Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.67 KB, 10 trang )


SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM

Tranh dân gian Việt Nam được truyền bá rộng rãi trong nhân dân vì nó được in qua
các bản gỗ xuất hiện rất sớm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Tranh dân gian được bảo tồn và phát huy rộng rãi là nhờ các phong tục cổ truyền.
Cứ mỗi dịp Tết đến, xuân về những tờ tranh in màu sắc tươi sáng được bày bán ở
khắp các khu chợ từ nông thôn tới thị thành; cả ở các vùng cao, miền núi xa xôi, nó
làm cho đời sống tinh thần của ngày xuân càng thêm tươi vui, hồ hởi. Tranh mang
ý nghĩa chúc tụng, và mô tả những cảnh quen thuộc đem đến những điều tốt đẹp
nhất của năm mới được gửi gắm qua nội dung cụ thể của từng bức tranh đó là tranh
tết.
Tranh tết xuất hiện từ lâu đời, theo một số nhà nghiên cứu nghệ thuật cổ thì tranh,
tượng dân gian Việt Nam xuất hiện từ thời Lý (1010 - 1225), đời Hồ (1400- 1414).
Duy trì phát triển thời Lê (1533 - 1788) (Theo sách Tranh tượng Dân gian Việt
Nam. NXB Mỹ thuật). Lúc đầu tranh được vẽ hay in rất đơn giản, mang tính tâm
linh, huyền bí. Dân gian coi tranh như những lá bùa mang sức mạnh siêu nhiên trừ
tà ma, đem lại may mắn, tốt lành cho con người.
Qua các bức tranh còn được lưu giữ tới ngày nay, cho chúng ta thấy được các cảnh
sinh hoạt của thành Thăng Long xưa, của các vùng quê và ngày nay còn rất nhiều
các gia đình vẫn giữ truyền thống dán các bức tranh lên tường, cổng nhà để cầu
may, xua đuổi điềm dữ, đón nhận điềm lành của năm mới.
Sự phát triển của dòng tranh dân gian không chỉ dừng lại ở nhu cầu thỏa mãn thẩm
mỹ đơn thuần nữa, mà nó đã được nâng cao, hàm chứa tinh thần giáo dục nhân
cách đạo đức, nó phản ánh mọi mặt của đời sống của con người một cách sinh
động và chân thực.
Nhìn vào các tác phẩm tranh dân gian của Việt Nam gây cho chúng ta nguồn cảm
hứng, cho nhiều tầng lớp trong xã hội đặc biệt là giới trí thức, nó gợi mở cho nhiều
văn sĩ thi sĩ sáng tác được rất nhiều áng văn, vần thơ, mượn các vẻ đẹp hình ảnh ở
trong tranh để nói lên nỗi lòng và tâm trạng của mình.
Với cuộc sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp của nhân dân ta, phụ thuộc vào


thiên nhiên rất lớn. Tranh dân gian được nhân dân gửi gắm nhu cầu tín ngưỡng,
việc chơi tranh ngày tết lại càng phát triển, nhu cầu sử dụng nhiều đây là điều làm
cho các nghệ nhân phải tìm cách in được nhiều bản để phục vụ cho nhu cầu của
đông đảo quần chúng, do vậy kỹ thuật in bản gỗ tranh tết đã được truyền từ đời này
sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sự phát triển của dòng tranh khắc gốc dân gian được sản xuất ở nhiều địa phương,
ở từng làng mà nó có những tên vùng gắn với từng vùng sản xuất ra nó như: Đông
Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ), Nam Hoành
(Nghệ An); Sình (Huế). Tranh của các dân tộc miền núi phía Bắc. Tranh của những
vùng miền lại có sắc thái và kỹ thuật riêng, từ đề tài, chất liệu đến kỹ thuật khắc
ván in đã tạo ra sự phong phú và đa dạng và tính cách nghệ thuật riêng biệt.
ở đồng bằng Bắc Bộ nổi lên hai dòng tranh nổi tiếng đó là Đông Hồ và Hàng
Trống. Tranh Đông Hồ - Làng Đông Hồ nằm ven sông Đường cách Hà Nội khoảng
40km về phía đông thuộc về tỉnh Bắc Ninh, Đông Hồ có truyền thống là một làng
nghề nghệ thuật lâu đời. Qua văn bia dựng từ thời nhà Mạc (TK16) cho chúng ta
ước đoán tuổi của Làng.
Hiện nay nghề in tranh khắc gỗ của Đông Hồ phát triển rất tốt, được nhà nước đầu
tư bài bản nhằm lưu giữ nét đẹp văn hóa, nghệ thuật của đất nước phục vụ cho
công tác nghiên cứu, du lịch
Các tác phẩm tranh tiêu biểu của Đông Hồ là loại tranh khắc gỗ in trên giấy điệp,
các hình được in bằng cả nét lẫn màu, nét khắc được cắt gọt cạnh hình chân thang,
thanh và tinh tế. Tranh Đông Hồ các mảng màu của hình được in trước, mỗi mảng
in màu là một bản khắc riêng, in màu xong cuối cùng mới dùng bản khắc nét in
chặn lại bằng các nét to đậm, tạo thành một đường viền làm ổn định các hình trên
tranh.
Giấy được in là giấy dó được làm từ cây dó nên rất dai bền, trên mặt giấy được
quét một lớp điệp tạo cho giấy cứng xốp và nổi lên ánh của điệp phát sáng lung
linh.
Màu mực in nét được chế từ than của lá tre, cỏ cây, đất đá thiên nhiên từ trên rừng
dưới biển. Màu xanh mát được chiết từ lá chàm, màu vàng từ hoa hòe hay quả

dành dành tạo màu đỏ tươi, còn màu trắng óng ánh được làm từ vỏ con trai điệp
nghiền mịn. Khi các màu này được pha trộn với hồ nếp tạo ra sự kết dính trên bề
mặt của giấy.
Còn dòng tranh Hàng Trống được làm ra từ các gia đình nghệ nhân ở Hà Nội và
một số địa phương cùng làm theo một phong cách, chủ yếu là tranh thờ. Loại tranh
này có từ rất lâu. Tên gọi “Tranh Hàng Trống” được chỉ định chung cho một loại
tranh có cùng kỹ thuật, phong cách để phân biệt với dòng tranh sản xuất ở làng
Đông Hồ.
Tranh Hàng Trống được làm bằng kỹ thuật in bản nét trước sau đó mới tô màu
bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa thì chấm màu còn nửa kia của bút chấm
nước lã, tranh được tô màu theo cách vờn luôn tạo được những chuyển sắc đậm
nhạt và tạo khối đơn giản.
Nói đến tranh dân gian là chúng ta thấy một cách cốt lõi của nó là tranh nghệ thuật
đồ họa, được làm ra bởi kỹ thuật khắc trên ván gỗ (cây Mít, cây Thị, cây thực
Mực) các hình nồi để in trên giấy. Một bản khắc có chất lượng tốt sẽ được in ra
nhiều bức tranh có giá trị nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân.
Các hình ảnh trong tranh dân gian là những hình ảnh thực, của đời sống hàng ngày
nhưng đã được các nghệ nhân chắt lọc tạo dựng các đường nét mang tính giản
lược, khái quát cốt sao gây được sự rung cảm cho người xem, mọi yếu tố về không
gian không được coi trọng. Các hình mang tính ước lệ, các khuôn mặt trong tranh
rất ngây ngô, vênh váo hồn nhiên, các hình trong tranh thờ thì nghiêm nghị gây
cảm xúc mạnh cho người xem.
Qua quá trình đấu tranh, chinh phục thiên nhiên, chống áp bức, trong hoàn cảnh
cuộc sống nông nghiệp lạc hậu thời xưa ở nước ta, người nông dân trước những
thành công và thất bại, những khó khăn thuận lợi của công việc hàng ngày, họ
thường có những ý niệm về thế giới quan, vũ trụ quan không rõ rệt. Do đó đã nảy
ra nhiều thứ tín ngưỡng tôn giáo.
Những hình thái ý thức đó đã được phản ánh trong các loại tranh cổ, đậm nét nhất
là tranh thờ. Tranh thờ do nhân dân lao động làm ra, nên lúc nào cũng sinh động và
phong phú, giàu tính dân tộc. Nước Việt Nam có nhiều dân tộc anh em cùng sinh

sống. Trình độ phát triển không đồng đều về kinh tế từ đó sản sinh ra những tư
tưởng, tâm lý, tập quán khác nhau. Vấn đề tín ngưỡng cũng từ đó mà phức tạp
được thể hiện rõ rệt qua các bức tranh thờ. Qua nghiên cứu tìm hiểu thấy rằng
tranh thờ tạm thời được chia làm hai nhánh lớn là: Tranh thờ miền xuôi và tranh
thờ miền núi.
Tranh thờ miền xuôi mang đặc tính Phật giáo chiếm một phần quan trọng. Ngoài
tranh tường, tranh treo (Phật Thích Ca, Phật, Phật Bà Quan Âm tranh Thập
điện ) còn có các loại tranh minh họa kinh Phật theo các cốt truyện của nhà Phật.
Các loại tranh này đã được nhân dân sử dụng tại gia rất nhiều. Tranh được thể hiện
bằng tay và qua các bản khắc gỗ để in tranh cũng như in kinh phật.
Tranh thờ theo phong cách Hàng Trống: nhiều màu và có tầm sử dụng rộng rãi như
Hắc Hổ, Bạch Hổ, tượng trưng cho thần trấn phương Bắc, Phương Nam; Ngũ Hổ
Thần tướng tượng trưng các vị thần ngự trị năm phương Đông, Tây, Nam, Bắc và
trung ương chính diện. Nghệ thuật của các tranh này mang tính dân gian, phố biến.
Nhìn các nhân vật Nam, Nữ cùng với các loài vật xung quanh ở trong tranh cho
người xem thấy trước tiên phong cách cổ kính của các thời đại xưa. Hầu hết các
tranh thờ miền xuôi rất gần gũi với con người, với sự mơ ước tốt đẹp về cuộc sống
của nhân dân ta.
Tranh thờ miền núi có nhiều loại tranh trang trí chỗ thờ (Rồng, Phượng, Hổ,
Lân ); có tranh mang tính đơn độc điển hình (Thần mưa, thần sấm, sét, ông thiện,
ông ác ). Lại có tranh bố cục rất nhiều người (Tranh thờ tổ tiên, tranh Ngọc
Hoàng ). Hầu hết tranh thờ nằm ở miền núi phía Bắc của nước ta. Lối vẽ tranh rất
chân thật, chất phác ghi lại những phong tục tập quán của các dân tộc anh em, có
tranh diễn tả lại cảnh sinh hoạt của tổ tiên, tranh thờ “bổn mạng” dùng để thờ lâu
đời trong nhà. Những tranh tả hình ảnh đấu tranh trong sản xuất chinh phục thiên
nhiên thường được tiếp sau những ước mơ của con người sau khi chết được lên cõi
trời “tranh Pòng sao” có nghĩa là giao thông. Tranh này của dân tộc Cao Lan muốn
nói với người chết phải báo lên cõi trời để ông Đại tanh xem xét tốt, xấu. Tranh
Sùng sênh có nghĩa là Thượng thanh dùng thuyết luân hồi khuyên người ta lúc
sống phải làm điều thiện thì khi chết sẽ được ông Thượng thanh cho lên cõi Niết

bàn, nếu độc ác thì bị đày xuống địa ngục làm mồi cho chó ngao, rắn độc
Dưới ngọn bút của các nghệ nhân vùng cao, thiện, ác, hiện lên sinh động và có
phân biệt. Kẻ ác thì mặt đen, mắt ốc, bậm môi phồng má; người thiện thì mặt trắng,
râu dài, trang phục chỉnh tề; thiên thần dũng tướng thi uy nghiêm, áo giáp đường
hoàng. Cái đẹp cái tốt được đề cao, phần xấu xa u tối cũng được nhấn mạnh tạo
hiệu quả giáo dục mạnh.
Phần tranh thờ, cũng như tranh dân gian ở phía Nam đất nước ta sau khi đất nước
thống nhất cũng đã được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sưu tầm tranh và ván khắc.
Tranh thờ Làng Sình là tiêu biểu. Tranh được in trên giấy bản đưa lên bàn thờ tổ
tiên cúng sau đó đem đốt để cầu may, an ủi người đã khuất. Tranh được in từ bản
khắc gỗ, sau tô màu thuận tiện cho ra nhiều bản phục vụ cho nhân dân trong các
dịp lễ, tết.
Dòng tranh Kim Hoàng thuộc tỉnh Hà Tây nay là TP. Hà Nội, tranh Kim hoàng
thường vẽ bằng tay dùng vào việc thờ cúng, dùng xong một lần thì đốt. Hiện nay
dòng tranh này đã bị thất truyền, Bảo tàng cũng chỉ giữ được một, hai tác phẩm
chủ đề gà lợn.
Trong rất nhiều bộ sưu tập tác phẩm mỹ thuật hiện đang lưu giữ trong trưng bày
Bảo tàng Mỹ thuật, bộ sưu tập tranh dân gian là một sưu tập nghệ thuật hoàn chỉnh,
có hệ thống, phong phú về nội dung số lượng, chất lượng với hàng trăm bản khắc
gỗ, đủ các thể loại tranh, các đề tài, các dòng nghệ thuật khác nhau của Việt Nam.
Tranh Dân gian Việt Nam là những dấu ấn mang vẻ đẹp truyền thống, đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc, nó mang tất cả những tinh hoa tinh thần của con người đất
nước Việt Nam. Là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho những thế hệ sau ngưỡng mộ
tìm về truyền thống dân tộc.

×