Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

THẬT,GIẢ MỸ THUẬT VIỆT NAM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.86 KB, 9 trang )






THẬT,GIẢ MỸ THUẬT VIỆT NAM



Ngay cả Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ở Hà Nội cũng không biết rõ
có bao nhiêu tác phẩm và hiện vật trưng bày trong viện bảo tàng này, dưới quyền
quản lý của ông, là chính bản và bao nhiêu bản copy vô cùng khéo léo là bản nhái.
Nhưng ông nói ông sẽ cố gắng tìm cho ra vấn đề.
Nhiều tác phẩm tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam có thể là những bản sao
được thực hiện để trưng bày thay thế những nguyên bản trong thời kỳ Chiến tranh
Việt Nam. Giờ đây không rõ bức nào là thật, bức nào là giả nữa.
Bùi Thanh Phương ở nhà cùng những tác phẩm của cha anh, Bùi Xuân Phái, gọi
bước chuyển đổi mỹ thuật không được theo dõi, giám sát này là một “tai hoạ”.
Hiện có khoảng 20.000 hiện vật treo trên tường, đặt trong các phòng trưng bày và
cất trong kho, bao gồm các tranh, tượng, tác phẩm sơn mài, gốm, các tượng cổ và
các đồ mỹ nghệ truyền thống.
Nguyên Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam Trương Quốc Bình nói: “Chúng
tôi đang nỗ lực thực hiện một cuộc rà soát lại một cách toàn diện các hiện vật trưng
bày và cất trong kho của chúng tôi. Sau khi chúng tôi đánh giá được toàn bộ các
hiện vật, chúng tôi sẽ ghi rõ hiện vật ấy có phải là nguyên bản hay không.”
Ông Bình đã và đang giải quyết nhiều vấn đề về tính xác thực của các tác phẩm mỹ
thuật trong Bảo tàng. Các giám tuyển mỹ thuật và các nghệ sĩ đã ý thức được việc
này nhiều năm rồi, nhưng mãi tới tháng 4 vừa qua, nó mới trở thành vấn đề được
công chúng bàn luận nhiều, khi nó được nêu lên tại một hội nghị về bản quyền tổ
chức tại Đà Nẵng.
Phần lớn tình trạng lẫn lộn này là di sản của cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ, kết thúc


năm 1975, và cuộc chiến tranh chớp nhoáng với Trung Hoa năm 1979, ở mức độ
nhẹ hơn.
Cuối những năm 1960, sợ rằng Mỹ sẽ ném bom Hà Nội, các quan chức bảo tàng đã
sơ tán hàng trăm tác phẩm quan trọng về nông thôn cất giữ cho an toàn.
Để thế vào chỗ của chúng trên các bức tường trưng bày, viện bảo tàng đã đặt các
bản tranh chép: một số do chính các tác giả nguyên bản vẽ lại, một số do những
người tập sự của các nghệ sĩ chép, một số do chính các nghệ sĩ chuyên chép tranh
tay nghề cao, công tác tại phòng phục chế của bảo tàng đảm nhiệm. Tất cả đều là
những bản sao trứ danh - hoặc còn gọi là phiên bản, như người Việt vẫn thường gọi
những họa phẩm do chính tác giả của chúng sao chép lại. .
Nhưng giờ đây, “nó là cả một tai hoạ” Bùi Thanh Phương, con trai của Bùi Xuân
Phái là một họa sĩ nổi tiếng nói: “Người xem không dám chắc liệu những gì họ
đang nhìn thấy là thật hay giả nữa.” Ông Phương nói ông không biết rõ bức nào
trong số 7 bức được trưng bày trong bảo tàng là do chính cha ông vẽ nữa. Cha ông
đã qua đời năm 1988.
Ông Nguyễn Đỗ Bảo, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Hà Nội, người đã đọc tham luận gây
tranh cãi tại hội nghị về bản quyền tác giả hồi tháng 4, cho biết trong một số trường
hợp rõ ràng là ta không thể nắm được các nguyên bản hay các phiên bản được đem
sơ tán cất giấu nữa.
Phát biểu trong một cuộc phỏng vấn, ông Bảo nói: “Do không có chuyện giám sát,
nên khi các nghệ sĩ đem tranh về nhà họ có thể sao làm nhiều bản. Họ rất có thể
giữ lại nguyên bản. Ta không có cách nào nắm được cả”
Tại hội nghị, ông đã nói với cử tọa rằng: “Do công tác quản lý kém, viện bảo tàng
đã mất nhiều tác phẩm nguyên bản trong thời gian đó,” rồi ông nói thêm rằng các
cán bộ nghiên cứu không được phép kiểm tra tác phẩm “trong khi công chúng
không biết rằng đấy là những phiên bản sao chép”
Khi được hỏi trong cuộc phỏng vấn lý do tại sao ông lại nêu vấn đề đó vào lúc này,
sau bao năm im ắng, lặng thinh, thì ông đáp: “Giờ đây, chúng tôi được tự do, dân
chủ hơn và chúng tôi lên tiếng muốn bảo đảm rằng viện bảo tàng không còn trưng
bày những bản sao nữa.”

Nguyễn Quí Đức, chủ một gallery nhỏ chuyên “lăng-xê” các nghệ sĩ trẻ, đã nói sự
cởi mở mới này đối với các kho tàng mỹ thuật của đất nước đã có thể diễn ra theo
tinh thần của một chính sách gọi là “hội nhập”.
Ông Đức nói “Hiện nay, “hội nhập” là một từ thường xuyên trên cửa miệng mọi
người”, trong lúc Việt Nam tìm cách hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tuân thủ
các tiêu chuẩn và các tập quán quốc tế.
Ông Đức nói tiếp: “ Về cơ bản đó là một khẩu hiệu kinh tế, nhưng tôi thấy nó được
áp dụng trong khắp các lĩnh vực. Nếu chúng tôi muốn hội nhập với thế giới, thì
chúng tôi phải bắt đầu sửa sai những vấn đề này.”
Những điều bí hiểm về viện bảo tàng này là một phần của vấn đề rộng lớn hơn về
tính xác thực, nó đã đe doạ giá trị của mỹ thuật Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Các bản sao chép đã nở rộ kể từ đầu những năm1990 trở lại đây, khi nền kinh tế
khép kín bỗng được rộng mở và mỹ thuật Việt Nam trở nên phổ biến ở nước ngoài.
Xã hội đang đổi mới, và các nghệ sĩ nghiệm thấy rằng họ có thể kiếm được tiền
nhiều gấp 3-4 lần bằng cách chép tranh của chính mình rồi đem bán. Các nhà sưu
tầm cũng nhanh chóng bắt kịp phong trào, và kết quả là người ta ngờ vực cả nền
mỹ thuật Việt Nam, theo lời ông Nguyễn Đỗ Bảo nói.
Ông nói: “Câu hỏi đầu tiên các khách mua tranh người nước ngoài hỏi chúng tôi là
“Bức này có phải là tranh thật không đấy?” Nhiều gallery, nhất là ở Hà Nội, phàn
nàn với tôi vì tình trạng quảng bá kém cỏi này .”
Một số nghệ sĩ trở nên giàu có bằng cách biến xưởng sáng tác của họ thành các xí
nghiệp và thoải mái sao chép tranh - theo ý kiến của Nora Taylor, một chuyên gia
về mỹ thuật Việt Nam, công tác tại Viện Mỹ thuật Chicago.
Nói về một họa sĩ trẻ tuổi nổi tiếng nọ, bà Nora Taylor cho biết: “Anh ấy có cả một
nhà máy ùn ùn sản xuất ra tranh. Như bức Thiếu phụ với con Chim (Woman with a
Bird), rất nhiều người có bức Thiếu phụ với con Chim. Ta không biết được những
bức này là do chính họa sĩ vẽ ra hay do một sinh viên mỹ thuật sao chép lại, nhưng
chúng được bày bán khắp nơi. Giờ đây, anh ta giàu sụ, có cả một biệt thự và một
chiếc xe Mercedes”.
Bà Taylor nói thêm: “Ngoài ra, Việt Nam chưa hề có một nền văn hóa lưu trữ tư

liệu mạnh mẽ và chứng cứ về nguồn gốc hẳn hoi. Các tác phẩm cổ điển được sao
chép vô tội vạ, mà không cần quan tâm đến vấn đề chính danh, nhằm mục đích
trưng bày được rộng rãi hơn.”
Nhiều “nguyên bản” khác nhau của một tác phẩm nổi tiếng, Chơi ô ăn Quan của
Nguyễn Phan Chánh, giờ đây đang được bày tại các gallery ở cả Singapore lẫn
Nhật Bản, theo lời bà Taylor cho biết.
Còn theo các chuyên gia về mỹ thuật Việt Nam, ít nhất cũng có 3 phiên bản của
bức Đêm Giao thừa bên Hồ Gươm (New Year’s Eve on Ho Guom Lakeshore) của
Nguyễn Tư Nghiêm. Nhưng mỗi bức lại có những chi tiết nho nhỏ khác nhau, như
về số người hoặc số cây cối chẳng hạn. Có lẽ tất cả đều là giả mạo, mà cũng có thể
chúng đều được coi là nguyên bản cả.
Khi Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mở cửa lần đầu tiên vào năm 1966, theo lời
ông Nguyễn Xuân Tiệp, nguyên phó giám đốc bảo tàng, viện đã không thể tiếp cận
rất nhiều các cổ vật mà viện muốn trưng bày, như những bức tượng Phật cổ điển
được lưu giữ tại các chùa chiền. Và thế là viện cứ đúc các bản sao để trưng bày.
Ông Tiệp, người đã từng công tác 28 năm tại viện bảo tàng này, cho biết: “Kể từ
ngày mở cửa viện bảo tàng đến nay, chúng tôi có cả những nguyên bản lẫn phiên
bản -” Giờ đây, ngay cả cán bộ của viện cũng không dám chắc bức nào là tác phẩm
chính gốc nữa.
Theo nguyên Giám đốc Trương Quốc Bình, chỉ riêng vấn đề xác minh những tác
phẩm nổi tiếng nhất của viện bảo tàng sẽ là một nhiệm vụ vô cùng lớn lao.
Ông nói: “Chúng tôi sẽ thành lập một Trung tâm Giám định Tác phẩm Mỹ thuật.
Chức năng của Trung tâm là kiểm tra và giám định tất cả các hiện vật trong bảo
tàng, để rồi chúng tôi có thể ghi rõ: “nguyên bản hay phiên bản”.
Ông cũng cho biết viện bảo tàng đang cố gắng mua sắm các thiết bị khoa học hiện
đại để kiểm tra tuổi của vật liệu. Ông nói thêm: “Đây là một công việc vô cùng
phức tạp đòi hỏi phải có thời gian và kiến thức chuyên môn.”
Sau đó, ông tuyên bố, bằng một thứ tiếng Anh nhát gừng, đứt quãng : “Trong
tương lai, hoặc một tương lai không xa, chúng tôi sẽ cố gắng làm được việc đó!”



×