Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Nạo vét Đường biển I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.71 KB, 117 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp luôn có mối
quan tâm hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Tất nhiên họ
còn quan tấm đến nhiều mục đích khác nhau như tạo công ăn việc làm, nâng
cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ với
chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường... Tuy nhiên, một
doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được
hai thử thách sống còn và là hai mục tiêu cơ bản: kinh doanh có lãi và thanh
toán được nợ. Chính vì vậy đã đến lúc họ phải tập trung sự chú ý nhiều hơn
vào việc quản lý và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của
mình. Bởi vì vốn là một trong hai yếu tố quan trọng quyết định sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Do vậy bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát
triển đều phải quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn, quản lý và sử dụngvốn sao
cho có hiệu quả nhất nhằm đem lại lợi nhuận nhiều nhất.
Trước kia trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đại bộ
phận các doanh nghiệp quốc doanh ra đời và hoạt động trong điều kiện nhà
nước giao vốn, bao cấp về giá, sản xuất và tiêu thụ theo đơn đặt hàng của
Nhà nước, lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù... do đó doanh nghiệp chẳng
mấy quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn, thậm chí có doanh nghiệp "lỗ giả
lãi thật" để được nhà nước bù lỗ chênh lệch, chạy đua thành tích. Tình trạng
doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn kém hiệu quả so với các doanh nghiệp
ở các thành phần kinh tế khác biểu hiện rất rõ rệt trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt ngày nay khi mà đất nước ta đang trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN "các DNNN không còn được
bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh với quyền tự chủ đầy đủ,
đảm bảo tự bù đắp chi phí, nộp thuế đầy đủ và có lãi..." Theo tinh thần đó
nhà nước tạo hành lang pháp lý, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
1
Chuyên đề thực tập


gắn với thị trường, bám sát thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh và
về vốn. Bởi vậy một vấn đề nổi lên trong nền kinh tế là phải khai thác được
vốn, bảo toàn và phát triển đồng vốn. Do đó tất cả các quyết định sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp phải được phân tích trên cơ sở hiệu quả đồng
vốn bỏ ra.
Công ty Nạo vét Đường biển I là một trong những Công ty nhà nước
thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển ngành nạo vét theo hướng phát triển
kinh tế đất nước, cung ứng ra thị trường dịch vụ nạo vét, khai thác cảng, sửa
chữa tàu biển, đại lý môi giới và các dịch vụ hàng hải khác với chất lượng
cao. Với nhiệm vụ nặng nề như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trở thành vấn đề thường liên của ban lãnh đạo và toàn bộ cán bộ
công nhân viên. Nếu chúng ta không đề ra những giải pháp kịp thời để nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn thì Công ty sẽ khó đứng vững trong môi trường
cạnh tranh quốc tế. Với tất cả những lý do trên minh chứng cho tính bức
thiết của đề tài: "Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công
ty Nạo vét Đường biển I"
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Từ việc khảo
sát tình hình thực tế của Công ty qua các năm, kết hợp với lý luận kinh tế
mà cụ thể là lý luận về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình
thực tế của Công ty. Và qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn ở Công ty Nạo vét Đường biển I
Với những lý do đó và phương hướng như vậy, luận văn gồm 3 phần như sau:
Ch ương I: Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các
doanh nghiệp sản xuất
Ch ương II: Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Công ty Nạo
vét Đường biển I
Ch ương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
2
Chuyên đề thực tập

Công ty Nạo vét Đường biển I.
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các công ty Việt Nam,
cùng với việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận
và chỉ tiêu đánh giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên
cứu đề tài và mắc những sai sót không tránh khỏi. Vì vậy rất mong sự đóng
góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo -TS.Phan
Thị Nhiệm và các cô chú cán bộ Công ty Nạo vét Đường biển I giúp em
hoàn thành bài luận văn này.
Sinh viên thực hiện: Hồ Thái Sơn
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
3
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. Vốn và vai trò của vốn trong kinh doanh
1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh:
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn
nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây
dựng và khởi động doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và
cần được sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để
đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh
doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác
động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì
hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các
hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban
đầu. Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của
doanh nghiệp có thể diễn tả như sau:

Tài sản thực tế
Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và
sẽ dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều
đó có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm
bảo bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu
không những chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh
doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh doanh đó được gọi
là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất hữu hình,
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
4
Chuyên đề thực tập
mà một số tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng
một giá trị đầu tư nhất định như: tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi
thế thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những
phân tích khái quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một
phạm trù kinh tế cơ bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của
tất cả các loại tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong sản
xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư".
Như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp là hết sức quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu
quả xã hội.
2. Vốn cố định:
Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp
định và vốn điều lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ
hình thành vốn lại thể hiện vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung,
vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là
xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan điểm sử dụng. Với bài

luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về vốn qua con
mắt quản trị vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem xét
trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến
vốn cố định và vốn lưu động.
2.1. Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số
vốn doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố
định phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị
đến một mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc
bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên.
Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
5
Chuyên đề thực tập
thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố
định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và
chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử
dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ
mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình
phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện
ảnh hưởng tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng,
bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc
nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy
thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân
hàng khi vay vốn.
2.2. Cơ cấu vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm
trong tổng số vốn cố định. nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa
quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho

phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý
nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên
hai giác độ: nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so
với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được
một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được
sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong
cơ cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không
ngừng nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành VCĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thành
hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá
trình sản xuất:
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
6
Chuyên đề thực tập
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý
3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải
8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ
ràng cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất
là đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức
độ hoàn thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản
xuất. Vì vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu VCĐ hợp lý cần
chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của

sự phân tích, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận VCĐ được
biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng nhà
xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất.
2.3. Nguồn vốn cố định
Mỗi khoản vốn cố định hay tài sản cố định trong doanh nghiệp không
tự nhiên mà có, nó nhất thiết phải được hình thành từ một nguồn đầu tư nhất
định. Nguồn vốn cố định chính là nguồn gốc tạo dựng, đầu tư để hình thành
nên các tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, VCĐ dùng
để hoạt động sản xuất, kinh doanh được hình thành từ các nguồn sau:
Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp
phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
7
Chuyên đề thực tập
đóng góp bằng tài sản cố định, hoặc vốn pháp định do chủ xí nghiệp bỏ ra
ban đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân.
Nguồn vốn tự bổ xung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã
được đầu tư hoặc mua sắm bằng quỹ công ty.
Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên
kết gặp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn
thành.
3. Vốn lưu động:
3.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu
thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh
nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, VLĐ tham gia hoàn
toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị
khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản

phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình
vận động của VLĐ thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống
trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của VLĐ ở các doanh nghiệp
sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H' - T'
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
8
Chuyên đề thực tập
Trong quá trình vận động, đầu tiên VLĐ biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi
mở cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau
đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và
doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ
các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu
và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
3.2. Cơ cấu vốn lưu động
Xác định cơ cấu VLĐ hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử
dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng
bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý VLĐ. Trên cơ sở đó đáp
ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu
vốn cho sản xuất.
Cơ cấu VLĐ là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với
toàn bộ giá trị VLĐ. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ VLĐ
hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính
nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một

cơ cấu hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh
doanh từng thời kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn
như thế, người ta thường có sự phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác
nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, VLĐ chia thành 3
loại:
+ Vốn trong dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ
tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản
xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự
dùng.
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
9
Chuyên đề thực tập
+ Vốn trong lưu thông: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu
thông như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, VLĐ được chia thành VLĐ không
định mức và VLĐ định mức.
+ VLĐ định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và
vốn phi hàng hoá.
+ VLĐ không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá
trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn
cứ để tính toán được.
3.3. Nguồn vốn lưu động:
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như
tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có
phương cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu
cầu của doanh nghiệp.
- Vốn tự có bao gồm:

+ Nguồn vốn pháp định: chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp
trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã
viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh
nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất
kinh doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và
các khoản chênh lệch hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: gồm có các khoản vốn của các đơn
vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên
vật liệu, công cụ lao động nhỏ v.v...
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
10
Chuyên đề thực tập
- Vốn coi như tự có: được hình thành do phương pháp kết toán hiện
hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể
sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có:
tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi
trả có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi
hàng chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi
vay là nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau
với tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định
như trên, người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn
theo các chỉ dẫn của kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ
đây trở thành nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu
thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính là khoản vay, nợ của doanh nghiệp
đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành tài sản của doanh
nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải hoàn trả
cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. ý nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo

quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
II.Nội dung của hoạt động quản lý vốn trong kinh doanh
1. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định:
Quản lý VCĐ nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc quản
lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan
trọng đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành công đòi
hỏi các nhà quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái
biểu hiện vật chất của nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ trước
hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
11
Chuyên đề thực tập
doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý VCĐ thường đi vào những nội dung
cụ thể sau:
1.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định
* Hao mòn tài sản cố định
Như đã đề cập sơ lược ở trên, trong quá trình sử dụng cũng như không
sử dụng tài sản cố định đều bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu
hình và hao mòn vô hình. Giống như hai khía cạnh của một vấn đề, cả hao
mòn hữu hình và hao mòn vô hình đều làm cho giá trị tài sản cố định giảm
xuống và chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào đều thể hiện dưới những
dạng khác nhau.
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, tức là sự tổn thất dần về
chất lượng, tính năng kỹ thuật của TSCĐ. Thực chất kinh tế của hao mòn
hữu hình là giá trị của tài sản cố định dần dần giảm đi cùng với việc chuyển
dần giá trị của nó vào giá trị sản phẩm được sản xuất ra. Khi tài sản cố định
không được sử dụng, hao mòn hữu hình được thể hiện ở chỗ tài sản cố định
bị mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, do quá trình xảy
ra trong nội tại nguyên liệu cấu thành tài sản cố định đó. Như vậy hao mòn

hữu hình có ảnh hưởng quyết định tới độ bền của tài sản cố định và do đó nó
chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố.
Nhóm một thuộc chất lượng chế tạo như: vật liệu dùng để chế tạo ra tài sản
cố định, trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng và lắp đặt.
Nhóm hai thuộc quá trình sử dụng: được xem xét về mức độ đảm nhận
về thời gian và cường độ sử dụng, tay nghề công nhân, việc chấp hành quy
tắc, quy trình kỹ thuật, chế độ bảo dưỡng, sửa chữa.
Nhóm ba thuộc các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết...
Hao mòn vô hình là sự hao mòn chủ yếu do năng suất lao động xã hội
tăng lên và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất. Hệ quả của hai
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
12
Chuyên đề thực tập
nguyên do này dẫn đến việc người ta sản xuất ra tài sản cố định cùng loại
nhưng lại có chất lượng cao hơn mà giá lại rẻ hơn. Và như thế tài sản cố
định của ta nghiễm nhiên bị sụt giá.
Xuất phát từ việc nghiên cứu hao mòn tài sản cố định cung cấp cho
chúng ta những luận cứ cần thiết minh chứng cho việc "bảo vệ" tài sản cố
định nhằm giảm tối đa tổn thất hữu hình và hao mòn vô hình. Những biện
pháp thường được sử dụng như nâng cao cường độ và thời gian sử dụng,
nâng cao chất lượng, hạ giá thành chế tạo và xây lắp tài sản cố định, tổ chức
tốt việc bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao ý thức trách nhiệm
của công nhân. Một ý nghĩa khác là nó cũng cung cấp cho ta cơ sở tốt để lập
nên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, kế hoạch bảo toàn và phát triển vốn
cố định.
* Khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất
của tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó hao mòn dần và
chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm mới được sản xuất ra. Phần giá trị
này được thu hồi dưới hình thức khấu hao và được hạch toán vào giá thành

sản phẩm. Như vậy khấu hao tài sản cố định là một khoản cấu thành phí lưu
thông và được bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Về thực chất, khấu hao là
quá trình giảm giá trị của tài sản cố định. Việc suy giảm giá trị của tài sản cố
định cuối cùng sẽ dẫn đến khấu hao hết tài sản cố định, khi đó phải đầu tư
để có được tài sản cố định khác. Vậy quá trình này diễn ra trong bao lâu? Sở
dĩ đòi hỏi yêu cầu chính xác tương đối về thời gian như vậy bởi hai nguyên
nhân: thứ nhất nếu xác định không đúng thời gian sử dụng dẫn đến còn đang
sử dụng đã khấu hao hết, thứ hai chưa khấu hao hết đã hỏng. Cả hai nguyên
nhân này đều có ảnh hưởng không tốt tới sự vận động của vốn cố định và
giá thành sản phẩm làm ra. Để xác định đúng đắn thời hạn sử dụng tài sản
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
13
Chuyên đề thực tập
cố định chúng ta phải dựa vào cơ sở đã chỉ ra là phải xác định đúng được
hao mòn của tài sản cố định hay khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định được phân bổ trên hai hình thức là khấu hao
cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn. Khấu hao cơ bản nhằm tái bồi hoàn lại giá
trị tài sản cố định đã hao mòn. Khấu hao sửa chữa lớn nhằm bảo vệ duy trì
và kéo dài năng lực sử dụng bình thường của TSCĐ. Như vậy hai hình thức
khấu hao này có phương thức bù đắp và mục đích khác nhau, do đó tiền
trích khấuhao tài sản cố định được chia thành hai bộ phận theo phương pháp
xác định tỷ lệ:
Tỉ lệ khấu hao
cơ bản
=
Nguyên giá Chi phí thanh lý Giá trị đào thải
TSCĐ (ước tính) (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Tỉ lệ khấu hao
sửa chữa lớn

=
Phí tổn sửa chữa lớn (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Bộ phận thứ nhất của tiền trích khấu hao là tiền trích khấu hao cơ bản,
dùng để bù đắp TSCĐ sau khi bị đào thải đã mất giá trị sử dụng. Theo quy
định của Nhà nước về chế độ khấu hao cơ bản trong các doanh nghiệp nhà
nước, từ ngày 1/1/1995 các doanh nghiệp nhà nước được phép giữ lại toàn
bộ khấu hao cơ bản đã trích để đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Còn
các doanh nghiệp khác phải lập quỹ khấu hao để duy trì hoạt động của
doanh nghiệp, thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng.
Bộ phận thứ hai là tiền khấu hao sửa chữa lớn nhằm sửa chữa tài sản cố
định một cách có hệ thống và kế hoạch để duy trì khả năng sản xuất của tài
sản cố định trong suốt thời kỳ sử dụng. Doanh nghiệp trích tiền khấu hao
sửa chữa lớn gửi vào một tài khoản riêng ở ngân hàng đầu tư và phát triển
để dùng làm nguồn vốn cho kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ.
Giờ đây ta có thể thấy mối quan hệ giữa thời hạn sử dụng TSCĐ và tỉ
lệ trích khấu hao, do đó có thể chỉ ra ý nghĩa cụ thể ở phần hao mòn đã đề
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
14
+
_
Chuyên đề thực tập
cập đến. Rõ ràng nếu tỉ lệ khấu hao quá thấp hay thời hạn sử dụng quá dài,
sẽ không đủ bù đắp hao mòn thực tế của TSCĐ, vì vậy không đảm bảo được
công tác bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ khấu hao quá cao
hay thời hạn sử dụng TSCĐ được xác định quá ít, sẽ làm tăng giá thành sản
phẩm một cách giả tạo, tạo ra những khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá.
1.2. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định
Bằng cách lập lên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp đã
có thể định ra được tiến độ và mức trích khấu hao tài sản cố định từng nhóm

và toàn bộ doanh nghiệp. Để lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định cần phải
xác định được tổng giá trị TSCĐ đầu kỳ, tổng giá trị TSCĐ tăng thêm và
giảm đi trong kỳ, mức khấu hao phải trích trong năm và tình hình phân phối
sử dụng các quỹ khấu hao. Theo quy định số 517/TTg ngày 21/10/1995 kế
hoạch khấu hao TSCĐ bao gồm:
- TSCĐ không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (đất
đai).
- TSCĐ tăng thêm trong năm kế hoạch, nếu tăng vào một ngày nào đó
của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao.
Giá trị bình quân
của TSCĐ tăng
thêm trong năm KH
=
Giá trị TSCĐ tăng trong năm x Số tháng sử dụng
TSCĐ
12
- TSCĐ giảm bớt trong năm kế hoạch, nếu giảm bớt từ một ngày nào
đó của tháng thì tháng sau không tính khấu hao.
Giá trị bình quân
của TSCĐ giảm
trong năm KH
=
Giá trị TSCĐ giảm trong năm x Số tháng không sử
dụng TSCĐ
12
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
15
Chuyên đề thực tập
- Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm được
xác định theo công thức:

Tổng giá trị bình
quân TSCĐ phải
tính khấu hao trong
năm KH
=
Tổng giá
trị TSCĐ
có đầu kỳ
+
Tổng giá trị
TSCĐ bình
quân tăng trong
kỳ
-
Tổng giá trị
TSCĐ bình
quân giảm
trong kỳ
Cùng với các yêu cầu trên, ta còn phải xác định được chỉ tiêu tổng quỹ
khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Sau đó phải xác định được
chỉ tiêu quỹ khấu hao cơ bản trích nộp vào quỹ khấu hao của kỳ kế hoạch
theo công thức sau:
Quỹ khấu hao
cơ bản phải
trích kỳ kế
hoạch
=
Quỹ khấu hao
cơ bản năm
trước chuyển

sang
+
Tổng giá trị
khấu hao cơ
bản kỳ kế
hoạch
-
Quỹ khấu hao
cơ bản chuyển
sang năm sau
Nghiên cứu các chỉ tiêu của kế hoạch khấu hao TSCĐ cho ta một ý
nghĩa đáng lưu ý trong việc đề xuất các ý kiến cho quản lý vốn cố định ở
doanh nghiệp. Bằng việc xem xét mức độ tăng giảm của các chỉ tiêu và xác
định các nguyên nhân tăng giảm đó, người quản lý thấy rõ được phần nào
cảnh quan và tình hình TSCĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp điều
chỉnh hợp lý. Một ý nghĩa khác là cung cấp những thông số cần thiết cho
việc lập các kế hoạch, chương trình khác của doanh nghiệp về thị trường,
cạnh tranh...
1.3. Bảo toàn và phát triển vốn cố định
Trong quá trình tham gia vào cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần có một
hậu phương với tiềm lực vững mạnh, đó chính là vốn. Để phát huy được ý
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
16
Chuyên đề thực tập
nghĩa đó doanh nghiệp không những một mặt phải duy trì và phát triển các
hoạt động kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là phải bảo toàn và phát
triển được vốn nói chung và vốn cố định nói riêng.
Vấn đề đặt ra như trên không có nghĩa rằng việc doanh nghiệp làm ăn
có lãi thực thì không phải bảo toàn và phát triển vốn. ý kiến đó xuất phát từ

việc hiểu không đầy đủ về vấn đề bảo toàn vốn. Nếu chúng ta tiếp cận theo
quan điểm nhân quả thì thấy rõ vấn đề bảo toàn vốn luôn cần thiết trong suốt
quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Được tồn tại trong môi trường
kinh tế tự do, hoạt động kinh doanh không tránh khỏi những biến động về
giá cả, lạm phát... mà gây tác động không nhỏ tới tiền vốn của công ty. Lạm
phát tăng làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của đồng vốn giảm
xuống so với thực tế. Mặt khác, bất kỳ một tác động chủ quan nào thể hiện
tính vô trách nhiệm, buông lỏng quản lý đều dẫn đến hư hỏng, mất mát tài
sản cố định. Tất cả những nguyên nhân đó đưa ta đến kết quả phải bảo toàn
và phát triển vốn. Bảo toàn vốn là quá trình thu hồi lại vốn đã bỏ ra ban đầu,
phát triển vốn là lấy lợi nhuận để bổ sung vốn kinh doanh làm tăng vốn kinh
doanh. Bảo toàn và phát triển vốn được phải thông qua sử dụng có hiệu quả
vốn, tức là với một lượng vốn như cũ nhưng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
Như chúng ta đã biết, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố
định. Tài sản cố định có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỹ kinh doanh và
thu hồi dần dưới dạng khấu hao. Việc bảo toàn vốn phải lấy cả từ hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình, bất kỳ một sự thiếu sót nào đều có thể mắc
lỗi.
Về mặt hữu hình: thì doanh nghiệp phải giữ cho TSCĐ không bị loại
khỏi sản xuất kinh doanh trước khi hết niên hạn sử dụng, không sử dụng vốn
cố định sai mục đích hoặc đi mua bán lại TSCĐ tạo chênh lệnh giá để ăn
chia vào vốn, phải duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
17
Chuyên đề thực tập
Về mặt vô hình: đòi hỏi công ty phải có tỉ lệ khấu hao hợp lý bảo đảm
cho tái sản xuất TSCĐ mới.
Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn cố định cần phải bảo
toàn đến cuối kỳ theo công thức:
Vốn cố

định
phải
bảo
toàn
=
Vốn cố
định được
giao đầu
kỳ
-
Khấu
hao đã
trích
trong kỳ
x
Hệ số điều
chỉnh
TSCĐ
±
Giá trị
TSCĐ (tăng,
giảm trong
kỳ)
Những thành công trong công tác bảo toàn VCĐ sẽ tạo cơ sở tốt cho kế
hoạch phát triển VCĐ. Phát triển VCĐ được doanh nghiệp trích từ lợi nhuận
để lại doanh nghiệp và phần khấu hao cơ bản để lại đầu tư xây dựng cơ bản,
thực hiện tái sản xuất mở rộng và mua sắm mới TSCĐ.
2. Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động:
2.1. Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch
Xuất phát từ vai trò không thể thiếu của vốn lưu động đòi hỏi chúng ta

phải luôn có một lượng vốn lưu động để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của
doanh nghiệp. Nhưng lượng vốn lưu động đó là bao nhiêu thì phù hợp bởi
nếu VLĐ thừa quá hoặc thiếu quá đều không có lợi, VLĐ thừa quá sẽ gây ứ
đọng vốn và ngược lại nếu ít quá sẽ gây cho doanh nghiệp những khó khăn,
tác động xấu đến hoạt động kinh doanh. Những khía cạnh đó đòi hỏi chúng
ta phải xác định được lượng VLĐ định mức cho kỳ kế hoạch. VLĐ định
mức được hiểu là số VLĐ có thể quy định mức tối thiểu, cần thiết thường
xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo chế độ hiện hành, Công ty Nạp vét Đường biển I là công ty nhà
nước, VLĐ định mức của công ty được nhà nước cấp một lần. Trường hợp
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
18
Chuyên đề thực tập
nhà nước điều chỉnh giá trị thì mức vốn đó được nhà nước xác định và bổ
sung kịp thời.
Để xác định được VLĐ định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải lần
lượt tính toán VLĐ ở từng khâu từ dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đối với từng
loại nguyên vật liệu, sau đó tổng hợp lại thành VLĐ định mức kỳ kế hoạch.
Thứ nhất, vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Việc xác định VLĐ
định mức ở khâu dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch thu mua
nguyên vật liệu và dự tính chi phí sản xuất của doanh nghiệp. VLĐ định
mức ở khâu dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch
hàng ngày và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển hàng ngày được
tính bằng cách lấy mức luân chuyển chia cho 360 ngày. Còn định mức số
ngày dự trữ xác định như sau:
- Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu (Nhà nước độc quyền quản lý)
định mức số ngày dự trữ được cơ quan cấp trên quy định cho doanh nghiệp.
- Đối với nguyên vật liệu mua trong nước có thể áp dụng công thức sau:
Định
mức số

ngày dự
trữ
=
Số ngày
cách nhau
giữa 2 lần
mua
x
Hệ số
thu
mua
xen kẽ
+
Số
ngày
vận
chuyể
n
+
Số ngày
chỉnh lý
chuẩn
bị
+
Số
ngày
bảo
hiểm
Thứ hai, VLĐ định mức ở khâu sản xuất: được xác định riêng cho sản
phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ.

- VLĐ định mức cho sản phẩm dở dang được xác định theo công
thức:
Định mức
VLĐ cho
sản phẩm dở
=
Mức luân chuyển cả
năm của thành
phẩm theo giá thành
: 360 x
Hệ số
thành
phẩm dở
x
Chu kỳ
sản xuất
sản
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
19
Chuyên đề thực tập
dang công xưởng dang phẩm
- VLĐ định mức cho nửa thành phẩm tự chế xác định theo công thức:
Định mức
VLĐ cho
nửa thành
phẩm tự chế
=
Mức luân chuyển cả
năm của thành
phẩm theo giá thành

công xưởng
: 360 x
Định
mức
ngày dự
trữ
x
Hệ số
thành
phẩm tự
chế
Trong đó số ngày dự trữ của nửa thành phẩm phụ thuộc vào mức độ
sản xuất có nhịp nhàng không.
- VLĐ định mức cho chi phí chờ phân bổ được tính theo công thức:
Định mức
VLĐ cho chi
phí chờ phân
bổ
=
Mức dự trữ đầu
năm của chi
phí chờ phân
bổ
+
Số phát sinh
chi phí chờ
phân bổ trong
năm
-
Số phải

phân bổ
trong năm
Thứ ba, VLĐ định mức ở khâu tiêu thụ: bao gồm VLĐ định mức cho
thành phẩm và hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm.
- VLĐ định mức cho thành phẩm được xác định theo công thức:
Vốn lưu động
định mức cho
thành phẩm
=
Tổng giá thành
công xưởng của số
lượng hàng hoá
: 360 x
Định mức số
ngày dự trữ
thành phẩm
- Đối với hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm (là hàng hoá
doanh nghiệp mua rồi tiêu thụ ngay), VLĐ định mức xác định theo công
thức:
Định mức VLĐ
cho hàng hoá mua
ngoài tiêu thụ
=
Tổng giá thành
cả năm theo giá
mua
: 360 x
Định mức số
ngày dự trữ
hàng hoá mua

ngoài
Trong ba bộ phận trên, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành thì mức độ
quan trọng của từng bộ phận sẽ khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất
thì VLĐ ở khâu sản xuất là quan trọng nhất. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
20
Chuyên đề thực tập
trong quá trình quản lý và sử dụng vốn phải ưu tiên cho bộ phận này một tỉ
lệ hợp lý, không ngừng tăng vốn cho sản xuất, giảm ở mức cho phép với
vốn dự trữ và lưu thông.
2.2. Kế hoạch nguồn VLĐ định mức
Như chúng ta đã biết, VLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ 3
nguồn khác nhau như nguồn vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Để
lập được kế hoạch nguồn VLĐ định mức đòi hỏi tất yếu là phải căn cứ vào
tình hình thực tế VLĐ năm trước và nhu cầu về vốn trong năm kế hoạch.
2.3. Bảo toàn và phát triển VLĐ
Một số lý do dẫn đến tất yếu phải bảo toàn vốn nói chung đã được đề
cập trong phần bảo toàn và phát triển VCĐ. Song do xuất phát từ đặc trưng
của VLĐ là chu chuyển toàn bộ, môt lần vào giá thành sản phẩm và hình
thái vật chất VLĐ thường xuyên biến đổi. Do vậy mà trạng thái tài sản lưu
động và vốn lưu thông cũng thường xuyên biến đổi. Theo quan điểm tiếp
cận như vậy thì các quyết định về bảo toàn và phát triển vốn lưu động phải
được thực hiện trên cả hai phương diện là hiện vật và giá trị. Vốn lưu động
sẽ được bảo toàn khi và chỉ khi bảo toàn được cả hai mặt này.
Bảo toàn về mặt hiện vật: phải bảo đảm cho VLĐ đầu kỳ bằng VLĐ
cuối kỳ để thoả mãn đẳng thức:
Số VLĐ đầu kỳ
Đơn giá sản phẩm mà doanh nghiệp
KD
=

VLĐ cuối kỳ
Giá 1 SP kinh doanh tại thời điểm
đó
Bảo toàn vốn lưu động về mặt giá trị, thực chất không cần thiết số
VLĐ đầu kỳ phải bằng số VLĐ cuối kỳ, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải giữ
được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, thể hiện ở khả năng mua sắm vật
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
21
Chuyên đề thực tập
tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh
các doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện việc hạch toán đúng giá trị
thực tế của vật tư, hàng hoá theo mức diễn biến giá cả trên thị trường nhằm
tính đúng, tính đủ chi phí vật tư, hàng hoá vào giá thành sản phẩm, giá vốn
hàng hoá và phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động.
Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn lưu động cần phải
bảo toàn theo công thức sau:
Số VLĐ phải bảo
toàn đến cuối kỳ
=
Số VLĐ được
giao đầu kỳ
x
Hệ số trượt
giá VLĐ
Quan tâm đến công thức này cần chú ý đến: số vốn được giao, hệ số
trượt giá. Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh
nghiệp đã xác định trong biên bảo giao nhận vốn. Còn khi nói tới hệ số trượt
giá VLĐ do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh
nghiệp, nó dựa trên cơ sở mức tăng (giảm) giá thực tế cuối năm so với đầu

năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch vốn lưu động định
mức của từng doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu TSLĐ của từng
ngành, từng doanh nghiệp.
Khi đã có được những kết quả quan trong công tác bảo toàn vốn, doanh
nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc thực hiện phát triển vốn. Phát triển VLĐ
được lấy từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại.
III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh
Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động
kinh doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào
đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
22
Chuyên đề thực tập
cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá
nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo
ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả
năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người cần phải quan tâm đến việc
làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất. Do
đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được hiệu quả
lớn nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử
dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó. Hiệu quả kinh tế là một
phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt
được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có
thể tính theo công thức sau:
Kết quả đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh
doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn
chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể

là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình
kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử
dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh
doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác.
1. Một số chỉ tiêu chung về tình hình sử dụng vốn:
1.1. Cơ cấu vốn
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông
qua cơ cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ
sử dụng vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh
doanh là những yếu tố quan trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp.
Đồng thời chính những yếu tố đó tạo nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
23
Chuyên đề thực tập
doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng loại khác. Như vậy tỉ số
cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số thể hiện ý chí
của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn ở
doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao
nhiêu đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu
vốn khoẻ, hợp lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỉ trọng VCĐ
(Tỉ trọng TSCĐ)
=
TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tổng vốn
Tỉ trọng VLĐ
(Tỉ trọng TSLĐ và vốn lưu
thông)
= 1- Tỉ trọng vốn cố định

1.2. Vòng quay toàn bộ vốn
Đây là chỉ tiêu đo lượng hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản ánh
một đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh mang
lại mấy đồng doanh thu
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
Tổng số vốn
1.3. Kỳ thu tiền trung bình
Trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, việc phát sinh các
khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn,
chứng tỏ vốn của doanh nghiệp đang bị ứ trong khâu thanh toán. Nhanh
chóng thu được vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là bộ phận quan trọng
trong công tác tài chính nói chung và công tác quản lý, sử dụng vốn nói
riêng. Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên khi các nhà quản lý, các nhà kinh doanh,
rất quan tâm tới thời gian thu hồi của các khoản phải thu. Để nắm chắc
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
24
Chuyên đề thực tập
thông tin về khả năng thu hồi vốn và làm cơ sở cho việc dự tính các quyết
định của mình, các nhà phân tích đã đưa ra chỉ tiêu "kỳ thu tiền trung bình".
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Kỳ thu tiền
trung bình
=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân
ngày
=
Các khoản phải thu x
360

Doanh thu năm
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:
2.1. Sức sản xuất của TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại
mấy đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần)
Sức sản xuất của tài
sản cố định
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
2.2. Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình
quân TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
Sức sinh lợi của tài
sản cố định
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
2.3. Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận
thuần cần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ
Suất hao phí tài sản
cố định
=
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần,
lợi nhuận thuần)
2.4. Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hồ Thái Sơn Lớp: KTPT 47A_QN
25

×