Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Môn học pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tóm tắt bản án số 18a2016dsst ngày 1562016 của tòa án nhân dân tp tuy hoà tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.37 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

MÔN HỌC PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ
LỚP QT46B2
DANH SÁCH NHÓM (NHÓM 1)
ST
T
1
2
3
4
5
6

HỌ TÊN

MSSV

Vũ Thụy Giang Thanh

215380101

Mai Nguyễn Phương Thảo

5236
215380101


Hồ Mai Thy

5240
215380101

Nguyễn Hồng Thy

5258
215380101

Võ Anh Thy

5259
215380101

Lê Huỳnh Lam Trà

5260
215380101


7
8
9

Trần Lê Hồng Trâm

5261
215380101


Đoàn Ngọc Thảo Vy

5266
215380101

Phạm Châu Kim Yến

5283
215380101
5295


MỤC LỤC
Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng........................................................1
*Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Tịa án nhân dân TP.
Tuy Hoà tỉnh Phú Yên:.............................................................................................1
1. Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng không?...........................................................................................1
2. Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?.........................................1
3. Việc Tồ án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục khơng? Vì sao?...............................................................................................2
4. Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng
giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?............................3
Vấn đề 2: Hợp đồng vơ hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vơ hiệu.................4
*Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao:................................................................................4
* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao:..........................................................................................4
1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi

trả lời.......................................................................................................................4
2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?..................................................................................................................5
3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?............................................5
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần..............................................................6
5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.. .6
6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?............................................................................................................8
7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?.........................................................................................................................8
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa dân sự..........................8
9. Với các thơng tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?..................................................................9
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn...........................10


*Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao:................................................................................................10
1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?....................................10
2. Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn bảo
lãnh của Ngân hàng khơng?..................................................................................11
3. Theo Tồ án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện Ngân
hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có cịn trách
nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?.......11
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.. .11
Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn.....................13
Tình huống...............................................................................................................13

1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế......................................................................13
2. Trong tình huống nêu trên, việc Tịa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?...........................................................15
Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra...................17
*Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao Trà:........................................................................................17
1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?.......................................................17
2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra............................................................................17
3. Tịa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?...................................................................................................................18
4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?.......................18
5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân?......................................................................................................19
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân........................................................................................................19
Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.....................21
* Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên:..................................................................................................................21
1. Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.........................................21


2. Hồn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?...................................................................22
3. Nếu hồn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,

hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án khơng? Vì sao?.............23


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

DSPT

Dân sự phúc thẩm

DSST 

Dân sự sơ thẩm

BLDS 

Bộ luật dân sự

BTTH 

Bồi thường thiệt hại

UBND

Ủy ban nhân dân


Vấn đề 1: Thơng tin trong giao kết hợp đồng

*Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Tòa án nhân dân TP.
Tuy Hồ tỉnh Phú n:
Ngun đơn: ơng Hà Văn Linh, bà Lê Thị Mỹ Lộc.
Bị đơn: ông Đỗ Kim Thành, bà Trần Thị Ngọc Dinh. 
Ngày 29/9/2015, vợ chồng ông Linh, bà Lộc có giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông Thành, bà Dinh; vợ chồng ơng Linh có đặt cọc
50.000.000 đồng cho vợ chồng ông Thành. Tuy nhiên, sau cọc, ông Linh tìm hiểu
thì được biết lô đất mà ông đang mua của vợ chồng ông Thành là đất cấp theo Nghị
định 64 và đã có thơng báo thu hồi, khơng phải đất thổ cư như ơng Thành nói, đất
thuộc quyền sở hữu của ông Trần Dậu. Tòa xét việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất này là không hợp pháp nên hợp đồng đặt cọc đương nhiên vô hiệu, buộc vợ
chồng ông Thành phải trả lại 50.000.000 đồng cho ơng Linh.
1. Theo Tồ án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên mua về lơ đất
chuyển nhượng khơng?
Theo Tồ án, bên bán phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên
mua về lô đất chuyển nhượng. Cụ thể:
Xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ơng Hà Văn Linh thì thấy rằng:
Mục đích vợ chồng ơng Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà phải
là đất thổ cư theo quy định của pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất
mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn
theo nghị định 64 của Chính phủ và đã có thơng báo thu hồi đất
nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không
cung cấp rõ thông tin về lô đất; Mặt khác quyền sử dụng đất mà
vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ơng Linh khơng
thuộc quyền sử hữu của mình mà của ông Trần Dậu nhưng vợ
chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ơng Linh. Vì vậy
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp cho nên
hợp đồng đặt cọc giữa vợ chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông
Đỗ Kim Thành đương nhiên vô hiệu.
2. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung

cấp thơng tin về lơ đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp một bên có
thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của
bên kia thì phải thơng báo cho bên kia biết.”
1


+ Điều 443 BLDS 2015:
Bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần
thiết về tài sản mua bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản
đó; nếu bên bán khơng thực hiện nghĩa vụ này thì bên mua
có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện trong một thời hạn
hợp lý; nếu bên bán vẫn không thực hiện làm cho bên mua
khơng đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có
quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Từ những nội dung được quy định trong BLDS ở trên, ta thấy khi
một bên có thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp
đồng của bên kia thì phải có trách nhiệm thơng báo. Mục đích của
hợp đồng là mang lại lợi ích cho các bên. Mỗi chủ thể khi tham gia
vào một quan hệ hợp đồng đều có cho mình những quyền và lợi
ích, tuy nhiên, việc tìm kiếm lợi ích đó khơng được ảnh hưởng đến
quyền của bên cịn lại. Nên khi có thơng tin chứa đựng nội dung
quan trọng, có liên quan đến những điều khoản cơ bản hợp đồng
mang tính chất quyết định, những thơng tin liên quan đến chủ thể,
đối tượng của hợp đồng bị thay đổi thì việc báo lại cho bên kia là
cần thiết. Việc thông báo này thể hiện sự cân bằng lợi ích giữa cá
nhân và lợi ích chung giữa những người giao kết hợp đồng với
nhau, đảm bảo sự công bằng thông tin, không dẫn đến trường hợp
giao dịch dân sự lừa dối.

Ngoài ra, Điều 443, BLDS 2015 cũng có quy định về nghĩa vụ cung
cấp thơng tin đối với tài sản chuyển nhượng. Thế nên, đối với hoàn
cảnh như trong vụ án thì BLDS 2015 đã buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng.
3. Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Theo phần Quyết định của bản án, Tòa án đã áp dụng Điều 137
“Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”. Cụ thể
với bản án số 18A/2016/DSST là giao dịch dân sự vô hiệu do lừa
dối. Bởi vì, vợ chồng ơng Thành thừa nhận bản thân là chủ sở hữu
đất tức là họ biết và buộc phải biết mảnh đất nằm trong quy hoạch
và đang bị UBND phường 9, Tp Tuy Hòa thu hồi. Quyền sử dụng
đất mà vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông
2


Linh không thuộc quyền sở hữu của họ, thuộc về bên thứ ba là ông
Trần Dậu. Và ban đầu, vợ chồng ơng Linh cũng đã nêu nguyện
vọng là muốn tìm mua đất thổ cư, đất của vợ chồng ông Thành
bán là đất vườn theo Nghị định 64 của Chính phủ. Thế nhưng vợ
chồng ông Thành vẫn không cung cấp rõ thông tin về lô đất, ký kết
hợp đồng và nhận 50.000.000 đồng tiền cọc.
Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là
chưa đủ thuyết phục. Bởi vì:
Để một giao dịch dân sự xác lập được xem là nhầm lẫn cần phải
đảm bảo các điều kiện: phải có sự nhầm lẫn của một bên; vì sự
nhầm lẫn này các bên khơng thể đạt được mục đích. Trong vụ việc
này, bên bán là vợ chồng ông Linh, dưới tư cách chủ sở hữu quyền
sử dụng đất họ phải biết việc đất đang bị quy quy hoạch và đã có
quyết định thu. Xét về thực tế, quyền sử dụng đất thật sự cũng

thuộc về bên thứ ba. Nói việc khu đất trong trong giao dịch thuộc
quy hoạch giải tỏa nhưng bên bán đã nhầm lẫn khiến mục đích
giao dịch khơng được thực hiện là khơng có căn cứ. Bởi lẽ, nhầm
lẫn là hành vi vô ý của một hoặc các bên dẫn đến không đạt được
mục đích, tuy nhiên, trường hợp của vợ chồng ơng Thành có đủ
căn cứ cho thấy họ khơng thể nhầm lẫn sự việc về mảnh đất. Hành
vi không cung cấp đầy đủ thông tin của họ dẫn đến hiểu sai lệch
về đối tượng của hợp đồng khơng cịn là giao dịch dân sự nhầm lẫn
như ở Điều 126, BLDS 2015 mà bên bán đã cố tình che giấu đi
thơng tin chính xác và đầy đủ về mảnh đất. Theo khoản 3, Điều 3
BLDS 2015 đã quy định rằng “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách
thiện chí, trung thực.”, song vợ chồng ông Thành đã không trung
thực cung cấp thông tin cho bên mua. Từ những căn cứ nêu trên,
ta có thể thấy đây là một giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo
Điều 127, BLDS 2015 chứ không thể xét theo hướng nhầm lẫn ở
Điều 126 BLDS 2015.
4. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vơ hiệu do nhầm lẫn khơng? Vì sao?
Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép
xử lý theo hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do có
3


nhầm lẫn. Tuy nhiên, cần phải xác định bên nào khơng đạt
được mục đích của mình trong trường hợp hợp đồng bị nhầm
lẫn mới có quyền u cầu Tịa án tun bố vơ hiệu.1
Xét tình tiết vụ án, mục đích vợ chồng ông Linh mua đất là để xây
dựng nhà ở mà phải là đất thổ cư theo quy định pháp luật mà vợ
chồng ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo Nghị

định 64 của Chính phủ và có thơng báo thu hồi nên việc xác lập
giao dịch dân sự khơng đúng với mục đích của nguyên đơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 126 BLDS 2015 thì giao dịch dân
sự bị nhầm lẫn nên vợ chồng ơng bà có quyền u cầu Tịa án
tun bố giao dịch dân sự vô hiệu.
1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn
làm cho một bên hoặc các bên khơng đạt được mục đích của
việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền u cầu
Tịa án tun bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều này.
Vậy, khi hợp đồng mà các bên xác lập bị nhầm lẫn làm cho một
hoặc các bên không đạt được mục đích của mình, hay nói cách
khác việc tham gia hợp đồng của các bên khơng hồn tồn tự
nguyện thì hợp đồng trên có thể bị Tịa án tun bố vơ hiệu.

1

 Phan Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng - Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.135.

4


Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vơ hiệu
*Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao:
Ông Long mất để lại 252,6 m2 cho vợ và các con; đã được Ủy ban
nhân dân huyện Lộc Ninh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
252,6 m2 đất cho hộ bà Dung. Ngày 27/7/2011, Ủy ban nhân dân
Thị trấn Lộc Ninh chứng thực Hợp đồng ủy quyền thể hiện các

nguyên đơn ủy quyền cho bà Dung được là ký kết Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền. Nhưng các
nguyên đơn không thừa nhận mình ký vào Hợp đồng ủy quyền nên
Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Dung và bị đơn là không đúng
theo quy định của pháp luật.
* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh.
Bị đơn: Ông Đào Văn Lộc, bà Hồng Thị Lan.
Ngày 9/9/2005, ơng Vinh cùng vợ chồng ông Lộc lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 953 m 2 với giá
120.000.000 đồng, tiền đặt cọc là 10.000.000 đồng, sau đó vợ
chồng ông Lộc thống nhất bớt cho ông 20.000.000 đồng và lập lại
hợp đồng chuyển nhượng ngày 17/7/2006. Ông Vinh đã giao
45.000.000 đồng và vợ chồng ơng Lộc có nghĩa vụ giao sổ đỏ và
giao đất cho ông. Đến ngày 17/3/2007, ơng biết vợ chồng ơng Lộc
khơng có sổ đỏ để giao, nên đã gặp trao đổi, hẹn thời gian khác
giao tiền nhưng vợ chồng ông Lộc không đồng ý cho rằng thời gian
trả tiền kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng ông Lộc
nên không đồng ý chuyển nhượng. Nay ông yêu cầu tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký với ông
Lộc, bà Lan.
1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vơ hiệu tồn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Cơ sở pháp lý:
+ Điều 117 BLDS 2015 quy định về Điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự:
5



1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
+ Điều 130 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi
một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng khơng ảnh
hưởng đến hiệu lực của phần cịn lại của giao dịch.”
Như vậy, khi vi phạm các quy định trên thì hợp đồng vơ hiệu.
Hợp đồng vơ hiệu từng phần khi một phần nội dung của hợp đồng
vô hiệu nhưng khơng ảnh hưởng đến hiệu lực của phần cịn lại của
hợp đồng theo quy định tại Điều 130 BLDS 2015.
BLDS 2015 không quy định thế nào là hợp đồng vơ hiệu tồn bộ
nhưng ta có thể hiểu hợp đồng vơ hiệu tồn bộ khi tồn bộ mục
đích, nội dung của hợp đồng đó vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức của xã hội hoặc một trong các bên giao kết hợp đồng
khơng có quyền xác lập giao dịch dân sự hoặc vi phạm một thỏa
thuận và ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, dẫn đến
tồn bộ giao dịch vơ hiệu.
2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?
Trong phần Nhận định của Tịa án cho thấy việc chuyển nhượng tài
sản chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các
thành viên của hộ gia đình:
Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh

chứng thực ngày 27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh,
Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị
6


Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào Hợp đồng ủy quyền
nêu trên.
3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Trong phần Nhận định của Tòa án, đoạn cho thấy Hội đồng thẩm
phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một
phần:
Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định
của pháp luật thì có hiệu lực. Cịn phần quyền sử dụng,
quyền sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu
theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2005.
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vơ hiệu một phần là hợp lý. Vì:
Trong trường hợp này, 252,6 m 2 đất là tài sản chung của gia đình
bà Dung và Tịa án đã áp dụng theo khoản 2 Điều 109 BLDS 2005:
“Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị
lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi
trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số
thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”. Do đó, việc mua
bán 252,6m2 đất cần được sự đồng ý của anh, chị Khánh, Tuấn, Vy

là phù hợp.
Tòa án đã căn cứ theo Điều 216, khoản 1 Điều 223 BLDS 2005: “1.
Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền
sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung; 2.
Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản
thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình,
trừ trường hợp có thoả thuận khác”, “1. Mỗi chủ sở hữu chung
theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Theo đó, phần
quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho
vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực.
Cịn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của anh, chị Khánh, Tuấn,
7


Vy là vô hiệu theo quy định tại Điều 135 BLDS 2005. Do đó, xác
định hợp đồng vơ hiệu một phần là hợp lý.
Việc xác định hợp đồng vô hiệu một phần nhằm đảm bảo quyền lợi
của bà Dung với các thành viên khác trong gia đình. Bà Dung có
quyền định đoạt về phần quyền sở hữu của mình trong khối tài sản
chung, bà có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu tài gắn liền với đất cho ông Học và bà Mỹ theo đúng quy
định pháp luật thì hợp đồng có hiệu lực. Cịn quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các anh chị Khánh, Tuấn,
Vy khơng có sự đồng ý của anh, chị nên không được chuyển
nhượng, dẫn đến vơ hiệu. Hướng giải quyết của Tịa án là hoàn
toàn phù hợp.
5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
BLDS năm 2005


BLDS năm 2015

Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005:

Khoản 2, 3 Điều 131

“Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên BLDS 2015:
khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả “2. Khi giao dịch dân sự
cho nhau những gì đã nhận;… trừ trường vơ hiệu thì các bên khơi
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu phục lại tình trạng ban
được bị tịch thu theo quy định của pháp đầu, hồn trả cho nhau
luật...”

những gì đã nhận…
3. Bên ngay tình trong
việc thu hoa lợi, lợi tức
khơng phải hồn trả lại
hoa lợi, lợi tức đó.”

Thứ nhất, các chế định về hoa lợi, lợi tức và chủ thể bồi
thường thiệt hại, BLDS 2015 quy định hẳn sang một khoản khác,
xem như ngang bằng với nghĩa vụ “khơi phục tình trạng ban đầu,
trả lại cho nhau những gì đã nhận”. Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005
lại theo hướng vấn đề hoa lợi và lợi tức là vấn đề “khôi phục lại
tình trạng ban đầu” là chưa hợp lý vì hoa lợi, lợi tức hồn tồn có
thể phát sinh sau khi giao dịch được xác lập, nếu khơi phục lại tình
trạng ban đầu sẽ thiếu công bằng đối với bên hưởng lợi từ hoa lợi,
8



lợi tức. Thấy rằng, BLDS 2015 tách vấn đề hoa lợi, lợi tức ra khỏi
quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu là phù hợp.
Thứ hai, hoa lợi, lợi tức theo quy định tại BLDS 2015 nếu là
“bên ngay tình” thì “khơng phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”.
Trong khi BLDS 2005 lại quy định theo hướng hoa lợi, lợi tức không
phải trả lại trong trường hợp “bị tịch thu theo quy định của pháp
luật”, tức là khi pháp luật có yêu cầu tịch thu hoa lợi, lợi tức thu
được thì người thu được nó phải nộp cho Nhà nước thay vì hồn trả
cho bên kia. Cịn BLDS 2015 thì ngầm định chỉ cần người đó ngay
tình thì những hoa lợi, lợi tức thu được sẽ vẫn thuộc sở hữu của
người đó mà khơng phải hồn trả lại cho người có quyền liên quan.
Hướng quy định mang hướng tiến bộ, bảo vệ lợi ích của người ngay
tình.
Thứ ba, BLDS 2015 quy định thêm: “Việc giải quyết hậu quả
của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định”. Việc bổ sung thêm chế
định này sẽ làm đầy đủ hơn trách nhiệm pháp lý của các bên gây
ra thiệt hại, đồng thời bảo vệ tối đa nhất lợi ích của những người bị
xâm phạm đến các quyền nhân thân.
Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015: “Trường hợp giao dịch dân sự
vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự
khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc
đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó khơng
bị vơ hiệu”. Quy định này đã bảo đảm quyền lợi hơn cho bên ngay
tình, đồng thời nâng cao vai trị của việc đăng ký tài sản tại các cơ
quan Nhà nước.
6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Tòa giám đốc thẩm xác định cả hai bên cùng có lỗi.

Tại phần xét thấy: “Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất trên tổng giá trị thửa
đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai
bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu

9


ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của
45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.”
Tịa xác định mỗi bên có ½ lỗi. Lỗi này cũng được Tịa sơ thẩm xác
định trước đó.
7. Quyết định số 319, Tịa dân sự cho biết ơng Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Trong phần Xét thấy của Bản án có đoạn: “Việc xác định thiệt hại
của hợp đồng vơ hiệu cũng khơng chính xác. Trong trường hợp này
ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất
100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên
cùng có lỗi khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh
chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị
thửa đất theo giá thị trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm lại buộc vợ chồng ơng Lộc bồi thường thiệt hại ½ giá trị tồn
bộ thửa đất theo giá thị trường là không đúng.”
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Hướng giải quyết trên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là
hoàn toàn thuyết phục. Việc xác định khoản tiền chênh lệch
là thiệt hại hồn tồn có cơ sở pháp lý. Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP xác định thiệt hại có nói đến “Thiệt hại cịn
bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do
các bên thỏa thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời

điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có”.2
Cách xác định khoản tiền bồi thường dựa trên chênh lệch giá trị
thửa đất theo giá thị trường hợp lý hơn cách xác định 50/50, mỗi
bên chịu ½ giá trị thửa đất theo giá trị thị trường. Vì cả hai bên đều
có lỗi mà xác định cho ơng Vinh được bồi thường một nửa giá trị
thửa đất theo giá trị thị trường thì khơng hợp tình, khơng đảm bảo
quyền lợi cho vợ chồng ơng Lộc. Do đó, việc Tịa hủy bản án dân
sự phúc thẩm số 128/2007/DSPT và hủy bản án dân sự sơ thẩm số
156/2007/DSST là hoàn toàn hợp lý.

2

Phan Mạnh Thăng, Cách thức xác định khoản chênh lệch giá trị tài sản,
truy cập ngày 08/11/2022.

10


9. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Với các thơng tin trong quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi
thường khoản tiền cụ thể là 52.548.750đ. Vì theo biên bản định giá
thửa đất 953 m2 hiện nay có giá trị là 333.550.000đ. Như vậy, giá
chênh lệch là 233.550.000đ. Nên theo quyết định số 319 thì phần
bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá trị của 45% giá trị thửa
đất theo giá thị trường nên ta có cơng thức như sau: 233.550.000đ
x 45% x ½ = 52.548.750đ là số tiền ơng Vinh sẽ được bồi thường.

11



Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn
*Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tịa
án nhân dân tối cao:
Ngun đơn: Cơng ty TNHH K.N.V (Bên A)
Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long
Việt Nam (Bên B); Ngân hàng TMCP Việt Á.
Bên A ký hợp đồng mua bán phân bón với Bên B có tổng giá trị 15
tỷ 300 triệu đồng, thời hạn Bên B bắt đầu giao hàng chậm nhất
cho bên A là 20 ngày làm việc kể từ ngày bên V nhận tiền ký quỹ
tạm ứng của bên A. Bên A thanh toán tạm ứng cho bên B số tiền
tương đương 20% tổng giá trị hợp đồng ngay sau khi hai bên ký
kết hợp đồng.
Bên A đã chuyển vào tài khoản bên B tại ngân hàng Việt Á số tiền
như đã thỏa thuận nhưng bên B đã không giao hàng đúng thời hạn
thỏa thuận, vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên bên A khởi kiện yêu
cầu bên B chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi tiền ký quỹ/tạm
ứng cho Bên A. Đồng thời, việc ngân hàng Việt Á không gửi công
văn có nội dung bên A phải Thư bảo lãnh bản gốc cho ngân hàng
mà từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là khơng thể chấp nhận.
Tịa cấp sơ thẩm và phúc thẩm đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
bên A. Tòa giám đốc thẩm quyết định giữ nguyên bản án phúc
thẩm.
1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước ngày 14/4/2016 và Thư tu
chỉnh bảo lãnh ngày 04/5/2016 gia hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh
đến 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016 do Ngân hàng Việt Á phát
hành.
Cơ sở pháp lý:
+ điểm đ khoản 14 Điều 3 Thông tư 11/2022/TT-NHNN: “Thư bảo

lãnh là cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc
bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được
bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh”.
+ khoản 6 Điều 13 Thông tư 11/2022/TT-NHNN, thời hạn hiệu lực
và nội dung của thư bảo lãnh được xác định như sau:
a) Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ thời điểm phát hành cho
đến thời điểm ít nhất sau 30 ngày kể từ thời hạn giao, nhận
nhà theo cam kết tại hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, trừ
trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định tại
12


Điều 23 Thông tư này. Trường hợp ngân hàng thương mại và
chủ đầu tư chấm dứt hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành
trong tương lai trước thời hạn, các thư bảo lãnh đã phát hành
cho các bên mua trước đó vẫn có hiệu lực cho đến khi nghĩa
vụ bảo lãnh chấm dứt;
b) Ngoài các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 16
Thông tư này, thư bảo lãnh cịn phải có nội dung nêu rõ nghĩa
vụ tài chính của chủ đầu tư được ngân hàng thương mại bảo
lãnh.
2. Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của Công ty Cửu Long đối với Công ty KNV có phát sinh
trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng vì:
Do Cơng ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên trước
17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016, Cơng ty K.N.V đã có Cơng
văn số 01 đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm
bảo lãnh. Ngân hàng Việt Á đã nhận được văn bản này, đồng

thời có thơng báo số 54/TB/CNBD/16 ngày 09/5/2016 gửi
Cơng ty Cửu Long về việc Công ty K.N.V yêu cầu Ngân hàng
Việt Á hoàn trả tiền ứng trước theo Thư bản lãnh. Trong cùng
ngày, Ngân hàng Việt Á có Cơng văn số 04/TB/CNBD/16 gửi
Công ty K.N.V thông báo về việc Công ty Cửu Long đề nghị
Ngân hàng Việt Á tạm thời ngưng việc hoàn trả tiền tạm ứng.
3. Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có cịn
trách nhiệm của người bảo lãnh khơng? Đoạn nào của Quyết định có câu trả
lời?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cơng ty KNV)
khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc
thì Ngân hàng có trách nhiệm của người bảo lãnh vì:
Đến ngày 11/5/2016, khi đã hết thời hạn hiệu lực của Thư
bảo lãnh, Ngân hàng Việt Á mới có Thơng báo số
56TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V về việc không thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh với lý do chưa nhận được Thư bảo lãnh bản
gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Sau khi nhận được
13


thông báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty K.N.V đã
gửi Thư bảo lãnh gốc cho Ngân hàng. Như vậy, lý do từ chối
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là không
thể chấp nhận được.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Ngân hàng Việt Á có trách nhiệm trả nợ thay cho Công ty
Cửu Long mặc dù thời hạn bảo lãnh đã kết thúc theo nhóm là hợp
lý.
Nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng là nghĩa vụ có điều kiện,

theo đó khoản 1 Điều 335 BLDS quy định bên bảo lãnh “sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực
hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện khơng đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Ở đây khi đến
thời hạn giao hàng cho Công ty KNV, Công ty Cửu Long lại giao
hàng chậm mà theo thỏa thuận của các bên từ trước, việc cố tình
trì hỗn, chậm giao hàng, không giao hàng mà do lỗi của Công ty
Cửu Long thì phải chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi ký
quỹ/tạm ứng cho Công ty KNV.
Về việc xác định trách nhiệm của người bảo lãnh: Bảo lãnh
chỉ là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh, nghĩa vụ
của người bảo lãnh chỉ là nghĩa vụ phụ so với nghĩa vụ được bảo
lãnh “Do Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên trước
17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016, Cơng ty K.N.V đã có Công văn số
01 đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Ngân
hàng Việt Á đã nhận được văn bản này, đồng thời có thơng báo số
54/TB/CNBD/16 ngày 09/5/2016 gửi Công ty Cửu Long về việc
Công ty K.N.V yêu cầu Ngân hàng Việt Á hoàn trả tiền ứng trước
theo Thư bản lãnh”. Phía Ngân hàng đã nhận được đề nghị thực
hiện trách nhiệm bảo lãnh từ Công ty KNV do đó có thể xác định
trách nhiệm bảo lãnh của Ngân hàng.
Tuy nhiên, Ngân hàng Việt Á lấy lý do “Thư bảo lãnh hoàn trả
tiền ứng trước ngày 14/4/2016 và Thư tu chỉnh bảo lãnh ngày
04/5/2016 gia hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh đến 17 giờ 00 phút
14




×