Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

huy động vốn cho các dự án bất động sản của công ty cổ phần thanh bình hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.57 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
Trương Tuấn Anh
huy động vốn
cho các dự án bất động sản của
công ty cổ phần thanh bình hà nội
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Hà Nội, Năm 2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
Trương Tuấn Anh
HUY ĐỘNG VỐN
CHO CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN THANH BÌNH HÀ NỘI
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh công nghiệp và xây dựng
Khoá : 14
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN ĐÌNH PHAN
2
Hà Nội, Năm 2008
MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động lên nền kinh tế thị trường của Việt Nam, vốn
trở thành nguồn lực cơ bản, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực này
là yếu tố quyết định cho sự hưng thịnh hay suy vong của doanh nghiệp.
Những năm qua, bất động sản đang là lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn, thu
hút được nhiều vốn đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên,
năm 2008 nước ta đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do hậu quả của
một số sai lầm trong chính sách vĩ mô những năm trước đây, dẫn đến lạm
phát tăng cao, tăng trưởng chậm lại, tín dụng thắt chặt, thị trường chứng
khoán suy thoái, thị trường bất động sản trầm lắng… điều đó tác động trực


tiếp đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là
các doanh nghiệp trong nước yếu về vốn.
Là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và đầu tư kinh doanh
nhà ở, cao ốc văn phòng cho thuê, may mặc xuất khẩu, hiện nay Công ty cổ
phần Thanh Bình Hà Nội đang làm Chủ đầu tư một số Dự án xây dựng Khu
nhà ở, cao ốc văn phòng với tổng số vốn đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng như: Dự án
đầu tư xây dựng nhà ở để bán tại Khu đô thị mới Bắc Đại Kim mở rộng tại
phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội; Dự án đầu tư xây dựng nhà ở
để bán cho cán bộ chiến sỹ Bộ Công an tại Khu Đô thị mới Dịch Vọng, quận
Cầu Giấy, Hà Nội; Dự án đầu tư xây dựng toà cao ốc văn phòng tại số 1A
Láng Hạ, quận Ba Đình… Thời gian triển khai các dự án trên nằm trong
khoảng thời gian từ năm 2007 đến 2011.
3
Tính đến 30/6/2007 Tổng nguồn vốn Công ty mới đạt khoảng 72 tỷ
đồng so với tổng nhu cầu vốn khoảng 1.000 tỷ đồng cho các dự án, vì vậy
trong thời gian tới, việc huy động vốn tài trợ cho các Dự án trên là hết sức cấp
thiết. Vấn đề đặt ra là huy động vốn như thế nào, khối lượng vốn cần huy
động, nguồn huy động, thời gian huy động… để đảm bảo sử dụng vốn hiệu
quả và giúp doanh nghiệp phát triển bền vững.
Từng là nhân viên Công ty cổ phần Thanh Bình Hà Nội, đồng thời
đang trong thời gian viết luận văn tốt nghiệp cao học, tôi nhận thấy đây là cơ
hội thuận lợi để tập trung nghiên cứu, phân tích tình hình tài chính và đề xuất
các giải pháp huy động vốn thực hiện các dự án bất động sản của Công ty, do
đó tôi quyết định chọn đề tài: “ Huy động vốn cho các dự án bất động sản của
Công ty cổ phần Thanh Bình Hà Nội” một mặt nâng cao hiểu biết của mình
trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản, lĩnh vực tài chính, hoàn thành
luận văn tốt nghiệp cao học, mặt khác đưa ra một số gợi ý về huy động vốn để
Công ty tham khảo.
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm một số mục đích sau:

- Nâng cao hiểu biết của người nghiên cứu trong lĩnh vực đầu tư kinh
doanh bất động sản, lĩnh vực tài chính.
- Giải quyết nhu cầu huy động và sử dụng vốn để tài trợ cho các dự án
bất động sản Công ty cổ phần Thanh Bình Hà Nội tham gia đầu tư.
- Hoàn thành luận văn tốt nghiệp cao học.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn có một số ý nghĩa:
- Khi có đầy đủ vốn, Công ty sẽ cung cấp ra thị trường một số lượng
lớn các căn hộ và diện tích văn phòng cho thị trường Hà Nội nói riêng và thị
trường cả nước nói chung - góp phần giải quyết nhu cầu bức thiết của nhân
4
dân về nhà ở và của doanh nghiệp về văn phòng, gián tiếp làm tăng tính hấp
dẫn cho môi trường đầu tư toàn xã hội.
- Tạo công ăn việc làm, giúp ổn định đời sống của cán bộ công nhân
viên.
- Tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư gồm: bên vay và bên cho vay,
đồng thời đóng góp vào ngân sách thông qua các khoản thuế.
Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các hình thức huy động vốn đang được sử dụng phổ biến.
- Tình hình tài chính của Công ty.
- Nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án bất động sản của Công ty cổ phần
Thanh Bình Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu
Các báo cáo tài chính, các dự án bất động sản Công ty cổ phần Thanh
Bình Hà Nội đang tham gia đầu tư.
Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau: phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp điều
tra, tổng kết điển hình, tổng hợp, thống kê, so sánh, duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để tìm hiểu, đánh giá, phân tích và đưa ra

một số ý kiến của mình, nhưng với hiểu biết còn chưa hoàn thiện, bản Luận
văn tốt nghiệp này chưa thể phản ánh đầy đủ và giải quyết triệt để vấn đề nêu
ra. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc
để những nghiên cứu sau được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn GS.TS Nguyễn Đình Phan - Chủ tịch Hội
đồng Trường Đại học Kinh tế quốc dân, các thầy cô giáo Khoa Quản trị Kinh
doanh Trường Đại học Kinh tế quốc dân và toàn thể các cán bộ nhân viên
5
Công ty cổ phần Thanh Bình Hà Nội đã tận tính hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tôi
trong quá trình hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
PHẦN 1
LÝ LUẬN VỀ VỐN, HUY ĐỘNG VỐN
VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
1. VỐN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC HUY ĐỘNG VỐN
1.1. Vốn của doanh nghiệp
Trong cuốn sách có tựa đề: “Sử dụng có hiệu quả các hình thức huy
động vốn của doanh nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế thị trường” của hai
tác giả GS.TS. Đàm Văn Nhuệ - PGS.TS. Ngô Thị Hoài Lam, NXB chính trị
quốc gia 2001, thì vốn của doanh nghiệp được viết như sau:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần có một nguồn lực tài chính nhất
định để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn lực tài chính
được thể hiện và sử dụng dưới các dạng khác nhau nhằm mục đích thu được
lợi ích lớn hơn trong tương lai được coi là vốn của doanh nghiệp.
Trong cuốn Từ điển Longman rút gọn về tiếng Anh kinh doanh, vốn
được định nghĩa:
“ Vốn là tài sản tích luỹ được sử dụng vào sản xuất nhằm tạo ra lợi ích
lớn hơn; đó là một trong các yếu tố của quá trình sản xuất ( các yếu tố khác là
đất đai và lao động). Trong kinh doanh, vốn được coi là giá trị của tài sản hữu
hình được tính bằng tiền, nghĩa là tài sản dưới dạng không phải bằng tiền như
nhà xưởng, máy móc thiết bị, dự trữ nguyên vật liệu”.

Các quan niệm đã nêu về vốn đều phản ánh được khía cạnh nào đó liên
quan đến nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, tuy nhiên, các khái niệm đó
6
được trình bày dưới các góc nhìn khác nhau và mục tiêu nghiên cứu khác
nhau, vì vậy chưa thể hiện một cách nhìn tổng thể về vốn của doanh nghiệp.
Vốn có thể có nhiều dạng khác nhau được phân nhóm thành hai loại:
Vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền. Vốn bằng tiền được coi là nguồn tài
chính của doanh nghiệp. Nguồn tài chính này là cơ sở để có được các điều
kiện sản xuất, tức là các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, địa điểm sản xuất
kinh doanh, thiết bị, nguyên vật liệu và các điều kiện khác.
Vốn của doanh nghiệp còn có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là số tiền
và tài sản hữu hình khác, doanh nghiệp có được nguồn tài chính của chính
mình, tức là không tính đến nguồn tài chính doanh nghiệp có được nhờ đi
vay. Tuy nhiên, trên thực tế, người ta thường dùng vốn theo nghĩa rộng để chỉ
toàn bộ nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, không phân biệt nguồn huy
động.
Từ những phân tích đã nêu, thì vốn của doanh nghiệp ( theo cách hiểu
vốn tài chính) có thể coi là giá trị bằng tiền của tất cả các nguồn lực có thể
chuyển thành tiền được doanh nghiệp nắm giữ và sử dụng nhằm mục đích thu
được lợi ích lớn hơn trong tương lai, không phân biệt nguồn gốc hình thành
và không phân biệt hình thái biểu hiện.
Thông thường, giá trị doanh nghiệp bao gồm cả giá trị hữu hình và giá
trị vô hình của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế, khi đánh giá vốn của
doanh nghiệp người ta chỉ tính đến các giá trị hữu hình, chính vì vậy, vốn
cũng có thể hiểu khác với phạm trù “ giá trị doanh nghiệp”.
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ khi thành lập doanh nghiệp
và biến đổi theo thời gian. Với những doanh nghiệp kinh doanh thành công,
vốn của doanh nghiệp có chiều hướng tăng trưởng, vì sau mỗi chu kỳ kinh
doanh, vốn ban đầu lại được bổ sung bằng một phần lợi nhuận thu được ( lợi
nhuận dùng để tái đầu tư ). Phần bổ sung này nhiều hay ít phụ thuộc vào mức

7
độ sinh lợi trong kinh doanh và chính sách tăng trưởng của doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp có chiến lược phát triển dài hạn thường rất chú ý dùng
lợi nhuận để tái đầu tư, vì nếu không tăng cường tái đầu tư thì sớm hay muộn,
doanh nghiệp đó sẽ thất bại. Ngoài ra, do nhu cầu của đầu tư, của quá trình
sản xuất kinh doanh, vốn có thể được huy động bổ sung từ các nguồn khác
nhau, do đó làm tăng vốn của doanh nghiệp.
Tuy vậy, với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì nguồn vốn ban
đầu sẽ bị giảm dần. Tình trạng này đã xảy ra với nhiều doanh nghiệp nhà
nước, có thể do cả hai loại nguyên nhân: kinh doanh thua lỗ ( không thực hiện
tái đầu tư mở rộng) và không thực hiện đủ khấu hao tài sản cố định ( không
đảm bảo tái đầu tư giản đơn).
Như vậy, vốn ban đầu của doanh nghiệp có thể tăng lên hoặc giảm đi
do hai nhóm yếu tố khách quan và chủ quan, phụ thuộc vào mức độ hiệu quả
và chính sách đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn
của doanh nghiệp tại mỗi thời điểm bao gồm vốn đầu tư ban đầu, vốn tích luỹ
từ lợi nhuận và vốn huy động bổ sung trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp.
1.2. Các nguyên tắc huy động vốn
1.2.1. Nguyên tắc kịp thời
Việc huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời. Thông thường, khi có
nhu cầu về vốn bổ sung, doanh nghiệp phải tìm nguồn vốn để giải quyết nhu
cầu đó, tuy nhiên, nếu việc cung ứng vốn không đúng thời điểm, thời cơ đầu
tư thì nguồn vốn đó sẽ mất ý nghĩa, hoặc làm giảm khả năng thu lợi ích từ các
hoạt động đầu tư kinh doanh. Vì vậy, cải tiến các thủ tục hành chính phức tạp
trong các quy trình giao dịch về vốn là mong muốn của các doanh nghiệp.
Nhiều khi, một số doanh nghiệp phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất cao hơn rất
nhiều trên thị trường tại chính phi chính thức để có được nguồn vốn kịp thời
8
vì nếu không vay kịp vốn thì nguồn vốn rẻ trên trở nên đắt, có thể làm cho các

kết quả dự tính trong các phương án kinh doanh giảm đi và doanh nghiệp gặp
khó khăn trong việc trả nợ.
1.2.2. Nguyên tắc hiệu quả
Cần lựa chọn bảo đảm hiệu quả huy động vốn cao nhất trong những
điều kiện nhất định. Như trên đã trình bày, trong điều kiện thị trường tài chính
càng phát triển thì doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn
vốn khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, do đó cần lựa chọn nguồn
vốn thích hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn.
Hiệu quả của việc sử dụng các hình thức huy động vốn không chỉ thể hiện ở
hiệu quả đầu tư mà nguồn vốn mang lại, mà còn thể hiện ở khả năng dễ dàng
tiếp cận và huy động các nguồn vốn, ở lợi ích của chủ doanh nghiệp khi sử
dụng nguồn vốn đó, như khả năng làm tăng lợi nhuận ròng của doanh nghiệp
và lợi nhuận tích luỹ.
1.2.3. Nguyên tắc số lượng và thời gian
Việc huy động vốn cần bảo đảm đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời
gian: một ý đồ đầu tư, kinh doanh sẽ không thể thực hiện được nếu không có
đủ một lượng vốn nhất định theo nhu cầu được tính toán, do đó, khi huy động
phải bảo đảm đủ về số lượng và tính tương thích về thời gian. Thực tế, hiện
nay một số doanh nghiệp thường phải nâng mức nhu cầu ghi trong các yêu
cầu huy động vốn để có thể có đủ số vốn cần thiết khi dự án được phê chuẩn,
điều đó làm cho các dự án không còn chặt chẽ. Ngoài ra, rất nhiều trường hợp
cách tính toán thời gian cho vay của các ngân hàng thường quá cứng nhắc nên
các doanh nghiệp không bảo đảm hạn trả tiền, phải chịu lãi suất quá hạn, chi
phí cao.
1.2.4. Nguyên tắc giảm thiểu chi phí giao dịch
9
Huy động vốn cần bảo đảm giảm thiểu chi phí giao dịch: Một nguồn
vốn với lãi suất thấp đôi khi có thể trở nên quá đắt do chi phí liên quan đến
giao dịch về vốn quá cao. Nguyên nhân chi phí giao dịch cao có thể là: thủ tục
hành chính phức tạp, quy trình giải ngân phiền toái, chi phí tư vấn cao hoặc

đôi khi do quy mô không thích hợp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần tùy theo
lượng vốn cần vay để chọn nguồn vốn phù hợp, vì những nguồn vốn phức tạp
sẽ làm cho chi phí giao dịch trên một đồng vốn huy động cao hơn nếu lượng
vốn huy động nhỏ. Ngược lại, những dự án lớn có thể có lợi về chi phí cho
vốn nếu tìm đến những nguồn vốn có thủ tục phức tạp hơn nhưng lại phải
chịu lãi suất thấp hơn.
2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN ĐANG ĐƯỢC SỬ DỤNG PHỔ BIẾN
(1)
Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn để tài trợ cho dự án.
Có thể phân thành: Nguồn vốn chủ sở hữu và Nguồn vốn nợ phải trả. Nguồn
vốn tự có được huy động từ các nguồn: quỹ khấu hao cơ bản, quỹ tích lũy đầu
tư hoặc điều chỉnh cơ cấu tài sản nợ. Nguồn vốn từ bên ngoài được huy động
từ nguồn ngắn hạn hoặc dài hạn.
Hình 1.1. Sơ đồ các nguồn vốn
CÁC
NGUỒN VỐN
Nguồn nợ
phải trả
Nguồn vốn
chủ sở hữu
Ngắn hạn
Dài hạn
Quỹ khấu
hao
Quỹ tích luỹ
tái đầu tư
Điều chỉnh
cơ cấu tài sản
Vốn cổ phần
và thặng dư

10
Những khác biệt chủ yếu giữa Nợ phải trả và Nguồn vốn chủ sở hữu
( trong đó chủ yếu là vốn cổ phần) được trình bày ở bảng dưới đây:
(1)
Bảng 1.1. Những đặc điểm của Nợ phải trả và Vốn cổ phần
Nợ phải trả Vốn cổ phần
1- Doanh nghiệp nhận được chúng từ
những thành phần không phải là chủ
sở hữu của nó
1- Do các chủ sở hữu của doanh
nghiệp tài trợ
2- Phải trả lãi cho những khoản tiền
đã vay
2- Không trả lãi cho vốn cổ phần đã
huy động được mà sẻ chia lợi tức cổ
phần cho các chủ sở hữu nếu công ty
làm ra được lợi nhuận
3- Mức lãi suất phải trả cho các
khoản nợ vay thường theo một mức
ổn định được thỏa thuận khi vay
3- Lợi tức cổ phần chia cho các cổ
đông tuỳ thuộc vào quyết định của
Đại hội đồng cổ đông và nó thay đổi
theo mức lợi nhuận mà công ty thu
được
4- Doanh nghiệp phải hoàn trả nợ vay
cho chủ nợ vào một thời điểm nào đó
trong tương lai ngoại trừ trường hợp
nguồn huy động là trái phiếu tuần
hoàn

4- Doanh nghiệp không phải trả
những khoản tiền vốn đã nhận được
cho chủ sở hữu trừ khi doanh nghiệp
đóng cửa và các loại tài sản được chia
cho chủ sở hữu. Trường hợp này
không áp dụng đối với cổ phần ưu đãi
có thời hạn đáo hạn cố định
11
5- Công ty có thể phải thế chấp bằng
các loại tài sản như hàng hóa các loại
tài sản cố định, quyền sở hữu tài sản,
cổ phiếu hay sử dụng biện pháp bảo
lãnh để được vay
5- Doanh nghiệp không phải thế chấp
tài sản hay nhờ bảo lãnh bởi vốn huy
động là của các chủ sở hữu.
Trong hoạt động kinh doanh, người quản trị cần tìm cách huy động các
nguồn tín dụng từ bên ngoài doanh nghiệp để tài trợ cho hoạt động doanh
nghiệp. Các nguồn vốn nợ phải trả được chia thành nguồn Nợ ngắn hạn và
nguồn Nợ dài hạn. Bảng sau nêu lên đặc điểm của nguồn tín dụng này.
Bảng 1.2. Những khác biệt chủ yếu giữa nguồn Nợ ngắn hạn và dài hạn
Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn
1- Thời hạn trả chúng trong vòng 1
năm
1- Thời gian đáo hạn dài hơn 1 năm
2- Không phải trả lãi cho những
nguồn tài trợ ngắn được các nhà cung
cấp tài trợ bằng hình thức tín dụng
thương mại
2- Phải trả lãi cho tất cả các loại tài

trợ dài hạn mà doanh nghiệp nhận
được
3- Lãi suất của các nguồn tài trợ ngắn
hạn thường thấp hơn nợ vay dài hạn
3- Lãi suất tài trợ dài hạn thường cao
hơn so với lãi suất của nguồn tài trợ
ngắn hạn
2.1. Huy động vốn Nợ phải trả
2.1.1. Nguồn tài trợ ngắn hạn
Nguồn tài trợ ngắn hạn là những khoản tiền mà công ty phải hoàn trả
trong vòng một năm kể từ ngày nhận được chúng. Nguồn tài trợ này bao gồm
các khoản Tín dụng thương mại mà công ty nhận được từ các nhà cung cấp
khi mua các loại hàng hóa dưới hình thức mua chịu, mua bằng tiền quỹ
(deposits).Ngoài ra, nó còn bảo gồm tiền đặt cọc của khách hàng để mua hàng
hóa hay dịch vụ theo hợp đông và những khoản tiền vay ngắn hạn do các
12
ngân hàng, công ty tài chính, công ty mua nợ, công ty bảo hiểm tài trợ. Đồng
thời, nó cũng bao gồm các khoản nợ tích lũy gồm có nợ các loại tiền lương
của công nhân mà công ty chưa trả, nợ tiền thuế những chưa trả cho Chính
phủ, và lợi tức của phần theo sổ sách mà chưa phải trả cho cổ đông. Các ngồn
tài chính ngắn hạn có thể được phân thành 3 nhóm chính: nguồn tài trợ ngắn
hạn không cho vay mượn, nguồn tài trợ ngắn hạn không có đảm bảo và nguồn
tài trợ ngắn hạn có đảm bảo.
2.1.1.1. Tín dụng thương mại
Một công ty có thể dựa vào nguồn tín dụng mở rộng do mua hàng hóa
của các nhà cung cấp dựa trên “tài khoản mở” như là một nguồn tài trợ ngắn
hạn. Hình thức tín dụng này được gọi là hình thức “tín dụng thương mại” và
hoàn toàn khác so với các hình thức tín dụng ngắn hạn khác vì nó không phải
do các định chế tài chính tài trợ.
Khi công ty quyết định tài trợ này phải luôn luôn nghĩ tới hậu quả lâu

dài của tín dụng thương mại. Bởi nếu công ty trì hoãn thanh toán các hóa đơn
mua hàng, thường dẫn đến hậu quả là các nhà cung cấp sẽ không sẵn sàng tiếp
tục cung cấp hàng hóa của họ, hoặc nếu tiếp tục thì sẽ bán với giá cao hơn.
Tuy nhiên, có một yếu tố mà các công ty có dự định sử dụng thương
mại sẽ thu được nguồn lợi là phần chiết khấu (nếu có) dành cho nó. Sở dĩ có
khoản chiết khấu này là do các nhà cung cấp nhân thấy người sử dụng tín
dụng thương mại phải chịu phí tổn rất cao nên họ áp dụng chiết khấu nhằm
hấp dẫn khách mua hàng.
Thí dụ, một công ty mua một món hàng với điều kiện chiết khấu 2/10
(chiết khấu 2%, thời hạn 10 ngày), trong thời gian 30 ngày và giá trị hóa đơn
là 100$. Nếu công ty thanh toán sau thời hạn 10 ngày đó. Điều này có nghĩa
là nếu công ty thanh toán tiền mua hàng trong khoảng thời gian 30 ngày, thì
chi phí sử dụng tín dụng thương mại của công ty là:
13
2/98 x365/20
(*)
x 100 = 37.2%/năm.
Tín dụng thương mại thường luôn sẵn sàng để phục vụ các công ty vì
nó không do các định chế tài chính tài trợ, do đó có thể nói nó là nguồn tài trợ
không do vay mượn. Tổng giá trị khoản tiền nợ do mua hàng hóa của nhà
cung cấp được đưa vào tài khoản “nợ phải trả” (Accounts Payable) của công
ty.
Đồng thời, công ty cũng có thể nhận được một nguồn tài trợ ngắn hạn
không do vay mượn khác do chậm thanh toán một số khoản chi tiêu như tiền
lương, tiền thưởng của công nhân, tiền thuê mướn thiết bị, nhà xưởng vv...
tiền thuế và tiền điện nước... Dĩ nhiên công ty sẽ phải thanh toán những khoản
nợ tích lũy (accruals) này trong một thời hạn ngắn, nếu không công ty sẽ chỉ
còn một cách nhất là phải trả lời trước các cơ quan công quyền.
2.1.1.2. Nguồn tài trợ ngắn hạn không có bảo đảm.
Bên cạnh nguồn tài trợ ngắn hạn của các nhà cung cấp, công ty còn có

thể dựa vào các định chế tài chính để nhận được những khoản tiền vay ngắn
hạn không bảo đảm. Những khoản cho vay này là những khoản vay do các
ngân hàng tài trợ cho công ty mà không đòi hỏi bất cứ sự bảo đảm nào. Các
hình thức cho vay ngắn hạn không có bảo đảm chủ yếu là:
a. Hạn mức tín dụng hay Thấu chi.
b. Hợp đồng tín dụng tuần hoàn.
c. Tín dụng thư.
d. Cho vay theo hợp đồng.
A. Hạn mức tín dụng hay Thấu chi (Line of credit or Overdraf)
Hạn mức tín dụng hay thấu chí ngân hàng là một thỏa thuận giữa công
ty và ngân hàng mà theo đó, ngân hàng tạo sẵn một khoản tín dụng nào đó
cho công ty. Thí dụ nếu một thỏa thuận quy định hạn mức tín dụng cho một
công ty là 500.000$, điều đó có nghĩa là công ty đo có thể mượn được số tiền
14
lên tới 500.000$ của ngân hàng. Số tiền này là tổng số tín dụng mà ngân hàng
bằng lòng tạo sẵn cho công ty. Loại tín dụng này thường được thiết lập trên
cơ sở từng năm. tại thời điểm kết thúc mỗi năm, ngân hàng sẽ xem xét lại tình
hình hoạt động tài chính của công ty, và dựa trên cơ sở xem xét này có thể gia
hạn hay điều chỉnh tổng mức tín dụng cho công ty trong năm kế tiếp. Hình
thức tín dụng thuận lợi này thường được hiểu là thấu chi ngân hành (rút vượt)
được tạo ra để cung cấp nguồn tài chính nhất định đủ bù đắp phần chênh lệch
giữa dòng lưu kim tiền thu nhập và dòng lưu kim chi phí của công ty.
Tiền lãi của hình thức cho vay này tùy thuộc vào tổng giá trị tín dụng
thấu chi của công ty đã sử dụng và công ty được phép tính khoản tiền trả lãi
này cho chi phí hàng ngày.
Nhìn chung, đây là hình thức tài trợ có chi phí thấp nhất đối với các
doanh nghiệp. Song điều bất lợi của hình thức tài trợ này là nếu công ty vay
tiền theo thỏa thuận này thì phải duy trì đảm bảo khae ăng tài chính, đề phòng
có thể phải trả lại những khoản vay này khi ngân hàng yêu cầu, tức là ngân
hàng có thể từ chối thể hiện hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.

B. Thỏa thuận tín dụng tuần hoàn ( Revolving credit agreement)
Thỏa thuận tín dụng tuần hòan cũng là một công cụ tín dụng do ngân
hàng thượng mại sáng tạo ra để phục vụ các doanh nghiệp. Nó cũng tương tự
như hạn mức tín dụng, ngoại trừ những cam kết chính thức và mang tính pháp
lý do ngân hàng đưa ra để tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp theo tổng mức tín
dụng tối đa đã thỏa thuận.
Theo hình thức thỏa thuận này, công ty có nghĩa vụ trả cho ngân hàng
một khoản phí sử dụng nguồn ngân quỹ trên toàn bộ hạn mức tín dụng đã thỏa
thuận, đổi lại ngân hàng dành cho công tu đặc quyền sử dụng tín dụng phảo
trả có thể được thanh toán một lần, hoặc thanh toán theo tỷ lệ phần trăm của
15
giá trị trung bình trên phần chênh lệch tín dụng đã không sử dụng tới tùy theo
sự thương lượng giữa doanh nghiệp và ngân hàng.
C. Tín dụng thư (Letter of credit)
Tín dụng thư chủ yếu được sử dụng cho nhập khẩu hàng hóa. Nhà nhập
khẩu có thể đề nghị một ngân hàng cung cấp phương tiện tín dụng để có thể
mua hàng hóa từ một nhà xuất khẩu nước ngoài. Nếu ngân hàng chấp thuận
cấp tín dụng, họ sẽ phát hành một tín dụng thư được viết như một bản cam kết
trả tiền cho nhà xuất khẩu, bằng cách gửi tới ngân hàng đại diện cho nhà xuất
khẩu, cam đoan rằng sẽ thanh toán tiền trả cho những hàng hóa cung cấp cho
nhà nhập khẩu theo đúng những điều khoản của tín dụng thư. Khi nhân được
thông báo của ngân hàng là đã có tín dụng thư, công ty xuất khẩu sẽ ký phát
hối phiếu đòi tiền và các văn liên quan đến hàng hóa chuyển tói ngân hàng
phát hành (thông qua ngân hàng bên xuất khẩu). Đồng thời, hàng hóa được
xuất khẩu gửi tới người mua và ngân hàng phát hành (tín dụng thư) sẽ thanh
toán cho nhà xuất khẩu tổng số tiền đã ghi trong tín dụng thư qua ngân hàng
đại diện của nhà xuất khẩu.
Sau khi số tiền theo tín dụng thư đã được ngân hàng thanh toán hoàn
tất, nó sẽ trở thành một khoản nợ do ngân hàng tài trợ cho nhà nhập khẩu và
nó thường là một thỏa thuận tín dụng tuần hoàn.

Để được chấp thuận mở tín dụng thư, thì trước đó nhà nhập khẩu phỉa
có một khoản tiền ký quỹ tại ngân hàng. Độ lớn của khoản tìên kỹ quỹ tùy
thuộc vào vị thế tín dụng của nhà nhập khẩu theo cách đánh giá của ngân
hàng và tùy theo quy định của Chính Phủ.
D. Tài trợ theo hợp đồng (Transaction Loan).
Theo hình thức thỏa thuận này, khi công ty nhận được đơn đặt hàng của
một khách hàng, họ có thể tiếp xúc với một ngân hàng và yêu cầu cho vay
một khoản tiền để tài trợ cho hợp đồng. Thí dụ, một công ty vừa nhân được
16
một hợp đồng do một công ty lớn và có tình hình tài chính lành mạnh đặt
hàng, công ty đề nghị một ngân hàng cho vay một khoản tiền theo thể thức
cấp tài trợ theo hợp đồng để mua nguyên liệu và thanh toán các khoản chi phí
khác nhằm hoàn thành hợp đồng. Ngân hàng thường rất sẵn sàng chấp thuận
tài trợ theo thể thức này, nhất là khi khoản tiền họ cho vay được sử dụng để
tài trợ cho một hợp đồng ký kết giữa công ty mượn tiền với công ty lớn và
đáng tin cậy, bởi như vậy họ được đảm bảo sẽ thu hồi nợ đúng hạn.
Theo những điều kiện của tài trợ theo hợp đồng, khoản tiền cho vay
phải được thu hồi càng sớm càng tốt như những khoản tiền thanh toán nhận
được từ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu trong khi đang thực hiện hợp đồng mà
công ty ký tiếp một hợp đồng khác, ngân hàng có thể xem xét và chấp thuận
cho vay một khoản tiền khác dựa trên cơ sở giao dịch thứ hai.
Hình thức tài trợ theo hợp đồng thường rất hay được sử dụng để tài trợ
cho các doanh nghiệp nhỏ, nhất là các nhà thầu.
Tỷ lệ lãi suất của các khoản cho vay không có bảo đảm thường thay đổi
tùy theo từng công ty và tùy từng ngân hàng, tùy thuộc vào vị trí tín dụng của
công ty đi vay. Một công ty có uy tín tín dụng cao sẽ phải trả lãi suất vay với
tỷ lệ thấp hơn công ty không có danh tiếng. Các ngân hàng thường tiến hành
phân loại khách hàng của họ thành nhiều loại khác nhau tùy theo mức độ rủi
ro và vị thế tín dụng của họ.
2.1.1.3. Tài trợ ngắn hạn có bảo đảm

Một công ty không dễ dàng gì nhận được nguồn tài trợ ngắn hạn của
một ngân hàng hay các nguồn khác khi không có bảo đảm, vì các hình thức
tài trợ đó đem lại rất nhiều rủi ro cho người cho vay. Tuy nhiên, nếu doanh
nghiệp cung cấp đủ sự bảo đảm đối với khoản tiền vay theo yêu cầu, thì họ sẽ
dễ dàng nhận được khoản tín dụng cần thiết từ một nhà tài trợ nào đó.
17
Việc bảo đảm an toàn nhằm đảm bảo thanh toán cả tiền vốn gốc và lãi
của khoản cho vay là hình thức “thế chấp” (collateral). Tài sản thế chấp để
bảo đảm cho các hình thức vay ngắn hạn thường bao gồm khỏan phải thu,
giấy hẹn nợ, các loại hàng hóa, các loại chứng khoán. Chúng có thể là các loại
cổ phần, những giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi nhanh, những khoản ký
quỹ đình kỳ, quyền sở hữu máy móc, thiết bị, hoặc chỉ là sự bảo lãnh của cá
nhân cá cổ đông chính của doanh nghiệp.
Những khoản vay ngắn hạn được thế chấp bằng những khoản phải thu
như các loại thương phiếu, hối phiếu được gọi là vay có thể chấp bằng khoản
phải thu. Đồng thời công ty cũng có thể đem bán lại các chứng từ này thay vì
đem chúng đi thế chấp để vay tiền.
Việc bán những khoản phải thu này cho một ngân hàng, một công ty tài
chính hay công ty mua nợ để gia tăng nguồn vốn ngắn hạn được gọi là “Mua
nợ” (factoring). Còn các khoản nợ vay được do bảo đảm bằng hàng hóa, tài
sản được gọi là “vay có thế chấp bằng hàng hóa” (invertory financing).
A. Vay có thế chấp bằng khoản phải thu
Một công ty muốn nhận được một khoản vay ngắn hạn có thể tiếp xúc
với ngân hàng hay công ty tài chính và đề nghị sử dụng các hóa đơn thu tiền
làm vật bảo đảm cho khoản vay. Nếu ngân hàng quan tâm và đồng ý tài trợ
cho công ty, họ sẽ đánh giá chất lượng của các loại hóa đơn thu tiền được
dùng làm vật thế chấp và sau đó, xác định giá trị khoản cho vay tương xứng
với giá trị của khoản phải thu. Giá trị của khoản cho vay tùy thuộc vào mức
độ rủi ro và có thể giao động trong khoảng 20% đến 90% giá trị danh nghĩa
của khoản phải thu.

Một khi giá trị này đã được xác định, công ty đi vay sẽ gửi ngân hàng
cho vay một bản danh mục liệt kê danh sách các khoản phải thu, cùng thời
hạn trả và tổng số tiền. Sau đó công ty sẽ yêu cầu ngân hàng cho một cam kết
18
bằng văn bản để chuyển tất cả các khoản phải thu sang phần thanh toán và bù
trừ cân đối công nợ. Thông thường, một khi doanh nghiệp đã được ngân hàng
tài trợ, ngân hàng có thể tiếp tục cho vay trên cơ sở cầm cố những khoản phải
thu mới như những giao dịch đã xảy ra trước đó.
B. Mua nợ
Các định chế tài chính có thể phải mua những khoản phải thu để gia
tăng nguồn tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Các tổ chức mua nợ thường
là một ngân hàng, một công ty tài chính hay công ty mua nợ. Sau khi việc
mua bán hoàn tất bên mua nợ có trách nhiệm thu hồi các khoản nợ theo các
chứng từ đã mua và chịu mọi rủi ro khi gặp những món nợ khó đòi (mua nợ
được áp dụng cho cả bán hàng trong nước và xuất khẩu).
Bên cạnh việc có nguồn tài chính như mong muốn, mua nợ còn cho
phép một doanh nghiệp chấp nhận bán chịu cho khách hàng mà không phải
chịu nhiều rủi ro, bởi công ty mua nợ sẽ kiểm tra tài chính của khách hàng
trước khi quyết định mua chứng từ bán hàng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì
nó là một nguồn tài trợ nên chi phí huy động vốn theo hình thức thỏa thuận
mua nợ khá cao, bởi nó bao gồm nhiều loại chi phí kiểm tra tư cách tín dụng
của khách hàng hay những rủi ro không thu hồi được vay nợ.
C. Vay thế chấp bằng hàng hóa
Bên cạnh các chứng từ bán hàng, các loại hàng hóa, tài sản cũng
thường được sử dụng để thế chấp cho các khoản vay ngắn hạn,. Trị giá của
khoản vay thuộc loại thế chấp này tùy thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng
chuyển đổi nhanh, và tính ổn định về giá cả của các loại hàng hóa thế chấp.
Nếu những hàng hóa, tài sản này không có rủi ro, có thể bán nhanh trên thị
trường và có giá cả ổn định thì khoản tiền vay mượn sẽ chiếm một tỷ lệ khá
cao so với giá trị ghi trên chứng từ.

19
Những công ty có hàng hóa, tài sản mà cần một số vốn ngắn hạn có thể
dựa vào nguồn tài trợ này. Vay thế chấp bằng hàng hóa gồm có các hình thức
sau:
* Vay ký thác.
* Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được.
* Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng hóa cồng kềnh.
* Để đương.
Vay ký thác bằng hàng hóa (Trust Receipt Loan)
Vay ký thác là khoản vay do ngân hàng tài trợ trên cơ sở những hàng
hóa đặc biệt đang thuộc quyền sở hữu của công ty nó còn được gọi là vay bắc
cầu ( Brirging Loan) Hay tiền cho vay trên hàng hóa. đặc trưng của vay ký
thác là nó chỉ được chấp nhận khi công ty đi vay có những hàng hóa thuộc
loại có thể dẽ dàng nhận diện và mỗi món hàng này phải có giá trị lớn trên thị
trường. Ví dụ như xe hơi các loại, máy truyền hình, và các thiết bị âm thanh
nổi.
Theo thỏa thuận cho vay ký thác, người đi vay phải ký nộ văn bản ủy
thác chỉ rõ những hàng hóa đang thuộc quyền sở hữ của họ được giao cho
ngân hàng quản lý. Đổi lại, công ty nhận được một hối phiếu có thời hạn để
được rút tiền trong một khoảng thời gian nhất định nhằm trang trải cho toàn
bộ chi phí của giao dịch cho hàng hóa. Sau đó cũng theo thỏa thuận này, ngân
hàng ký phát những chứng từ thích hợp cho phép công ty nhận lại quyền sở
hữu hàng hóa và kết toán tài khoản khi chúng được bán xong.
Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
Đối với những loại hàng hóa dễ dàng vận chuyển như xi măng hay bột
mỳ chẳng hạn thì thỏa thuận cho vay đem lại nhiều rủi ro cho ngân hàng, bởi
những hàng hóa đó có thể bị công ty vay tiền đem bán xong mà ngân hàng
không hay biết cho tới khi đã quá trễ. Do đó ngân hàng cho vay có thể yêu
20
cầu công ty chuyển những hàng hóa của họ gửi vào một kho chứa hàng công

cộng trước khi chấp nhận cho vay.
Theo hình thức thỏa thuận cho vay này, công ty vay tiền không được
phép bán bất cứ một phần nào những hàng hóa đã được gửi vào kho công
cộng nếu không được sự chấp thuận bằng văn bản ở ngân hàng. Ngân hàng
chỉ đồng ý cấp giấy phép bán những hàng hóa thế chấp này khi họ được đảm
bảo rằng, công ty vay tiền sẽ thanh toán món nợ một cách nhanh chóng ngay
khi nhận được tiền bán những hàng hóa đó.
Vay ký thác bằng chứng từ lưu kho hàng cồng kềnh.
Loại thỏa thuận này tương tự như thỏa thuận vay có thế chấp bằng ký
hóa phiếu hàng di chuyển được, chỉ khác là những tài sản trên công ty vay
tiền được thay thế bằng một hóa đơn lưu kho nội bộ của công ty. Thông
thường ngân hàng chỉ chấp thuận loại cho vay này đối với những hàng hóa
quá cồng kềnh, không thuận tiện khi chuyển vào kho công cộng. Những loại
hàng hóa này có thể là gỗ chưa xẻ, ván ép, hay sắt thép vv...
Để đương
Theo thỏa thuận này, công ty đi vay lập một bảng danh mục tất cả các
loại tài sản thế chấp cho vay món tiền. Trên cơ sở đó, ngân hàng lựa chọn một
số tài sản trong đó làm vật thế chấp và chỉ xét cho vay dựa trên những tài sản
thuộc danh sách đã chọn trong khoảng thời gian đã định. Vật thế chấp theo
hình thức cho vay này vẫn thuộc quyền quản lý của người vay tiền và ngân
hàng chỉ giữ giấy phép của chúng.
Tuy nhiên, vì lẽ khi cho vay dưới hình thức để đương không chở thành
phổ biến và ngân hàng nhận thấy rất khó giám sát lại giao dịch tín dụng này
nên họ thường tránh tài trợ với số lượng lớn. Một lý do nữa khiến cho các
ngân hàng chỉ cho vay một số lượng nhỏ đối với hình thức này là do chi phí
21
và sự phiền phức liên quan đến việc phát mãi tái sản thế chấp khi công ty vay
tiền không trả được nợ.
2.1.2. Nguồn tài trợ dài hạn
Nguồn ngân quỹ dài hạn là những khoản tiền có thời hạn sử dụng dài

hơn một năm kể từ ngày đầu tiên khi nhận chúng. Nguồn ngân quỹ này
thường được công ty sử dụng để tài trợ cho việc mua máy móc, thiết bị hay
xây dựng nhà xưởng và một phần nguyên vật liệu v.v ...
Công ty có thể huy động tín dụng dài hạn từ nhiều nguồng khác nhau.
Các nguồn này bao gồm : Thuê mua trả góp, tín dụng thuê mua; Vay dài hạn
định kỳ hay vay có kỳ hạn, phát hành trái phiếu và ký phiếu.
2.1.2.1. Thuê mua trả góp ( Hire - Purehase Financing)
Một doanh nghiệp cần tiền để mua máy móc, thiết bị có thể sử dụng
phương pháp huy động nguồn tín dụng trực tiếp bằng cách mua các loại tài
sản đó dưới hình thức thuê mua trả góp. Khi mua tài sản theo hình thức này,
công ty tiến hành thiết lập một hợp đồng với chủ tài sản theo hình thức này,
công ty thiết lập một hợp đồng với chủ tài sản hay một định chế tài chính.
Thoả thuận này cho phép công ty trả ngay một phần giá trị tài sản và phần còn
lại được thanh toán trong nhiều kỳ, vào những thời điểm được ấn định trước
và mỗi lần trả một phần giá trị của tài sản cùng tiền lãi, nếu công ty đồng ý
tuân theo những điều khoản và điều kiện của hợp đồng thuê mua trả góp.
Trong thời gian thi hành hợp đồng, quyền sở hữu tài sản do người bán - người
cho thuê vào thời điểm hết hạn hợp đồng nếu người thuê hoàn thành tốt các
nghĩa vụ theo quy định.
Do đó, bằng hình thức này công ty có thế nhân được tài sản ngay lập
tức mà không phải thương lượng với một ngân hàng hay công ty tài chính để
vay tiền và cũng không phải cầm cố bất cứ loại tài sản nào. Công ty chỉ cần
trả một khoản tiền của kỳ đầu tiên, có thể bằng khoảng 1/3 giá trị của thiết bị
22
và có thể trả dần kéo dài trong khoảng 1 - 5 năm để thanh toán xong toàn bộ
chi phí. Trong suốt thời gian thuê mướn, công ty có thẻ được phép áp dụng
phương pháp khấu hao nhanh đối với tài sản thuê này mặc dù phương pháp
này không được áp dụng với tài sản riêng của công ty.
Tuy nhiên, chi phí mua tài sản theo hình thức tài trợ này khá cao, bởi
công ty không được hưởng phần chiết khấu mà các nhà cung cấp thường áp

dụng đối với những tài sản được mua bằng tiền mặt. Hơn thế nữa. tỷ lệ lãi
suất thực trong các giao dịch thuê mua trả góp lên tới hơn 25%/năm, mặc dù
lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng chỉ ở mức 10 – 12%/năm và mức lãi suất
này gần như là một tỷ lệ cố định. Mặt khác, một bất lợi nữa đối với doanh
nghiệp đi thuê là nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán, họ có nguy cơ
bị mất quyền sở hữu tài sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng, vì nó đã bị phá
vỡ.
2.1.2.2. Tín dụng thuê mua (lease financing)
Thay vì mua tài sản theo hình thức thuê mua trả góp, doanh nghiệp có
thể sử dụng hình thức thuê tài chính hay thuê vận hành (finance lease or
operating lease) để thuê tài sản của công ty thuê mua hay công ty tài chính.
Khi công ty tiến hành thuê một tài sản, thì họ sẽ được quyền sử dụng tài sản
đó (như máy photo copy, máy vi tính, xe ô tô) như thỏa thuận và phải thanh
toán tiền thuê theo định kỳ cho người chủ tài sản. Hợp đồng được thiết lập
giữa công ty và chủ tài sản có thể quy định rằng, công ty không được quyền
trả lại tài sản và cũng không được từ chối thanh toán tiền thuê trong thời hạn
thuê mướn cơ bản. Đồng thời, nó cũng có thể cho phép công ty được quyền
lựa chọn trả lại tài sản sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thông báo trước với chủ
sở hữu theo quy định trong hợp đồng.
Những đặc điểm căn bản của thỏa thuận thuê mua được trình bày trong
hình như sau:
23
Bảng 1.3. Những đặc điểm căn bản của thoả thuận thuê mua

Người cho thuê
- Có tài sản, thiết bị sẵn sàng để cho
thuê
- Nhận tiền thuê do người thuê trả
- Được hưởng giá trị còn lại của tài
sản

Người thuê
- Trả tiền thuê cho người thuê
- Có quyền sử dụng tài sản
- Có trách nhiệm bảo quản, bảo trì tài
sản
Một số điểm thuận lợi và bất lợi thường hay được để cập nhật của giao
dịch thuê mua đối với công ty thuê tài sản.
Thuê mua thuần
Thuận lợi Bất lợi
1. Thuê mua là một hình thức tăng
vốn mà công ty có thể sử dụng dễ
dàng
1. Chi phí thuê mua thường cao hơn
chi phí vay vốn để công ty từ đầu tư,
vì công ty thuê mua thu lợi nhuận của
họ trên các giao dịch thuê mua.
2. Thuê mua cho phép công ty biến
những nguồn tiền riêng thành tài sản
có tỷ lệ hoàn vốn cao
2. Công ty phải chịu tất cả mọi rủi ro
liên quan đến hợp đồng và tài sản
thuê.
3. Các khoản tiền thuê làm giảm thuế
lợi tức, do đó đem lại cho công ty
phần lợi nhuận do hoàn thuế
3. Nếu tài sản được chuyển trả người
cho thuê ở thời điểm kết thức hợp
đồng thuê mua thì công ty không
được hưởng giá trị còn lại của tài sản
4. Các khoản tiền khấu hao nhanh

làm giảm thuế lợi tức, do đó nếu thuế
suất của công ty cao hơn thuế suất
của người cho thuê, thì sẽ thu được
lợi nhuận.
4. Công ty không được những khoản
tiền khấu hao trên mức thuế suất của
người cho thuê.
24
Người cho thuê
(chủ sở hữu)
Người thuê (người
sử dụng)
5. Thuê mua giúp công ty tránh được
sự lạc hậu về công nghệ, vì thông qua
nó công ty có thể thay thế những thiết
bị lạc hậu bằng những thiết bị hiện
đại.
Do đó, bằng việc chấp thuận một thỏa thuận thuê tài chính, công ty có
thể có được tài sản để sử dụng mà không phải mua nó. Đây là một hình thức
tài trợ rất hay được sử dụng để có tài sản, bởi nếu nguồn này không có sẵn,
công ty sẽ phải tìm nguồn tài trợ bằng hình thức khác để mua thiết bị.
Ngoài ra, bên cạnh việc công ty sẵn sàng để sở hữu một thiết bị đắt tiền
bằng cách thuê mua một tài sản, thì công ty còn có thể nhận được nguồn tài
trợ bằng cách bán tài sản của họ cho một định chế tài chính để lấy tiền mặt, để
rồi sau đó thuê mua lại chính tài sản đó từ định chế tài chính vừa mua của họ.
Hình thức tăng vốn này được gọi là hình thức bán và tái thuê và nó là một
hình thức huy động vốn trung hạn rất thông dụng.
2.1.2.3. Các khoản vay có định kỳ hay có kỳ hạn.
Một doanh nghiệp có thể tăng ngân sách thông qua hình thức đi vay với
thời gian đáo hạn hơn một năm, bằng cách thế chấp một số tài sản của họ như

một hình thức bảo đảm cho khoản tiền vay. Các ngân hàng thương mại và
công ty tài chính thường chấp nhận những loại tài sản sau là tài sản thế chấp
như: quyền sử dụng đất đai, các loại máy móc, các loại bất động sản, những
khoản ký quỹ có thời hạn, ngoại tệ các loại, các loại chứng khoán và cổ phiếu
của các công ty cổ phần đại chung, khoản vay này thường được gọi là vay
định kỳ hay vay có kỳ hạn.
Đặc điểm riêng của vay định kỳ (hay vay có kỳ hạn) là trong mỗi kỳ
hạn - hàng tháng, quý hay năm - người vay phải trả cho chủ nợ một khoảng
tiền nhất đinh bao gồm một phần vốn gốc và lãi. Nó khác với hình thức thấu
25

×