Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thành phố nước ngoài vào Campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.52 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh
thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong các hoạt động kinh tế đối
ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động ngày càng trở thành một
trong những dạng đầu tư quan trọng trong nền kinh tế thế giới và được nhiều
quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng lâu dài. Khai thác và
sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là mục tiêu được ưu tiên
hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển
và chuyển đổi, nơi có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư phát triển kinh tế. Bằng
các biện pháp và chính sách thích hợp nhiều nước đang phát triển và chuyển
đổi đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với Campuchia, Chính phủ Hoàng gia đã và đang có chính sách mở
rộng nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường, phát huy những quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trong
khu vực và trên thế giới, tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát
triển kinh tế, góp phần đưa đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và bước
vào thời kỳ phát triển mới. Một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự
chuyển biến tích cực đó là việc thu hút có kết quả vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Sự di chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia thể hiện
sự nỗ lực to lớn và có hiệu quả thực tế của Chính phủ Hoàng gia Campuchia
trong việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để khai thác các lợi thế của đất
nước. Những kết quả ban đầu của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Campuchia, đánh dấu việc chuyển biến về chất trong tư duy hoạch định
chính sách khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp phát
1
triển kinh tế đất nước, trong điều kiện xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế
đang diễn ra sâu rộng và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang
tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong cơ sở vật chất của nền kinh tế thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn tạo nguồn vốn đầu tư để phục vụ tự do


hóa, tư nhân hóa nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Campuchia, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô và
nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Campuchia” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình.
Mục đích của luận án:
Mục đích nghiên cứu của luận án đi sâu phân tích thực trạng của hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Campuchia, tìm hiểu những mặt tích cực
và hạn chế của nó, từ đó đề xuất những phương hướng và biện pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư và kinh tế đối ngoại của Campuchia trong
giai đoạn tới trên cơ sở tìm hiểu và áp dụng một cách sáng tạo những vấn đề
lý luận và thực tiễn của Campuchia.
Đưa ra những giải pháp hợp lý để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Campuchia, nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của đầu tư trực
tiếp nuớc ngoài tại Campuchia trong thời gian tới.
Tổng kết kinh nghiệm về chính sách đầu tư của Campuchia.
2
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI CÔNG
CUỘC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CAMPUCHIA
1-/ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1-1./ Đầu tư và hình thức đầu tư
Trong điều kiện của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, để tiến hành mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề đặt ra là cần phải có vốn đầu tư và
thực hiện hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để xây dựng nhà xưởng, mua
sắm hoặc bổ sung trang thiết bị, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm
nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động. Vốn đó dù có sự khác nhau về
quy mô hay cơ cấu song là cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, với các
quốc gia, nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với những
quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hóa,
trong đó có Vương Quốc Campuchia.

Vốn đầu tư trong nền sản xuất hàng hóa là tiền được tích lũy của xã
hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, là
vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản
xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra của cải lớn hơn cho sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt xã hội và từng gia đình.
Vốn đầu tư có thể được huy động từ trong nước, hoặc từ nước ngoài.
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế phát triển mạnh như ngày nay
thì nguồn vốn từ nước ngoài ngày càng trở thành phổ biến hơn và có vai trò
không nhỏ. Mặc dù về lâu dài vốn đầu tư trong nước luôn giữ vai trò chủ yếu,
nhưng không mất đi tính chất quan trọng của nguồn vốn nước ngoài.
Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho những mục tiêu phát triển
nhất định. Xét về bản chất thì việc sử dụng đó chính là quá trình thực hiện
3
việc chuyển hóa vốn tiền tệ thành các yếu tố của quá trình tái sản xuất, được
gọi là hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư bao giờ cũng dựa trên những điều
kiện vật chất và mục tiêu cụ thể, trước mắt và lâu dài ở tầm vĩ mô hoặc vi mô.
Tuy nhiên, hiện nay còn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư,
trong đó có mấy khái niệm tiêu biểu sau đây:
- Đầu tư (Investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã
hội nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích lũy xã hội của
các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy
động từ các nguồn khác, được đưa vào tái sản xuất xã hội. Trên bình diện
doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào đó nhằm
mục đích thu lại khoản tiền lớn hơn.
- Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian
tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã hội.
Đặc điểm của đầu tư là nó xảy ra trong một thời gian tương đối dài,
thường từ 2 năm trở lên đến 50 - 70 năm hoặc lâu hơn nữa. Những hoạt động
kinh tế ngắn hạn thường trong vòng 1 năm không nên gọi là đầu tư.
- Đầu tư (kinh tế) là việc bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình

xây dựng hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách,
vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới,
hoặc thực hiện việc hiện đại hóa, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay
phát triển phúc lợi công cộng.
Những cách diễn đạt trên không có sự khác biệt lớn. Theo đó, một hoạt
động được coi là đầu tư phải đảm bảo các đặc trưng là:
- Sử dụng vốn vào việc phát triển kinh tế - xã hội;
- Có tính sinh lợi
- Với thời gian kéo dài
4
- Nhằm mục đích thu lại khoản tiền (hoặc mục đích xã hội)
lớn hơn;
- Là hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có thể là
tiền tệ, là tư liệu sản xuất, là tài nguyên, hoặc sức lao động, hoặc các dạng vật
chất khác như: công nghệ thông tin, nhãn hiệu, bằng phát minh, biểu tượng,
uy tín hàng hóa và các phương tiện đặc biệt khác như cổ phiếu, hối phiếu,
vàng bạc đá quý v.v...
Như vậy có thể nói khái quát: đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc
sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư có thể được phân ra
nhiều loại tuỳ theo giác độ nghiên cứu. Đầu tư có thể được phân loại theo
những tiêu thức chính sau đây:
- Phân loại theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào
đối tượng mà mình bỏ vốn:
+ Phân loại theo mục tiêu đầu tư;
+ Phân loại theo nội dung kinh tế;
+ Phân loại theo thời gian sử dụng;
+ Phân loại theo lĩnh vực đầu tư;
- Phân loại theo nội dung nghiên cứu: đầu tư được chia thành 3 loại:
+ Đầu tư vào lực lượng lao động: nhằm mục đích tăng về lượng và chất,
là các yếu tố quan trọng nhất của quá trình kinh doanh. Đó là sức lao động,

thông qua tuyển mộ, thuê mướn và đào tạo chuyên gia, cán bộ quản lý và công
nhân.
+ Đầu tư vào tài sản lưu động: nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục
nhịp nhàng của quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là tư liệu sản xuất giá trị
nhỏ, nguyên vật liệu, tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Đầu tư xây dựng cơ bản: nhằm tạo ra hoặc nâng cao mức độ hiện đại
tài sản cố định của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng mới nhà xưởng,
5
các công trình hạ tầng và đầu tư cho thiết bị máy móc, công nghệ bằng phát
minh, mua bản quyền, bí quyết công nghệ. Đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai
trò quyết định, gắn liền với việc nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đòi hỏi một khoản vốn lớn và cần được tính toán một cách
chuẩn xác, nếu không sẽ dẫn đến sự lãng phí tiền của rất lớn.
- Phân loại theo mục tiêu đầu tư: theo tiêu thức này đầu tư được chia
thành:
+ Đầu tư mới - Là hình thức đầu tư đưa toàn bộ vốn đầu tư vào xây
dựng một đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân riêng.
+ Đầu tư mở rộng - Là hình thức đầu tư nhằm mở rộng công trình cũ
đang hoạt động để nâng cao công suất của công trình cũ hoặc tăng thêm mặt
hàng, tăng thêm khả năng phục vụ cho nhiều loại đối tượng so với nhiệm vụ
ban đầu. Đầu tư này gắn liền với việc mua sắm thiết bị mới, xây dựng các
phân xưởng mới hoặc mở rộng các phân xưởng chính hiện có, xây dựng thêm
các công trình phụ trợ và phục vụ mới.
+ Đầu tư cải tạo công trình đang hoạt động: đầu tư này gắn với việc
trang bị lại và tổ chức lại toàn bộ hoạt động hay một bộ phận doanh nghiệp
đang hoạt động, được thực hiện theo một thiết kế duy nhất, không bao gồm
việc xây dựng mới hay mở rộng các bộ phận sản xuất chính đang hoạt động
hoặc có thể là xây dựng mới hoặc mở rộng các công trình phục vụ hay phụ
trợ.
+ Đầu tư hiện đại hóa công trình đang sử dụng: gồm các đầu tư nhằm

thay đổi cải tiến các thiết bị công nghệ và các thiết bị khác đã bị hao mòn cả
hữu hình và vô hình trên cơ sở kỹ thuật mới, nhằm nâng cao các thông số kỹ
thuật của các thiết bị đó. Việc hiện đại hóa có thể tiến hành một cách độc lập,
hoặc tiến hành đồng thời với việc cải tạo. Thông thường hiện đại hóa và cải
6
tạo tiến hành đồng thời. Vì vậy tính toán đầu tư thường chỉ xem trong 3
trường hợp: đầu tư mới, đầu tư mở rộng và đầu tư cải tạo, hiện đại hóa.
- Phân loại theo thời gian (hoạt động) sử dụng: theo tiêu thức
này đầu tư chia thành 3 loại:
+ Đầu tư ngắn hạn,
+ Đầu tư trung hạn,
+ Đầu tư dài hạn,
- Phân loại theo lĩnh vực hoạt động : theo tiêu thức này đầu tư
được chia thành: đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đầu tư cho sản xuất,
đầu tư cho quản lý.
- Phân loại đầu tư theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư
vào đối tượng mà mình bỏ vốn: theo tiêu thức này đầu tư chia thành:
+ Đầu tư gián tiếp: là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn
không phải là một. Loại đầu tư này còn được gọi là đầu tư tài chính vì đầu tư
này được thực hiện bằng cách mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, chứng
khoán, trái khoán... để được hưởng lợi tức. Với phương thức này, người bỏ
vốn không trực tiếp tham gia quản lý các công cuộc kinh doanh. Trong đầu tư
gián tiếp có thể thực hiện theo cách cho vay dài hạn. Cho vay dài hạn (tín
dụng): là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay kiếm lời qua lãi suất tiền cho
vay.
+ Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn và người sử
dụng vốn là một chủ thể, là người đầu tư đồng thời là người quản lý đầu tư.
Trong đầu tư trực tiếp, người có vốn có thể bỏ vốn vào để làm tăng thêm năng
lực sản xuất hoặc tạo ra những năng lực sản xuất mới, song cũng có thể mua
lại một số cổ phần để hy vọng thu được lợi tức cổ phần.

Trong đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn ra có thể là người trong nước và
cũng có thể là người nước ngoài và đều được luật pháp của nước chủ nhà cho
7
phép. Trong trường hợp người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu
tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là dạng đầu tư trực tiếp do nguồn
vốn từ bên ngoài; chủ thể của nó là tư nhân hay Nhà nước, hoặc các Tổ chức
quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những
lĩnh vực nào đó của một nước nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định.
Nếu đầu tư trực tiếp bằng vốn trong nước (vốn của nhà nước, vốn của tư
nhân...) thì phải tuân theo các luật lệ hiện hành về đầu tư của Nhà nước, trong đó
đáng chú ý nhất và cũng phức tạp nhất là các luật lệ về đầu tư xây dựng cơ bản.
Đầu tư trực tiếp lại được chia thành:
+ Đầu tư dịch chuyển: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn mua
lại một số cổ phần đủ lớn để nắm được quyền chi phối hoạt động của doanh
nghiệp. Trong hình thức đầu tư này chỉ có sự thay đổi về quyền sở hữu tài sản
được dịch chuyển từ tay người này sang tay người khác, không có sự gia tăng
tài sản của các doanh nghiệp.
+ Đầu tư phát triển: là hình thức đầu tư trong đó tạo dựng nên những
năng lực mới (về lượng hay về chất) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ để
làm phương tiện sinh lời. Đầu tư phát triển còn gọi là đầu tư xây dựng cơ bản;
nó bao gồm các hình thức đầu tư xây dựng mới, mở rộng cải tạo và hiện đại
hóa cơ sở sẵn có. Nó là biểu hiện cụ thể của tái sản xuất mở rộng, là biện
pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để đầu tư
tài chính và đầu tư dịch chuyển.
1.2-/ Sự hợp tác đầu tư quốc tế và việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
1.2.1-/ Khái niệm và ý nghĩa.
Như trên đã phân tích, vốn đầu tư là một yếu tố cần thiết cho việc mở
rộng quy mô và đổi mới kỹ thuật của hoạt động kinh tế - xã hội. Thực tế cho
thấy tất cả các quốc gia đang phát triển đều thiếu và cần vốn đầu tư. Không có

8
một nước nào có thể vươn lên mạnh, nếu không thu hút được vốn đầu tư của
nước ngoài, bởi vì nếu không có nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao thì không thể
khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước. Sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa
hai bên và nhiều bên là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường
việc quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, tuy rằng trên thực tế kẻ mạnh vẫn tìm
cách thu được nhiều lợi ích hơn. Sự thật là nhiều quốc gia đã từng rất dè dặt
trong việc mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài, nhưng cho đến những năm gần
đây cũng lần lượt ban hành các luật lệ thích hợp để mở rộng quy mô và nâng cao
tốc độ thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Sự hợp tác đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế, trong đó hai
nước hay nhiều nước thỏa thuận cùng nhau góp vốn(thuộc sở hữu Nhà
nước, sở hữu tư nhân hay sở hữu hỗn hợp) để đầu tư vào việc xây dựng
các công trình mới, hiện đại hóa và mở rộng các xí nghiệp hiện có, nhằm
đem lại lợi ích cho cả các bên.
Dĩ nhiên quá trình hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa
đựng những sự đấu tranh không kém phần gay gắt. Song dù sao thì trong sự
hợp tác đầu tư, lợi ích của các bên tham gia cũng khá gắn liền với nhau. Nhận
thức rõ tính chất của xu hướng này và sử dụng nó một cách khôn ngoan là
một trong những sự bảo đảm cho thành công của con đường phát triển trong
giai đoạn hiện nay của mỗi nước.
Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, các nước đang phát triển không
những chỉ nhằm nhận được vốn khi đang thiếu mà còn nhằm các mục đích
khác để phát triển kinh tế lâu dài, vững chắc bằng thu hút công nghệ mới, giải
quyết công ăn việc làm, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nhanh chóng
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, cải thiện cơ cấu nền kinh tế của mình lên hiện
đại và tiến bộ.
Đối với những nước đang phát triển thì phổ biến là cần thu hút vốn đầu
tư của các nước ngoài trên quy mô lớn. Đây là một giải pháp có ý nghĩa sâu
9

sắc nhằm thúc đẩy sự phát triển để hình thành các khu vực có công nghệ cao
cũng như để biến đổi căn bản cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên để
đạt được các mục đích trên đây không phải dễ dàng, lúc nào cũng suôn sẻ, trái
lại các nước đang phát tiển cần tìm cho mình các chủ trương thích hợp, các
biện pháp khôn khéo, thu hút được vốn đầu tư vào các ngành và các lĩnh vực
cần thiết tạo thuận lợi cho mình hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Cần nhận rõ hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, có
thể xảy ra khác nhau. Chẳng hạn, khi nhận vốn đầu tư của nước ngoài sẽ phát
sinh nợ nước ngoài, nhất là khi nhận đầu tư gián tiếp dưới hình thức tín dụng.
Trên thực tế đã có những nước chịu gánh nặng nợ nần rất lớn do việc thu hút
vốn đầu tư của nước ngoài, mặc dù không phải mọi gánh nặng nợ nần đều là
do việc thu hút vốn đầu tư cả. Cũng có không ít trường hợp việc nhận đầu tư
đi liền với sự du nhập những công nghệ thứ yếu, công nghệ phế thải mang
theo chất thải ô nhiễm. Mặt khác, có thể còn chịu ảnh hưởng ý đồ của người
đầu tư trong việc xác lập cơ cấu kinh tế, trong việc sử dụng sức lao động và
tài nguyên và sẽ đưa đến tình trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng
trong nước tạo ra sự phân hóa giữa các tầng lớp dân cư. Đành rằng các nước
đang phát triển phải chấp nhận có sự phân hóa đó, nhưng có mức giới hạn. Rõ
ràng đây là lĩnh vực đa dạng và phức tạp, luôn luôn có sự đấu tranh giữa các
lợi ích với nhiều phương sách và thủ đoạn khác nhau, mặc dù chính sự phát
triển về hợp tác và đầu tư lại là một xu hướng khách quan. Vấn đề là phải tính
toán chu đáo về các mặt kinh tế, kỹ thuật và xã hội của từng dự án cũng như
toàn bộ chương trình hợp tác đầu tư với nước ngoài để khai thác triệt để các
mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực có thể xảy ra.
1.2.2-/ Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong sự hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau.
Vốn của các Chính phủ và của các Tổ chức quốc tế có thể là viện trợ không
hoàn lại, vốn cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, cho vay với lãi suất thông
10
thường. Vốn của các tổ chức xã hội (các tổ chức phi Chính phủ) thường là các

khoản tiền viện trợ mang tính chất nhân đạo cho các hoạt động y tế, giáo dục,
khắc phục hậu quả thiên tai và nói chung là nó được tính riêng và không phụ
thuộc vào vốn hợp tác đầu tư. Tư nhân gồm người nước ngoài và người
Campuchia ở nước ngoài cũng góp vốn để đầu tư trực tiếp vào một dự án cụ
thể.
Trong sự hợp tác đầu tư quốc tế, để phục vụ cho việc quản lý và sử dụng
vốn, người ta thường chia ra hai loại hình là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
1.2.2.1. Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là những khoản đầu tư được thực hiện
thông qua các hoạt động cho vay và viện trợ mà nguồn vốn thường là của các
Chính phủ và của các Tổ chức quốc tế. Một bộ phận đáng kể của đầu tư gián
tiếp là các khoản tài trợ phát triển chính thức như ODA (Official
Development Assistance) do các Tổ chức Liên Hiệp Quốc như UNDP, FAO,
UNICEF, UNFPA..., các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ đóng góp. Phần
quan trọng hơn đó là các khoản cho vay của Chính phủ các nước và của các
Tổ chức kinh tế khác (như IMF, WB, ADB...) tiến hành.
Đặc điểm của vốn đầu tư gián tiếp là vốn thường đi kèm với các điều
kiện ưu đãi và các điều kiện khác, cho nên có thể tập trung vào các dự án có
mức vốn đầu tư tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn tương đối dài, chẳng hạn
như các dự án về năng lượng, giao thông vận tải hay xây dựng các yếu tố kết
cấu hạ tầng khác. Chính vì vậy mà đầu tư gián tiếp có tác dụng thúc đẩy,
khuyến khích và tạo điều kiện cho việc thu hút đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên loại
hình đầu tư này cũng có những sự hạn chế nhất định, vì nó gắn chặt với thái
độ chính trị của các Chính phủ nước ngoài và của các Tổ chức kinh tế quốc tế.
Mặt khác, đầu tư gián tiếp là cho vay, nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó phụ
thuộc vào cơ chế quản lý và trình độ tổ chức kinh doanh của chủ nhà và thực
tế thì hiệu quả này đạt được thường không cao như mong muốn.
11
1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là những khoản đầu tư do các tổ chức kinh

doanh và cá nhân người nước ngoài đưa vào một nước để sản xuất kinh doanh
hoặc liên doanh với tổ chức và cá nhân trong nước theo quy định của luật đầu
tư nước ngoài của nước sở tại. Để hiểu rõ hơn chúng ta có thể căn cứ vào mấy
khía cạnh:
- Một là, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà
cùng với vốn có thể có cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, sản xuất
kinh doanh, năng lực marketing. Chủ đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư là đã tiến
hành tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra phải được tiêu thụ ở thị
trường nước chủ nhà hoặc thị trường lân cận. Do vậy phải đầu tư kỹ thuật
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
- Hai là, việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài không gây nên tình
trạng nợ nần cho nước chủ nhà, trái lại nước chủ nhà còn có điều kiện để phát
triển tiềm năng trong nước.
- Ba là, chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty
xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm tới 90% khối lượng đầu tư trực tiếp
nước ngoài của thế giới.
- Bốn là, đầu tư nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức, song những
hình thức cơ bản là chủ đầu tư bỏ vốn vào thành lập xí nghiệp 100% vốn của
mình, mua lại toàn bộ hoặc một phần xí nghiệp của nước chủ nhà, cùng góp
vốn với các đối tác nước chủ nhà với những tỷ lệ khác nhau để cùng thành lập
xí nghiệp liên doanh, bỏ vốn xây dựng công trường vận hành. Sau một thời
gian hoạt động quy định có thể chuyển giao cho nước chủ nhà nếu đó là hợp
đồng dạng “xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build-Operate-Transfer -
BOT)”.
12
Mỗi hình thức nêu trên đây đều có những ưu điểm và nhược điểm khác
nhau. Ở thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời
tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là
những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các
nước Châu Á để khai thác đồn điền, khai thác khoáng sản nhằm cung cấp

nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản
bước sang giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự kiện “Công xã Pari” thì hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to
lớn hơn. Ở đây các công ty tư bản đã thực hiện việc đầu tư vào các yếu tố tư
bản bất biến (C), tư bản khả biến (V) trong đó xây dựng kết cấu hạ tầng tối
thiểu để thực hiện có hiệu quả quá trình khai thác các tài nguyên trong lòng
đất để đưa về chính quốc. Trong ngành khai khoáng phải kể đến các công ty
dầu mỏ như Royal Deutch Shell, BP, EXXON, Mobil oil, Gulf oil... của Anh,
Hà Lan, Mỹ và chúng thực hiện từ lâu quá trình đầu tư trực tiếp vào các nước
ở Châu Á, Mỹ La Tinh, Châu Phi... để khai thác nguồn tài nguyên này.
Từ sau chiến tranh thế giới 2, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự thay
đổi rõ rệt với sự đầu tư ồ ạt của các nhà đầu tư Mỹ vào Châu Âu theo kế hoạch
Marshall (1945 - 1948) để vực dậy phần lục địa bị chiến tranh tàn phá nặng nề
này. Và sau đó là sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước Châu Âu thực hiện sự liên
minh tư bản để tăng cường khả năng kinh tế chống độc quyền của các xí nghiệp
ở Mỹ. Cũng từ đó việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trở nên thưòng xuyên hơn và
nó được sử dụng phối hợp với các hình thức xuất khẩu tư bản khác, trở thành vũ
khí lợi hại của các nước phương Tây trong việc thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới, nhất là đối với các nước thuộc địa hoặc các nước đang phát triển.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu trong điều
kiện quốc tế hoá sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói
trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển
theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa, lại không
13
cần đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và coi đó là nguồn lực quốc tế cần
khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Mặt khác dưới tác
động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ như hiện nay, ngay cả
những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật như Mỹ, Nhật và các nước
cộng đồng Châu Âu (EU) cũng không thể tự mình giải quyết có hiệu quả tất
cả những vấn đề đã, đang và tiếp tục đặt ra trên lĩnh vực khoa học công nghệ

và vốn. Do vậy chỉ có con đường hợp tác, trong đó đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một loại hình đầu tư hợp tác mới đưa lại hiệu quả mong muốn. Do
vậy, trên thực tế không một nước nào lại bỏ qua hình thức đầu tư này.
Nhìn chung đầu tư trực tiếp có những đặc trưng và thế mạnh riêng. Thứ
nhất, đầu tư trực tiếp, mặc dù vẫn chịu sự chi phối của chính phủ, nhưng có
phần ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên hơn là so với đầu tư
gián tiếp.Thứ hai, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất- kinh
doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong tiếp cận thị
trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Thứ ba, với quyền lợi gắn chặt với dự
án, người nước ngoài quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, nên thường lựa chọn
công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý và tay nghề của công
nhân. Song cũng phải thấy rõ hoạt động đầu tư trực tiếp diễn ra theo cơ chế
thị trường trong khi người đầu tư nước ngoài có nhiều kinh nghiệm, sành sỏi
trong việc ký kết hợp đồng, còn phía chủ nhà thì lại thiếu kinh nghiệm, kém
sành sỏi trong việc ký kết hợp đồng đó, nên phía chủ nhà không hoàn toàn
chủ động trong việc bố trí đầu tư theo ngành cũng như vùng lãnh thổ hoặc bị
sơ hở gây nên thiệt hại cho mình.
1.2.2.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong đời sống kinh tế quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò
quan trọng to lớn, thể hiện như sau:
1.2.2.3.1) Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn đầu tư phát triển kinh tế
14
Đối với tất cả các nước, kể cả các nước phát triển và các nước đang
phát triển luôn cần vốn đầu tư vì thường trong nước không đủ vốn phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc:
- Bù đắp vốn thiếu hụt cho đầu tư do khả năng tích luỹ vốn trong nước
bị giới hạn;
- Cần cải thiện cán cân thương mại;
- Cải thiện mức thâm hụt ngân sách của chính phủ.
Dòng vốn được tạo ra từ đầu tư trực tiếp nước ngoài rất đa dạng, nhưng

chủ yếu là thông qua các hình thức liên doanh và thành lập các công ty 100%
vốn nước ngoài. Theo nghiên cứu gần đây của UNCTAD
1
, đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã đóng góp phần đáng kể vào nguồn vốn đầu tư tại các nước. Kết
quả của công trình nghiên cứu này cho biết: thông qua tỷ trọng của đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong tổng số vốn đầu tư cơ bản trong các nước cho thấy
rõ sự gia tăng đáng kể của dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào cả các
nước phát triển và các nước đang phát triển ở thập kỷ 80.
1
UNCTAD - United Nations Conference on Trade and Development (Hội nghị Liên Hợp Quốc về
thương mại và phát triển).
15
BNG 1 - DềNG U T TRC TIP NC NGOI VO CC NC PHT
TRIN V CC NC ANG PHT TRIN
n v tớnh: %
Cỏc nc c la chn 1971 - 1975 1976 - 1980 1981 - 1985 1986 - 1990 1991 - 1998
1. Cỏc nc phỏt trin
- EC - B 7,1 5,8 7,6 16,0 15,2
- í 1,8 0,8 1,1 2,0 2,0
- H Lan 6,1 4,5 6,1 12,3 11,3
- Anh Quc 7,3 8,4 5,4 14,4 12,2
- M 0,9 2,0 3,0 5,6 7,8
- Nht Bn 0,1 0,05 0,1 0,1 1
2. Cỏc nc ang phỏt trin
- Malaysia 15,2 11,9 10,8 9,7 8,5
- Thỏi Lan 3,0 1,5 3,1 6,3 5,1
- Hn Quc 1,9 0,4 0,5 1,1 0,6
- Singapore 15,0 16,6 17,4 29,4 20,7
3. M La Tinh v Chõu Phi

- Mê Hi Cô
3,5 3,6 2,7 7,0 8,5
- Brazil
4,2 3,9 1,3 1,7 7,1
Nguồn: Báo cáo của UNCTAD năm 1998.
Xu hớng gia tăng của đầu t trực tiếp nớc ngoài quốc tế từ 1971 đến năm
1988 so với tốc độ trung bình hàng năm từ 1960 - 1973 đạt 12,6%. Từ giữa
những năm 1970, đầu t quốc tế tăng với tốc độ cao hơn, đạt mức cao nhất vào
năm 1981 và thấp nhất vào năm 1985. Tỷ trọng của đầu t trực tiếp nớc ngoài
trong tổng số vốn thuần tuý vào các nớc đang phát triển đạt 12% năm 1987 và
16
37% vào năm 1994 (theo UNCTAD 1995). Luồng đầu t trực tiếp nớc ngoài chảy
vào các nớc đang phát triển trong năm 1988 khoảng 30 tỷ USD, tăng lên 35,9 tỷ
USD vào năm 1991 (xem bảng số 2 ở phụ lục).
Bảng 2 cho biết sự phân bố của FDI vào các nớc đang phát triển và các
nền kinh tế chuyển đổi. Theo tính toán của ngân hàng thế giới, FDI chảy vào
Trung Quốc chiếm một tỷ trọng khá lớn, đạt 33,8 tỷ USD năm 1994. Trong khi
đó, FDI chảy vào các quốc gia độc lập và Trung Đông Âu cùng năm chỉ đạt có
15 tỷ USD, bằng tổng FDI của Thái Lan và Malaysia.
BNG 2 - LUNG FDI CHY VO CC NC ANG PHT TRIN V CC NN
KINH T CHUYN I PHN THEO KHU VC
n v tớnh: % ca th gii
Khu vc T trng FDI
Nam ỏ 7
Chõu M La Tinh v vựng Caribe 26
Sahara Chõu Phi 9
Trung ụng v Bc Phi 9
Trung ụng u, cỏc quc gia c lp 15
Trung Quc 13
Cỏc nc khu vc ụng ỏ khỏc 21

Tổng số: 100
Nguồn: Báo cáo phát triển ngân hàng thế giới năm 1996. Trong đó tổng
FDI từ 1990 - 1995 là 1.640 tỷ USD.
Sự tăng trởng kinh tế nhanh và ổn định của các nền kinh tế ASEAN trên
hai thập kỷ qua đã cho thấy chiến lợc hớng ngoại mà các nớc này theo đuổi
(bao gồm chính sách ngoại thơng, chính sách đầu t rất cởi mở) đã góp phần
đáng kể vào thành tựu kinh tế mà các nớc đạt đợc. Thực hiện các chính sách
khuyến khích FDI không những giúp các nớc này huy động đợc lợng vốn cho
phát triển mà còn thu đợc nhiều lợi ích khác nh chuyển giao công nghệ, nâng
17
cao kỹ năng cho ngời lao động, sử dụng tốt hơn các nguồn vốn khan hiếm và
tăng khả năng tiếp cận với thị trờng xuất khẩu và hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Theo bảng 3 và 4, luồng FDI vào các nớc đang phát triển có chiều hớng
tăng dần từ những năm 80, nhng chảy vào các nớc phát triển lại giảm đi đáng
kể.
BNG 3 - U T TRC TIP NC NGOI CA CNG NG CHU U V
CC NC KHC VO ASEAN, 1987
Tờn nc
Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thỏi Lan
Triu
USD
%
Triu
USD
%
Triu
USD
%
Triu
USD

%
Triu
USD
%
EC 92,1 26 25,6 24 23,4 21 114,4 24 38,5 98
Anh 46,1 13 10,4 10 10,2 9 20,1 4 12,8 32
c 16,5 5 4,0 4 0,7 1 42,9 9 17,4 44
H Lan 23,3 6 8,0 7 33,7 7 2,9 7
M 153,8 43 24,3 23 36,0 33 258,1 54 30,8 78
Hng Kụng 9,6 3 11,0 10 27,7 25 -66,9 -170
Cỏc nc
kh
ỏc
17,3 5 31,1 29 3,1 3 8,4 2 3,9 11
Tng s 358,7 100 106,4 100 109,1 100 477,6 100 39,4 100
Ngu n: Bỏo cỏo hng nm ca ngõn hng Indonesia 1986/1987;
FDI vo ASEAN, 1990. Bỏo cỏo hng nm ca ban phỏt trin
kinh t 1987/1988.
18
BẢNG 4 -
DÒNG FDI RA VÀ VÀO CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀCÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN GIAI ĐOẠN 1987 - 1992
Đơn vị tính: tỷ USD
1987 1988 1989 1990 1991 1992
Các nước phát triển
Dòng vào 109 132 167 172 108 86
Dòng ra 132 162 203 225 177 145
Các nước đang phát triển
Dòng vào 25 30 29 31 39 40
Dòng ra 2 6 10 9 5 5

Tất cả các nuớc
Dòng vào 134 162 196 203 147 126
Dòng ra 134 168 213 234 182 150
Ngu ồn : UNCTAD; Báo cáo đầu tư thế giới 1993: tính toán sơ bộ.
1.2.2.3.2) Chuyển giao công nghệ
Một trong những vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp FDI là chuyển
giao công nghệ mang một hàm ý rộng, bao gồm không chỉ từ nhập khẩu công
nghệ đơn thuần mà còn vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm
vững các nguyên lý, mô phỏng và phát triển nó.
Những hoạt động được coi là chuyển giao công nghệ thường
được thực hiện như:
- Chuyển giao quyền sở hữu hoặc sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích
hoặc các đối tượng sở hữu công nghệ khác;
- Chuyển giao các bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn dưới
dạng phương án công nghệ, tài liệu thực tế, công thức thông số kỹ thuật kèm
theo hoặc không kèm theo thiết bị.
19
- Cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn công nghệ kể cả đào tạo và thông tin
v.v...
Các phương thức chuyển giao công nghệ hết sức đa dạng và không
đồng nhất. Chẳng hạn, thông qua các hiệp định về cấp bằng sáng chế, viện trợ
kỹ thuật, nhập khẩu trang thiết bị chuyên dụng đi cùng với FDI, trong đó FDI
chiếm một tỷ trọng lớn. Thông qua các hình thức của FDI, giữa các nước đã
có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Đối với các
nước đang phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu, thấp kém thì FDI được coi
là một phương tiện hữu hiệu để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên
ngoài. Hầu hết các nước đều đạt được mục tiêu này với các mức độ khác
nhau, ở các lĩnh vực khác nhau. Đối với các nước phát triển thì FDI thường
giúp bổ sung và hoàn thiện công nghệ. Thông qua FDI, các nước phát triển có

điều kiện để thực hiện xuất khẩu trung gian và truyền thống, hoặc chuyển
giao công nghệ đã có phần lạc hậu so với trong nước.
Các hình thức chuyển giao công nghệ thường có lợi cho cả hai bên: bên
chuyển giao và bên nhận công nghệ. Qua đó, các kinh nghiệm sản xuất tiên
tiến, các bằng sáng chế, các bí quyết về kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá mới,
kiểu dạng công nghiệp đã được chuyển giao giữa các bên. Phần lớn các nước
đang phát triển có nhu cầu đổi mới về công nghệ và do đó đã có những biện
pháp và chính sách cởi mở nhằm đẩy mạnh FDI và muốn nhập những ngành
công nghiệp mới với công nghệ mới, tiên tiến. Nhiều nước đã rất thành công
trong việc chuyển giao và du nhập những công nghệ mới, lấy đó làm cơ sở và
tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo về công nghệ (như Nhật bản, Hàn
Quốc), nhưng cũng có nước chưa thật thành công về lĩnh vực này.
Một vấn đề quan trọng của FDI liên quan đến chuyển giao công nghệ là
FDI d8iẫn đến thay đổi về cơ cấu ngành trong nội bộ nền kinh tế của mỗi
nước. Chẳng hạn, các nước công nghiệp mới (New Industrialized Countries-
NICs) chuyển sang sản xuất hàng hoá xuất khẩu trong những năm 1970. Cùng
20
thời gian đó, Nhật Bản chuyển sang đầu tư nhiều hơn vào các ngành công
nghiệp chế tạo và dịch vụ, giảm dần đầu tư vào khai thác tài nguyên và cơ sở
hạ tầng. Tại Việt Nam, sau khi luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987, một
loạt các dự án đã thực hiện và đã xuất hiện một số ngành hoàn toàn mới như
ngành điện tử, lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy.
Ngoài ảnh hưởng đến cơ cấu công nghiệp, FDI còn có tác động tích cực
đến cán cân thương mại của các nước.
Ví dụ: trong năm 1975, có khoảng 70% hàng chế tạo và 84% tổng giá
trị xuất khẩu của Singapore được tạo ra từ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Các nhà hoạch định chính sách của Singapore cho rằng, nước này có
thể đạt được tốc độ tăng trưởng thực tế 8 - 10% trong những năm 1980 trên
cơ sở tăng năng suất lao động 6 - 8% bằng cách nỗ lực tiếp thu và ứng dụng
các công nghệ mới thông qua đầu tư cho nguồn nhân lực, tăng cường cơ giới

hoá, tự động hoá và tin học hoá. Ở Hàn Quốc, năm 1978 có khoảng 19,5%
sản lượng công nghiệp chế tạo và 22,7% giá trị xuất khẩu là do chi nhánh của
các công ty đa quốc gia nước ngoài tạo ra. Một đặc điểm của các nước ở Châu
Á là: thông qua FDI để có được các công nghệ mới cho sản xuất hàng hoá
dịch vụ trong nước và xuất khẩu. Qúa trình này diễn ra khác với các nước
phát triển, ở đó sản xuất hàng hoá có giá trị cao cho xuất khẩu thu được bằng
cách sử dụng các yếu tố đầu tư vào nước ngoài. Các nước công nghiệp mới ở
Châu Á ngày càng tăng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu do lắp ráp các máy móc
hoặc các thiết bị từ phụ tùng, linh kiện nhập khẩu (bảng 5).
BẢNG 5 - TỶ LỆ XUẤT KHẨU SO VỚI TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN Ở MỘT SỐ
NƯỚC CHÂU Á NĂM 1988
Đơn vị tính: %
Hàn Quốc 40,4
Đài Loan 49,0
Thái Lan 29,0
21
Malaysia 66,8
Ngu ồn: Thông báo của Uỷ ban Đầu tư của Thái Lan 1988.
Ở các nước phát triển, thông qua FDI có thể tạo ra các ngành công
nghiệp mới. Chẳng hạn, tập đoàn General Motors (Mỹ) đã liên doanh với 6
công ty hoạt động trên lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị nhằm tiếp thu công
nghệ của ngành sản xuất này. Công ty Motorola chấp thuận chuyển giao công
nghệ chất bán dẫn cho Toshiba (Nhật Bản) và Toshiba đã giúp công ty này
thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản.
1.2.2.3.3) Chuyển giao kinh nghiệm và kỹ năng quản lý
Thông qua xí nghiệp liên doanh, các nước đã tạo ra môi trường và điều
kiện tốt để tiếp thu những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, bồi dưỡng cho
cán bộ quản lý và nhân viên những kỹ năng quản lý tiên tiến, kinh nghiệm
xây dựng, đánh giá dự án, kinh nghiệm điều hành xí nghiệp, quản lý tài chính,
kế toán, quản lý công nghệ, kinh nghiệm nghiên cứu thị trường, nghệ thuật

tiếp thị, thông tin quảng cáo, chào hàng, tổ chức mạng lưới dịch vụ v.v... Khi
làm việc trong các công ty có vốn nước ngoài, đội ngũ cán bộ quản lý được
đào tạo bồi dưỡng qua các khoá học ngắn hạn do các công ty nước ngoài tổ
chức. Nhờ vậy mà tiếp cận được với những phương pháp, kỹ năng quản lý
mới, tiếp thu và nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu mới của các nước
ngoài và làm việc có hiệu quả hơn. Đối với các nước phát triển, thông qua
FDI các nhà quản lý các công ty đa và xuyên quốc gia cũng tiếp thu được
những công nghệ mới, nâng cao được trình độ trong việc quản lý được các
ngành công nghiệp mới, các lĩnh vực sản xuất mới mà công ty hoặc một nước
có được thông qua FDI. Theo điều tra của 112 hàng xuất khẩu của Hàn Quốc
cho thấy những kinh nghiệm mà các cá nhân thu được thông qua việc đi làm ở
nước ngoài trước đây được xem là quan trọng hơn việc được cấp bằng sáng
chế và viện trợ kỹ thuật. Một trong những thành công của Nhật Bản là khả
22
năng tiếp thu công nghệ, mô phỏng công nghệ của các nước tiên tiến, trong đó
có phần tiếp thu kỹ năng, quản lý công nghệ v.v... của các chuyên gia Nhật
Bản thông qua các hình thức FDI, hoặc của các công ty nước ngoài hoạt động
trên đất Nhật Bản hay các công ty Nhật Bản ở nước ngoài. Theo Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and
Development - OECD) 1982, thì các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số
nước đã rất thành công trong việc mô phỏng và phát triển hơn nữa công nghệ
nhập khẩu thông qua chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng quản lý từ
FDI.
1.2.2.3.4) Khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên tốt hơn, tạo
việc làm và thu nhập cho người lao động
Mục tiêu đầu tư ở nước ngoài của các công ty đa và xuyên quốc gia là
thu lợi nhuận và tìm thị trường mới, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh
của công ty trên thị trường quốc tế. Các công ty này thường có tiềm năng về
vốn và muốn thâm nhập vào thị trường các nước có nguồn nguyên vật liệu dồi
dào, có thị trường tiêu thụ hoặc sản xuất cho xuất khẩu. Họ đặc biệt chú trọng

đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước đang phát triển. Ở các nước
này thường thừa lao động, trình độ lao động thấp, giá lao động rẻ. Do vậy, FDI
là một trong những phương tiện để các nước đang phát triển giải quyết lao
động thừa. Đối với các nước công nghiệp mới ở Châu Á và các nền kinh tế
chuyển đổi, nhà nước tập trung xây dựng và khai thác ngành công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, khác với nước phát triển là sản
xuất hàng xuất khẩu bằng việc tập trung vốn. Chính sách này khá thành công ở
một số nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc v.v... Các ngành sản xuất
hàng xuất khẩu đều được xây dựng trên cơ sở FDI và tạo ra một số lượng việc
làm lớn cho nền kinh tế. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam
năm 1996 dự tính dự án FDI được thực hiện ở Việt Nam từ 1988 đến 1995 đã
tạo thêm được 90.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 100.000 chỗ làm việc
23
gián tiếp. Bảng 6 cho biết số việc làm được tạo ra trong năm 1988 ở Thái Lan
do FDI từ các nước đầu tư chính là Nhật Bản, Mỹ, Anh, Đài Loan và Hồng
Kông đầu tư vào. Nói chung, số việc làm mà do FDI tạo ra tại các nước
ASEAN có tỷ lệ trung bình cao hơn các nước đang phát triển khác. Theo báo
cáo của ngân hàng thế giới năm 1987, trong khi ở các nước đang phát triển chỉ
có 1% dân số ở độ tuổi lao động có việc làm do các công ty đa quốc gia tạo ra
thì ở các nước ASEAN tỷ lệ này lớn hơn nhiều: 6,8% ở Indonesia (1977); 5,9%
ở Malaysia (1975); 8,6% ở Philippines (1976) và 54,6% ở Singapore (1982).
BẢNG 6 - ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ SỐ VIỆC LÀM ĐƯỢC TẠO RA
TRONG NĂM 1988 -TRƯỜNG HỢP THÁI LAN
Tên nước Số các dự án Tổng việc làm
Nhật Bản 264 69.108
Mỹ 104 37.202
Anh 43 9.189
Đài Loan 30 75.671
Hồng Kông 86 32.784
Ngu ồn : Thông báo của Ủy ban Đầu tư của Thái Lan 1988.

Song song với việc tạo thêm việc làm và tạo thêm thu nhập cho người
lao động, FDI góp một phần quan trọng vào đào tạo đội ngũ công nhân, giúp
đội ngũ này có được cơ hội tiếp cận với kỹ thuật công nghệ mới và được đào
tạo về kỹ năng để vận hành máy móc thiết bị. Nhờ có FDI mà trình độ kỹ
năng của người lao động trong các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi đã được nâng cao, rút ngắn khoảng cách về trình độ của người lao
động giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Ngoài các vai trò chính như đã trình bày ở trên, FDI còn đóng góp tích
cực vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế như thông tin liên lạc,
đường xá, kho tàng, bến cảng, sân bay và góp phần vào hiện đại hoá các cơ sở
sản xuất trong nước.
24
Sản phẩm của các hình thức đầu tư nước ngoài thường có chất lượng
cao trên thị trường nội địa và có thể phục vụ thay thế hàng nhập khẩu, đáp
ứng nhu cầu của thị trường trong nước. Hơn nữa, các hình thức đầu tư FDI đã
kích thích thị trường nội địa phát triển, tạo môi trường cạnh tranh trong nước
giữa các nhà kinh doanh.
Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó bao gồm
khung khổ luật pháp và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Quá trình bày trên đây có thể tóm tắt vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài
là:
- Tạo nguồn vốn bổ xung hay phát triển ban đầu cho nền kinh tế của
một nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong nước;
- Ổn định và tạo đà phát triển kinh tế cho nước đó, cải tạo và hoàn thiện
cơ cấu ngành nghề công nghiệp;
- Với các nước đang phát triển, FDI còn tạo điều kiện hoà nhập với nền
kinh tế thế giới;
- Tiếp thu được công nghệ tiên tiến qua đường chuyển giao công nghệ
trong đầu tư (tiếp thu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, thu được các kiến thức
và sáng chế bí quyết kỹ thuật);

-Tạo thuận lợi về thương mại như cải thiện cán cân thương mại, tăng
sản xuất công nghiệp, phát triển dịch vụ;
-Tạo điều kiện phát triển thị trường cũ và tìm thị trường mới;
-Tiếp thu được kinh nghiệm và kỹ năng quản lý kinh tế, khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước....
2-/ NHỮNG XU HƯỚNG CHỦ YẾU VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TRÊN THẾ GIỚI.
2.1./ Luồng vốn đầu tư trực tiếp trên thế giới ngày một gia tăng và chịu
sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển.
25

×