chủ thể quản lý hành chính nhà nớc. Vụ án hành chính phát sinh không nằm
ngoài những khiếu kiện đó. Việc giải quyết chúng cũng phải theo những cách
thức đặc biệt nhằm bảo đảm giải quyết các tranh chấp ấy thực sự khách quan,
công bằng, dân chủ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thuật ngữ vụ án hành chính
chỉ chính thức đợc thừa nhận trong khoa học pháp lý, khi Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính đợc Uỷ ban thờng vụ Quốc Hội ban hành năm
1996. Điều 1 Pháp lệnh quy định: Cá nhân, cơ quan nhà nớc, tổ chức theo thủ
tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà
án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trớc đây, những quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các tr-
ờng hợp kể trên chỉ đợc giải quyết bằng con đờng thủ tục hành chính và thông
qua việc thực hiện bởi bộ máy hành chính và công chức của họ. Sự tồn tại của
cơ chế Bộ trởng- Quan toà đã bộc lộ những hạn chế vốn có nh: trật tự tự xử
lý mình, giải quyết không kịp thời, không khách quan, hay ép phải chấm
dứt giải quyết khiếu tố bằng quyết định giải quyết cuối cùng vẫn luôn luôn hiện
hữu. Đến nay, việc thừa nhận quyền khiếu kiện hành chính tại Toà án không
nhằm thay thế cũng nh không làm triệt tiêu thẩm quyền giải quyết khiếu nại của
các cơ quan hành chính nhà nớc, mà chỉ nhằm khắc phục những hạn chế trong
việc giải quyết khiếu kiện hành chính của các cơ quan này.

7

Nh vậy, bên cạnh quyền đợc khởi kiện các vụ án về hình sự, dân sự, kinh
tế và lao động thì công dân đợc quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định
của pháp luật. Để có vụ án hành chính, pháp luật không chỉ có những quy định
ràng buộc đối với ngời khởi kiện mà pháp luật còn có những quy định đối với
chủ thể tiến hành tố tụng, nhất là Toà án. Vụ án hành chính đợc thụ lý giải
quyết, trớc hết nó phải thuộc thẩm quyền của Toà án nhất định mà pháp luật đã

ghi nhận .
Tóm lại, vụ án hành chính là vụ án đợc phát sinh tại Toà án có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính , do cá nhân, cơ quan
nhà nớc hoặc tổ chức khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trớc một quyết định hành chính, hành vi hành chính (Giáo
trình Luật tố tụng hành chính. Trờng Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân
dân- Hà Nội 2001).
Các hoạt động để đi đến thụ lý vụ án hành chính là những hành vi tố
tụng đầu tiên mà Toà án phải tiến hành để đi đến quyết định có hay không có
các giai đoạn tiếp theo của vụ án hành chính. Vì vậy, có thể nói, thụ lý vụ án
hành chính trớc hết là một trong những quyền và nghĩa vụ của Toà án . Điều
này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Toà án trong xét xử hành chính.
Toà hành chính là cơ quan chuyên xét xử các vụ án hành chính nhằm bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khi có các
quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm; bảo vệ pháp chế và kỷ
luật nhà nớc trong quản lý hành chính. Có nghĩa là, Toà án sẽ thụ lý vụ án nếu
nh việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn cứ pháp luật và theo
trình tự do pháp luật quy định. Đồng thời, Toà án cũng có quyền không thụ lý
vụ án và trả lại đơn kiện nếu nh việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức
không có căn cứ pháp luật, không tuân thủ trình tự do pháp luật quy định. Thụ
lý vụ án hành chính không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ; việc hiện hữu Toà
án với t cách là cơ quan bảo vệ pháp luật nên Toà án không thể từ chối nghĩa vụ
của mình. Nói cách khác, Toà án sẽ phải thụ lý mà không có quyền trả lại đơn
kiện hay thực hiện những biện pháp khác nếu nh việc khởi kiện của ngời khởi

8

kiện theo đúng quy định của pháp luật. Vì thế, một trong những yêu cầu đối với
Toà án khi tiến hành kiểm tra những điều kiện cần thiết để thụ lý vụ án hành
chính phải luôn luôn xuất phát từ lợi ích của những ngời tham gia tố tụng, phải

đảm bảo trật tự, vô t, khách quan. Hơn nữa, một khi Toà án đã thụ lý vụ án thì
cũng có nghĩa là vụ án sẽ đợc giải quyết. Do vậy, nó luôn đặt ra trách nhiệm rất
lớn đối với Toà án đã thụ lý để Toà án giải quyết vụ án hành chính có hiệu quả
và đúng pháp luật.
Tóm lại, thụ lý vụ án hành chính là việc Toà án chấp nhận đơn khởi
kiện của ngời khởi kiện hay quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát theo đúng
quy định của pháp luật để vào sổ thụ lý vụ án (Giáo trình Luật tố tụng hành
chính. Trờng Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân- Hà Nội 2001).
Giữa khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính có mối quan hệ chặt
chẽ bởi những lý do sau:
Thứ nhất: Khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là cơ sở để Toà án thụ
lý vụ án; không có khởi kiện, khởi tố thì sẽ không có việc thụ lý vụ án của Toà
án. Theo tinh thần của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì,
khởi kiện là quyền tự định đoạt thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối với
việc yêu cầu Toà án phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành chính
mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Khởi kiện chính vì vậy là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa
ngời khởi kiện với Toà hành chính thuộc Toà án nhân dân có thẩm quyền. Chức
năng của Toà án nói chung và của Toà hành chính nói riêng là xét xử các vụ án
hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khởi kiện. Có thể
khẳng định rằng, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động thụ lý
của Toà án. Khởi tố vụ án hành chính là quyền của Viện Kiểm Sát. Việc khởi tố
của cơ quan này cũng chính là hành vi tố tụng để mở đầu cho cả quá trình Toà
án giải quyết vụ án hành chính [Tr 87, 15].
Thứ hai: Việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính có đợc chấp nhận
hay không lại phụ thuộc vào hoạt động thụ lý của Toà án. Toà án chỉ thụ lý vụ
án hành chính khi nó thoả mãn những căn cứ luật định. Toà án sẽ trả lại đơn

9


kiện khi việc khởi kiện, khởi tố rơi vào một trong những trờng hợp pháp luật
quy định phải trả lại đơn kiện. Mặt khác, thông qua những trờng hợp Toà án trả
lại đơn kiện sẽ làm cho việc khởi kiện tuân thủ những quy định của pháp luật,
hạn chế tình trạng khởi kiện tràn lan.
1.1.2 vị trí vai trò của thụ lý trong thủ tục tố tụng hành chính.
Trong hoạt động tố tụng hành chính, khởi kiện và thụ lý vụ án đợc coi là
giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này, Toà án xem xét
nội dung, thủ tục vụ án để quyết định có đa vụ án ra Toà án xem xét hay không.
Vì vậy, việc xét xử vụ án hành chính có đúng pháp luật hay không đúng pháp
luật phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động thụ lý. Nếu không có việc thụ lý vụ án
hành chính thì sẽ không có quá trình tố tụng hành chính tiếp theo. Hơn nữa, thụ
lý vụ án hành chính có ý nghĩa pháp lý quan trọng, vì nó đặt trách nhiệm của
Toà án là phải giải quyết vụ án trong thời hạn pháp luật quy định kể từ ngày thụ
lý vụ án. Để hiểu rõ đợc vị trí, vai trò của thụ lý vụ án trong thủ tục tố tụng hành
chính cần thiết nắm đợc quá trình tố tụng hành chính khi giải quyết một vụ án
hành chính.
Hoạt động tố tụng giải quyết các vụ án hành chính phải trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án. Đây là trình tự
có tính chất bắt buộc trong việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án. Nếu
nh khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là quyền của ngời khởi kiện và của Viện
Kiểm Sát thì thụ lý vụ án hành chính đợc xem là quyền và nghĩa vụ của Toà án.
Việc chấp nhận đơn của ngời khởi kiện, quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát
và vào sổ thụ lý vụ án của Toà án có một ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ
chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Toà án trong việc giải quyết vụ án
hành chính, mà còn giúp cho Toà án có những nhận định ban đầu cần thiết về
tình trạng tranh chấp hành chính, phơng hớng giải quyết vụ việc và hạn chế tình
trạng thụ lý những vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của
mình, là cơ sở để Toà án nhân dân tiến hành việc giải quyết vụ án hành chính,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơng sự. Với ý nghĩa đó, thụ lý vụ án


10

hành chính không chỉ có vị trí, vai trò trong giai đoạn này mà còn có vai trò, vị
trí không thể thiếu trớc khi tiến hành các giai đoạn khác của việc giải quyết một
vụ án hành chính.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn tiếp theo sau khi có quyết định
thụ lý vụ án hành chính của Toà án. Trong trờng hợp Toà án trả lại đơn kiện thì
sẽ không tồn tại giai đoạn này. Do đó, việc thụ lý vụ án hành chính là cơ sở cần
thiết để Toà án có thẩm quyền tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh các tình
tiết liên quan đến vụ án bằng những biện pháp khác nhau, bớc đầu nhận định
bản chất của quyết định, hành vi hành chính bị kiện để từ đó có thể ra một trong
các quyết định: Quyết định đa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết vụ án, đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tiếp tục sau khi
có quyết định đa vụ án ra xét xử của Toà án có thẩm quyền. Trong giai đoạn
này, những tình tiết, tài liệu, chứng cứ do các đơng sự cung cấp từ giai đoạn
khởi kiện và thụ lý vụ án sẽ là cơ sở quan trọng trong việc ra phán quyết về
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc và quyết định việc bồi thờng thiệt hại (nếu có) cho ngời
khiếu kiện. Mặt khác, việc thụ lý đơn khiếu kiện hành chính còn làm phát sinh
những quyền hạn cụ thể của Toà án trong xét xử hành chính. Toà án chỉ sử dụng
những quyền hạn đó trong quá trình giải quyết những vụ án đã đợc thụ lý. Một
khi đơn kiện đã đợc thụ lý thì cũng có nghĩa vụ án hành chính đã phát sinh và
vụ án đó phải đợc giải quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật
của Toà án.
Ngoài ra, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, giai đoạn
giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật, việc thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan

Cũng cần bàn thêm rằng, trờng hợp những bản án hay quyết định của Toà
án cấp sơ thẩm cha có hiệu lực pháp luật, nhng bản án hay quyết định này bị
Viện Kiểm Sát cùng cấp hoặc trên một cấp kháng nghị hoặc bị kháng cáo của

11

những chủ thể có quyền theo quy định của Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính và việc kháng cáo đó trong thời hạn pháp luật quy định,
thì Toà án cũng vẫn phải tiến hành thụ lý vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm
(Tuy nhiên, ở cấp phúc thẩm, việc thụ lý này không tách riêng thành một giai
đoạn độc lập nh khi xét xử sơ thẩm vụ án hành chính).
Việc phân định các giai đoạn tố tụng của vụ án hành chính chỉ mang tính
chất tơng đối. Thực tế áp dụng các giai đoạn này diễn ra liên tục, tạo nên sự liên
hoàn trong khi giải quyết vụ án hành chính.
Nh vậy, để đảm bảo cho việc ra đợc bản án hoặc quyết định của Toà án
phù hợp với thực tế khách quan, bảo vệ đợc quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nớc cũng nh của ngời khởi kiện, hoạt động thụ lý vụ án hành chính chiếm vai
trò quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải
quyết vụ án hành chính. Mặt khác, thụ lý vụ án hành chính còn góp phần giảm
bớt những mâu thuẫn, tranh chấp kéo dài trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin
cho các cơ quan pháp luật nói chung và Toà án nói riêng.
Điểm quan trọng nhất của thụ lý vụ án hành chính là cơ quan có thẩm
quyền giải quyết vụ án sau khi nhận đợc đơn kiện trong thời gian nhất định phải
ra đợc một trong các quyết định: Quyết định thụ lý vụ án hoặc quyết định trả lại
đơn kiện cho ngời khởi kiện khi có những căn cứ nhất định
Khi đã thừa nhận khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu
tiên của tố tụng hành chính thì giai đoạn này bao giờ cũng có thời điểm bắt đầu
và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này đợc tính từ khi Toà
án nhận đợc đơn kiện của ngời khởi kiện và thời điểm kết thúc đợc tính từ khi
Toà án có một trong các quyết định kể trên. Tuy nhiên, còn có những Toà án

cha nhận thức hết vị trí, tầm quan trọng của thụ lý vụ án hành chính dẫn đến
tình trạng thụ lý chậm, kéo dài, nhiều trờng hợp nhận đơn khởi kiện một vài
tháng mới xem xét để thụ lý. Việc thụ lý chậm, kéo dài đã vi phạm các quy
định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, ảnh hởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức dễ dẫn đến bức xúc mà vi
phạm hình sự

12

1.2 căn cứ thụ lý vụ án hành chính.
Về nguyên tắc, Toà án chỉ thực hiện thẩm quyền xét xử hành chính của
mình khi có đơn khởi kiện hoặc quyết định khởi tố vụ án. Nhng, trách nhiệm
giải quyết vụ án hành chính của Toà án cũng không mặc nhiên phát sinh từ khi
có quyết định khởi tố hay có đơn khởi kiện vụ án hành chính. Pháp luật quy
định quyền quyết định thụ lý vụ án hành chính thuộc về Toà án trên cơ sở
những điều kiện (căn cứ) nhất định để hạn chế khiếu kiện tràn lan và kiểm tra
những diều kiện cần thiết cho việc giải quyết có hiệu quả, đúng pháp luật các vụ
án hành chính.
Nh vậy, căn cứ thụ lý vụ án hành chính là những cơ sở do pháp luật
quy định mà dựa vào đó để Toà án xem xét có thụ lý vụ án hành chính hay
không thụ lý vụ án hành chính. Căn cứ thụ lý vụ án hành chính có một số đặc
điểm sau:
- Căn cứ thụ lý vụ án hành chính là những quy định cụ thể của pháp
luật. Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật. Hệ thống các văn bản pháp luật là
phơng tiện để chuyển tải các chủ trơng, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà
nớc. Do đó, có thể khẳng định, hệ thống văn bản pháp luật nói chung và pháp
luật về tố tụng hành chính nói riêng là cơ sở pháp lý làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quan hệ pháp luật. Các căn cứ thụ lý vụ án hành chính đợc đề cập
ở chơng này do Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định.
- Việc xem xét các căn cứ này trớc khi tiến hành thụ lý vụ án là bắt buộc.

Toà án không thể thụ lý vụ án sau đó mới xem xét các căn cứ pháp luật quy
định. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng khởi kiện tràn lan, thụ lý cả những vụ việc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, làm ảnh h ởng tới các hoạt
động bình thờng khác của Toà án nhân dân.
- Những căn cứ này là cơ sở cho Toà án thực hiện chức năng xét xử của
mình. Nếu pháp luật tố tụng hành chính không quy định cụ thể những căn cứ
thụ lý vụ án hành chính thì sẽ rất khó khăn cho Toà án khi thụ lý vụ án, khi tiến
hành các giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết một vụ án, nh giai đoạn
chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử sơ thẩm, Khái quát lại, về nguyên tắc, Toà

13

án không có thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính vô điều kiện mà chỉ thực hiện
việc thụ lý vụ án khi đơn khởi kiện, quyết định khởi tố thoả mãn những căn cứ
pháp luật quy định.
ở các nớc khác nhau trên thế giới thì căn cứ thụ lý vụ án hành chính có
những đặc thù riêng. Luật tố tụng hành chính của Trung Quốc quy định:
Toà án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Nguyên đơn là công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác phải chứng
minh có hành vi hành chính cụ thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
- Có bị đơn cụ thể, có địa chỉ cụ thể; có yêu cầu cụ thể và có căn cứ
chứng minh yêu cầu đó; việc khởi kiện này thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án
theo quy định của pháp luật tố tụng [Điều 37, 38- 25].
ở nớc ta, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không quy
định thành điều riêng về các điều kiện (căn cứ) thụ lý vụ án hành chính. Xét
một cách tổng thể các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện thụ lý vụ án
hành chính thì Toà án quyết định thụ lý vụ án hành chính khi có đủ các điều
kiện sau :
Thứ nhất: Ngời khởi kiện có năng lực chủ thể theo quy định của pháp

luật tố tụng hành chính.
Ngời khởi kiện vụ án hành chính bao gồm cá nhân, cơ quan nhà nớc hay
tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ công chức cho rằng quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc thôi việc nên đã
khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
Để xác định t cách pháp lý của ngời khởi kiện cần căn cứ vào quy định
tại các Điều 21, Điều 22, Điều 23 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính. Theo tinh thần của các điều luật này thì ngời khởi kiện là cá nhân phải từ
đủ 18 tuổi trở lên. Nếu đơng sự là ngời cha thành niên, ngời có nhợc điểm về
thể chất hoặc tâm thần thì thực hiện quyền nghĩa vụ của đơng sự trong tố tụng
thông qua ngời đại diện. Trờng hợp không có ai đại diện cho họ, Toà án sẽ cử

14

một ngời thân thích của họ hoặc yêu cầu một cơ quan, tổ chức cử một thành
viên đại diện cho họ. Nói cách khác, ngời khởi kiện phải có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng đợc hởng những
quyền tố tụng hành chính nh quyền khởi kiện vụ án hành chính, các quyền chủ
thể khi tham gia vào các giai đoạn của quá trình tố tụng hành chính và phải
gánh vác các nghĩa vụ tố tụng hành chính tơng ứng nh nghĩa vụ cung cấp bản
sao quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc mà mình khởi
kiện,
Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình sử dụng đúng
đắn các quyền và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của ngời khởi kiện do pháp luật
tố tụng hành chính quy định. Tuy nhiên, ngời khởi kiện có thể uỷ quyền cho bất
kì ngời nào đại diện cho mình tham gia tố tụng, trừ những trờng hợp bị pháp
luật ngăn cấm nh: Không có quốc tịch Việt Nam, không c trú ở Việt Nam; cha
đủ 18 tuổi; bị bệnh tâm thần; đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị kết án nhng cha đ-

ợc xoá; cán bộ Toà án, Viện Kiểm Sát; ngời giám định, ngời phiên dịch, ngời
làm chứng trong vụ án; ngời thân thích với Thẩm phán, Hội thẩm, Th kí Toà án,
Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án (Điều 22 Pháp lệnh).
Bên cạnh những vấn đề liên quan đến độ tuổi, khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của ngời khởi kiện cũng nh việc uỷ quyền , pháp luật còn
quy định cho phép đơng sự tự mình hoặc có thể nhờ luật s hay ngời khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Đồng thời, một ngời có thể bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho nhiều đơng sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của
những ngời đó không đối lập nhau. (Khoản 1, Khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh). Đó
là một số quy định của pháp luật liên quan đến năng lực hành vi tố tụng của ng-
ời khởi kiện.
Nếu ngời khởi kiện là cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã
hội thì họ tham gia tố tụng thông qua ngời lãnh đạo, ngời đứng đầu, ngời đại
diện đợc uỷ quyền của cơ quan, tổ chức đó. Ngời lãnh đạo, ngời đứng đầu cơ
quan, tổ chức là ngời có chức vụ, ngời này có thể đợc bổ nhiệm hoặc do bầu cử.

15

Nếu là ngời đợc uỷ quyền thì chỉ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trong
phạm vi đợc uỷ quyền.
Thứ hai: Vụ việc khởi kiện, khởi tố thuộc thẩm quyền của Toà án
đang xem xét vụ việc.
Về điều kiện này, trớc hết cần xác định đối tợng khởi kiện, khởi tố phải
là các quyết định, hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, mà cụ thể đối t-
ợng đó phải là quyết định hành chính (cá biệt), hành vi hành chính (hành động
hoặc không hành động của cán bộ, công chức khi thừa hành công vụ), quyết
định kỷ luật buộc thôi việc theo nghĩa quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 4
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định này thì:
Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà
nớc hoặc của ngời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nớc đợc áp

dụng một lần đối với một hoặc một số đối tợng cụ thể, về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan
nhà nớc, của ngời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nớc khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Quyết định kỷ luật buộc
thôi việc là quyết định bằng văn bản của ngời đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp
dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ
Vụ trởng và tơng đơng trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức.
Đây là điểm khác biệt giữa luật tố tụng hành chính nớc ta với luật hành
chính một số nớc trên thế giới.
Một số nớc trên thế giới, nơi có hệ thống luật tố tụng hành chính khá
phát triển, có những quy định cho phép cá nhân, tổ chức khởi kiện đối với văn
bản pháp quy. Ví dụ : ở Cộng hoà liên bang Đức, công dân có thể khởi kiện
trực tiếp một văn bản pháp quy. Việc chấp nhận một vụ kiện chống lại văn bản
pháp quy dẫn đến việc huỷ bỏ chính văn bản đó chứ không chỉ từ chối việc áp
dụng nó. Luật Tây Ban Nha còn quy định ngay cả khi hết thời hạn có thể kiện
ra trớc Toà, công dân vẫn có thể yêu cầu Toà hành chính tuyên bố một văn bản
pháp quy nào đó là bất hợp pháp, vi phạm pháp luật. Luật của Pháp cũng quy

16

định tơng tự nh vậy, mọi khiếu nại trực tiếp chống lại văn bản pháp quy sẽ đợc
khiếu nại trong thời hạn hai tháng kể từ ngày văn bản đó đợc công bố. Pháp luật
mở khả năng rộng rãi cho công nhân có quyền kịên một văn bản pháp quy với
lý do là văn bản đó liên quan đến quyền lợi ích của họ.
Ngoài ra, luật tố tụng hành chính một số nớc khác nh Italia, Bồ Đào
Nha, Đan Mạch, Lúch xăm bua, cũng quy định nh vậy.
Nh vậy, khác với pháp luật nớc ta, luật tố tụng hành chính của các nớc
trong cộng đồng Châu Âu dù thể hiện dới những hình thức khác nhau đều cho
phép công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện đối với các văn bản pháp

quy vi phạm. Có điểm khác nhau này có thể do một vài nguyên nhân nh: ở một
số nớc này, việc tổ chức bộ máy nhà nớc đều ít nhiều đều vận dụng thuyết tam
quyền phân lập, trong đó có sự đối trọng, kiềm chế giữa ba quyền: lập pháp,
hành pháp và t pháp. Và có lẽ còn một lý do khác, đó là do tính chất của một
văn bản pháp qui của họ khác với tính chất văn bản của nớc ta. Văn bản pháp
qui của một số nớc này có một số qui định rất cụ thể và có thể áp dụng ngay và
trong đó có chứa đựng những mệnh lệnh cụ thể có liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do vậy, rất có thể sẽ làm thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ và họ sẽ có quyền khởi kiện tại Toà án
yêu cầu toà án giải quyết.
Tuy nhiên, để có một vụ án hành chính đợc giải quyết tại Toà án, đảm
bảo đợc quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, cơ quan thì pháp luật tố tụng
hành chính Việt Nam đã quy định về tiền tố tụng. Đó là hoạt động bắt buộc
phải có đối với bên khởi kiện khi muốn khởi kiện một vụ án hành chính:
Một là: Cá nhân, cơ quan nhà nớc, tổ chức đã khiếu nại với ngời có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến
Điều 25 của Luật khiếu nại, tố cáo nhng hết thời hạn giải quyết quy định tại
Điều 36 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không đợc giải quyết và cũng
không tiếp tục khiếu nại đến ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;
Hai là: Cá nhân, tổ chức, cơ quan đã khiếu nại với ngời có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 19 đến Điều 25 của Luật

17

khiếu nại, tố cáo nhng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và
cũng không tiếp tục khiếu nại đến ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo. Đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trởng và tơng đơng trở xuống
theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức có quyền khởi kiện vụ án
hành chính về quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với mình, nếu đã khiếu nại
với ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu nhng không đồng ý với

quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến ngời có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo (Điều 2 Pháp lệnh 1998). Việc quy
định nh trên có ý nghĩa tạo điều kiện cho cơ quan nhà nớc tự sửa chữa những
quyết định, hành vi hành chính của mình. Đối với những công dân do cha nắm
chắc thông tin nên đã khiếu nại đối với những quyết định hành chính, hành vi
hành chính hợp pháp, thì sẽ có cơ hội đợc cơ quan hành chính nhà nớc giải thích
về những căn cứ pháp lý của những quyết định hay hành vi hành chính đó và
công dân có thể tự rút đơn kiện. Điều này làm đỡ tốn kém thời gian, công sức
và tiền bạc của công dân, bởi vì thủ tục khiếu nại hành chính nhanh chóng, tiết
kiệm hơn rất nhiều so với thủ tục tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, khi khởi kiện vụ
án hành chính ra Toà án thì tính hợp pháp của đối tợng khởi kiện sẽ đợc Toà án
đa ra xem xét, còn khi khiếu nại tới cơ quan nhà nớc có thẩm quyền thì cả tính
hợp pháp và tính hợp lý của quyết định, hành vi hành chính đều đợc xem xét
giải quyết. Hơn nữa, việc quy định giai đoạn tiền tố tụng hành chính nói
chung còn phù hợp với thông lệ thế giới, ví dụ: Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Trung
Quốc Tuy rằng, có nơi quy định trình tự đó là bắt buộc, có nơi không bắt
buộc [Tr 522- 16].
Ngoài điều kiện về đối tợng khởi kiện, khởi tố, vụ việc đang đợc Toà án
xem xét thụ lý còn phải thuộc thẩm quyền xét xử hành chính nói chung của Toà
án theo Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và thuộc
thẩm quyền xét xử hành chính cụ thể của Toà án mình theo quy định tại Điều
12 và Điều 13 của Pháp lệnh này.
Theo Điều 11 Pháp lệnh, các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử hành
chính của Toà án bao gồm có 9 loại việc nh: Khiếu kiện quyết định xử phạt vi

18

phạm hành chính; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong
việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố
khác v.v. Ngoài ra, Toà án còn có thẩm quyền xét xử hành chính đối với các

khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì các khiếu kiện này là: Khiếu kiện quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội
đồng khen thởng, kỉ luật của Đoàn luật s theo Pháp lệnh luật s; khiếu kiện các
quyết định liên quan đến việc chấp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ hoặc
từ chối cấp văn bằng bảo hộ theo Nghị định 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996
của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (Đã đợc sửa đổi bổ sung
bằng Nghị định 06/2001/NĐ- CP ngày 01/02/2001); khiếu kiện đối với hành vi
từ chối công chứng, chứng thực của ngời có thẩm quyền theo Nghị định 75/CP
ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính Phủ về công chứng, chứng thực. Ngoài
ra, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 01 tháng 10 năm 2002 thì
Toà án còn có thẩm quyền xét xử hành chính đối với các khiếu kiện: Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính; quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; quyết định giáo dục tại xã, phờng, thị
trấn, đa vào trờng giáo dỡng, đa vào cơ sở giáo dục, đa vào cơ sở chữa bệnh,
quản chế hành chính (Điều 119 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002).
Thứ ba: Thời hiệu khởi kiện vẫn còn theo quy định tại các Khoản 1 và
2 Điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã đợc sửa đổi, bổ
sung năm 1998. Cụ thể là:
1 Ngời khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong
thời hạn ba mơi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo
quy định của luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không đợc giải quyết hoặc kể
từ ngày nhận đợc quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại đó. Cán bộ, công chức khởi kiện đối với quyết
định kỉ luật buộc thôi việc phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mơi ngày, kể từ ngày nhận đợc quyết

19

định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết

khiếu nại đó.
Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì các thời hạn khởi
kiện nói trên là bốn mơi lăm ngày.
2 - Trong trờng hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở
nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà ngời khởi kiện không khởi
kiện đợc trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều này, thì thời gian có trở ngại
đó không tính vào thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện là một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy
định ; trong khoảng thời gian đó, ngời khởi kiện có quyền khởi kiện yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu hết thời hạn đó, ngời
khởi kiện không khởi kiện thì sẽ mất quyền khởi kiện. Nh vậy, thời hiệu khởi
kiện trớc hết là một khoảng thời gian, tuy nhiên, đây không phải là khoảng thời
gian thông thờng mà là khoảng thời gian do pháp luật quy định. Thực tế hiện
nay, trong nhân dân hầu hết còn có nhận thức là có thể khiếu kiện ra Toà án đối
với mọi quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp
luật, không phân biệt còn trong thời hiệu khởi kiện hay đã hết thời hiệu khởi
kiện. Để khắc phục tình trạng này thì công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật
trong nhân dân để họ hiểu đợc phải thực hiện quyền khởi kiện của mình trong
khoảng thời gian nhất định là điều rất quan trọng .
Pháp lệnh không quy định cụ thể là việc khiếu nại đó có cần phải đợc thụ
lý để giải quyết hay không, nhng trong trờng hợp quy định tại Điểm a Khoản 1
Điều 2 Pháp lệnh thì có thể khởi kiện vụ án hành chính ngay cả khi việc khiếu
nại không đợc thụ lý giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Trong
trờng hợp này, thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu có thể đợc ớc lợng tơng đối
bằng thời hạn thụ lý cộng với thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của
Luật khiếu nại, tố cáo.
Đối với các trờng hợp khiếu nại đã đợc thụ lý thì thời điểm phát sinh
quyền khởi kiện vụ án hành chính đợc xác định tuỳ thuộc vào việc khiếu nại có
đợc giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định hay không. Nếu khiếu nại đợc


20

giải quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu trong thời hạn Luật
khiếu nại tố cáo quy định, thì thời điểm phát sinh quyền khởi kiện vụ án hành
chính là ngày ngời khiếu nại nhận đợc quyết định đó. Trong trờng hợp ngời giải
quyết khiếu nại không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đúng
thời hạn Luật khiếu nại, tố cáo quy định, hoặc có quyết định này nhng ngời
khiếu nại không nhận đợc quyết định đó, thì thời điểm phát sinh quyền khởi
kiện vụ án hành chính đợc tính từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu
theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Tuy vậy, nhng Luật khiếu nại, tố cáo
và Nghị định 67 CP không hề quy định thời hạn gửi quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu tới ngời khiếu nại. Bên cạnh đó, pháp luật cũng không quy định cụ
thể về thời hiệu khởi tố vụ án hành chính , mà chỉ quy định chung chung là
Viện Kiểm Sát khởi tố vụ án hành chính khi không có ai khởi kiện. Do đó, việc
xác định thời điểm Viện Kiểm Sát có quyền khởi tố vụ án hành chính cũng gặp
nhiều khó khăn.
Thứ t : việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính phải đợc thực hiện
theo hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật .
Theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính thì việc khởi kiện vụ án hành chính phải đợc thực hiện bằng
đơn. Cụ thể, đơn kiện phải có các nội dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm
làm đơn; Toà án đợc yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; tên, địa chỉ của ngời
khởi kiện, ngời bị kiện; nội dung quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật
buộc thôi việc cán bộ, công chức hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;
nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (nếu có); cam đoan không
khiếu nại đến ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo; các yêu cầu đề
nghị Toà án giải quyết. Đơn kiện phải do ngời khởi kiện ký; nếu họ là ngời cha
thành niên, ngời có nhợc điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì phải do ngời đại
diện của họ ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho yêu cầu
của ngời khởi kiện.

Tuy Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không quy định
cụ thể về hình thức và nội dung của việc khởi tố, song việc Viện Kiểm Sát khởi

21

tố vụ án hành chính không chỉ nhằm mục đích thực hiện quyền công tố mà còn
thay mặt cho ngời có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi các quyết định
hành chính, hành vi hành chính, chính thức yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi
cho họ khi không thể tự mình và cũng không có ai khởi kiện cho họ. Do vậy,
việc khởi tố vụ án hành chính phải đợc thực hiện bằng quyết định khởi tố với
những nội dung tơng tự nh đối với đơn khởi kiện và kèm theo quyết định khởi
tố là những tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi tố của Viện kiểm sát.
Trên đây là những quy định của pháp luật về những căn cứ thụ lý vụ án
hành chính. Đây là cơ sở pháp lý để Toà án khi tiến hành thụ lý một vụ án hành
chính kiểm tra, đối chiếu xem việc khởi kiện của ngời khởi kiện có tuân thủ
những quy định của pháp luật không và để việc thụ lý vụ án hành chính của Toà
án có căn cứ pháp luật. Nhng, ý nghĩa sâu xa hơn là đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án hành chính đợc nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Với mục đích để tránh cho việc khởi kiện một cách tràn lan, lợi dụng
quyền khởi kiện cũng nh ra quyết định trả lại đơn kiện không có căn cứ, xâm
hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Điều 31 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính quy định: Toà án sẽ trả lại đơn kiện (không thụ
lý vụ án) trong những trờng hợp sau:
1. Ngời khởi kiện không có quyền khởi kiện. Đó là các trờng hợp: Ngời
khởi kiện không có năng lực pháp luật (bao gồm những ngời không có quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện ), ng ời khởi kiện không có năng lực hành vi (đó là những cá nhân công
dân cha đủ 18 tuổi, ngời có nhợc điểm về thể chất, tâm thần mà tự mình đệ đơn
kiện). Đối với ngời có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khă năng điều
khiển hành vi thì ngời tiến hành tố tụng phải đa họ đi kết luận giám định y

khoa, để xác định có hay không có nhợc điểm về thể chất hoặc tâm thần. Các tr-
ờng hợp: Công dân không đợc uỷ quyền hoặc đợc uỷ quyền nhng uỷ quyền
không hợp lệ, hoặc thực hiện quá phạm vi uỷ quyền; quyết định hành chính,
hành vi hành chính không liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
ngời khởi kiện thì Toà án cũng trả lại đơn kiện; ngời khởi kiện là cơ quan nhà n-

22

ớc, tổ chức tham gia tố tụng không thông qua ngời lãnh đạo, ngời đứng đầu cơ
quan, tổ chức đó khi khởi kiện; công dân không phải là ngời thừa kế hợp pháp
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là ngời khởi kiện đã chết và không đợc
Toà án chấp nhận cũng thuộc trờng hợp ngời khởi kiện không có quyền khởi
kiện .
2. Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng. Vấn đề thời
hiệu khởi kiện đã đợc đề cập trong phần 1.2 Chơng này. Nếu vụ án hành chính
đã hết thời hiệu khởi kiện nói trên thì mặc dù đơn khởi kiện của ngời khởi kiện
thoả mãn các điều kiện khác nhng Toà án cũng sẽ không thụ lý vụ án. Song, khi
có những lý do chính đáng (là những lý do khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của ngời khởi kiện, khiến ngời khởi kiện không thực hiện đợc
quyền khởi kiện), thì thời gian bị trở ngại khách quan đó không tính vào thời
hiệu khởi kiện. Trở ngại khách quan có thể là do thiên nhiên gây nên hoặc ngời
khởi kiện gặp phải rủi ro, tai nạn mà họ không thể thực hiện đợc quyền khởi
kiện của mình.
3. Cha hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu quy định tại điều 36
Luật khiếu nại, tố cáo và cha có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 36 Luật khiếu nại,
tố cáo là: Không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. Đối với vụ việc
phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhng không quá
45 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết. ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn
thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý

để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể
kéo dài hơn, nhng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết .
4. Đã hết thời hiệu khiếu nại quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo
mà không khiếu nại. Theo Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo, thời hiệu khiếu nại
là 90 ngày, kể từ ngày nhận đợc quyết định hành chính hoặc biết đợc có hành vi
hành chính. Trong trờng hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập
ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà ngời khiếu nại không thực

23

hiện đợc quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không
tính vào thời hiệu khiếu nại.
5. Cha có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ
luật buộc thôi việc. Quyết định kỷ luật với hình thức buộc thôi việc là loại
quyết định áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm khắc nhất mà hậu quả của quyết
định đó là việc cán bộ, công chức không còn là đối tợng áp dụng của quy chế
công vụ, không còn là ngời đợc đảm nhận các công vụ, nhiệm vụ của cán bộ,
công chức. Vì vậy, việc kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức ở trong trờng
hợp này không còn đơn thuần là công việc nội bộ trong cơ quan, tổ chức mà đã
ảnh hởng trực tiếp tới quyền lao động của cán bộ, công chức với t cách là công
dân. Việc pháp luật quy định quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công
chức là đối tợng khởi kiện hành chính là hợp lý. Song, pháp luật cũng giới hạn
phạm vi khiếu kiện vụ án hành chính đối với một số cán bộ, công chức nhất
định về quyết định đó; và khi cha có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu
nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì Toà án sẽ trả lại đơn kiện để tránh sự
can thiệp quá sâu của Toà án vào hoạt động nội bộ của các cơ quan, tổ chức
khác
6. Đã có quyết định giải quyết khiếu nại của ngời có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại tiếp theo. Khiếu nại tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại tiếp theo chính là việc công dân yêu cầu cơ quan nhà nớc phải tự kiểm

điểm mình, xem xét lại những quyết định hành chính, hành vi hành chính do
mình ban hành và cũng là cơ hội để những cơ quan này tự đánh giá việc thực thi
quyền lực nhà nớc đối với công dân và vì công dân, nghĩa là tự phán xét các
quyết định hành chính hoặc hành vi công vụ của mình. Nếu các tranh chấp hành
chính đã đợc giải quyết ngay bởi các cơ quan hành chính và cấp hành chính thì
thờng nhanh chóng, đơn giản, vừa có lợi cho công dân, vừa có lợi cho cơ quan
hành chính nhà nớc. Vì vậy, Pháp lệnh 1998 có quy định: cá nhân, tổ chức sau
khi đã khiếu nại đến chính cơ quan nhà nớc, cán bộ công chức đã ra quyết định
hành chính, hành vi hành chính, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại đó thì có quyền khiếu nại đến cơ quan giải quyết khiếu nại tiếp theo

24

hoặc khởi kiện đến Toà án. Một khi đã có quyết định giải quyết khiếu nại của
ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì Toà án sẽ trả lại đơn kiện,
không tiến hành thụ lý vụ án. (Thẩm quyền giải quyết khiếu nại các lần tiếp
theo đợc quy định tại Mục 21 Chơng II từ Điều 19 đến Điều 29 Luật khiếu nại,
tố cáo).
Tuy nhiên, nếu so sánh điểm này với Pháp lệnh luật s ngày 25 tháng 07
năm 2001 thì lại có sự khác biệt. Cụ thể: Có những trờng hợp giai đoạn tiền tố
tụng hành chính chỉ cần qua một lần khiếu nại theo thủ tục hành chính, nhng
cũng có trờng hợp phải khiếu nại đến lần thứ hai theo thủ tục hành chính rồi
mới có thể khởi kiện vụ việc ra Toà án. Ví dụ: Theo Khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh
luật s thì: Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ
nhiệm, Hội đồng khen thởng kỷ luật của Đoàn luật s khi có căn cứ cho rằng
quyết định đó là xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chủ nhiệm
Đoàn luật s có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ
nhiệm. Chủ tịch Hội đồng khen thởng, kỷ luật của Đoàn luật s có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Hội đồng khen thởng, kỷ luật. Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng có thẩm quyền giải

quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thởng kỷ
luật của Đoàn luật s mà đã đợc Chủ nhiệm Đoàn luật s hoặc Chủ tịch Hội đồng
khen thởng kỷ luật của Đoàn luật s giải quyết nhng vẫn còn khiếu nại. Nếu
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng, thì ngời khiếu nại có quyền khiếu nại lên
Bộ trởng Bộ t pháp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định
của pháp luật.
7. Sự việc đã dợc giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án. Ví dụ: Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hay bản án sơ
thẩm không bị kháng cáo Bởi vì ở đây, sự việc đã đ ợc giải quyết . Nếu muốn
xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì các đơng sự có thể
theo đuổi tiếp vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong trờng hợp
nhận thấy bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là không

25

×