Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

''Đánh giá tính kháng thuốc của rầy lưng trắng (sogatella furcifera horvath) trong vụ xuân năm 2011 tại hà nội''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG LAN


ĐÁNH GIÁ TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA RẦY LƢNG TRẮNG
(Sogatella furcifera Horvath) TRONG VỤ XUÂN NĂM 2011
TẠI HÀ NỘI



LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP


Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã số: 60.62.10


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Thị Thu Giang

Hà Nội - 2012

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi
thực hiện.


Số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung
thực và chƣa từng đƣợc sử dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào ở trong
và ngoài nƣớc.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Phƣơng Lan

ii
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu
sắc tới PGS - TS. Hồ Thị Thu Giang, ngƣời đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn của
mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Côn
trùng, Khoa nông học đã giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho
luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán bộ, Bộ môn Miễn dịch, Bộ
môn thuốc và Cỏ dại - Viện Bảo vệ thực vật Đông Ngạc - Từ Liêm - Hà
Nội.
Tập thể cán bộ Trung tâm Thông Tin thƣ viện Lƣơng Định Của,
Trƣờng Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã động viên và giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012


Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Phương Lan

iii
MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH viii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ix
1. MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài 3
2.1. Mục tiêu 3
2.2. Yêu cầu 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài 4
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 4
4. Đối tƣợng, phạm vi, thời gian, địa điểm nghiên cứu của đề tài 4
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài 4
4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
4.3 Thời gian nghiên cứu 4
4.4 Địa điểm nghiên cứu 5

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 6
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu. 6
1.2. Một số khái niệm 9
1.2.1 Khái niệm tính kháng thuốc của dịch hại (Resistance) 9
1.2.2 Cơ chế kháng thuốc của dịch hại 11
1.3 Một số nghiên cứu về tính kháng thuốc của rầy lƣng trắng 11

iv
1.3.1 Nghiên cứu ở nƣớc ngoài 11
1.3.2 Các nghiên cứu trong nƣớc 27
Chƣơng 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Vật liệu nghiên cứu 29
2.1.1 Cây trồng 29
2.1.2 Sâu hại 29
2.1.3 Dụng cụ và thiết bị thí nghiệm 30
2.1.4 Hóa chất nghiên cứu 31
2.2 Nội dung nghiên cứu 33
2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu 33
2.3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu ngoài đồng 33
2.3.2 Phƣơng pháp nghiên cứu trong phòng 35
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV trên lúa tại các địa điểm
nghiên cứu trong vụ xuân năm 2011 40
3.1.1. Tình hình sử dụng thuốc BVTV tại Đại Đồng - Thạch Thất – Hà
Nội 40
3.1.2. Tình hình sử dụng thuốc BVTV tại Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội 42
3.1.3. Tình hình sử dụng thuốc BVTV tại Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội 44
3.1.4. Phƣơng thức sử dụng thuốc trừ sâu trên cây lúa tại các địa điểm
nghiên cứu 47
3.1.5. Liều lƣợng, tần suất và số lần phun thuốc trong một vụ tại các

địa điểm nghiên cứu 48
3.2. Đánh giá mức độ kháng thuốc của rầy lƣng trắng trong vụ xuân
năm 2011 tại Hà Nội 50
3.2.1 Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với hoạt chất
Thiamethoxam (thuộc nhóm thuốc Neonicotinoid) 50

v
3.2.2 Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với hoạt
chất Fipronil (thuộc nhóm thuốc Phenylpyrazole) 52
3.2.3 Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với hoạt
chất Fenobucarb (thuộc nhóm thuốc Carbamat) 54
3.3 Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại các điểm
nghiên cứu trong vụ xuân năm 2011 56
3.3.1 Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Đại Đồng,
Thạch Thất, Hà Nội 56
3.3.2 Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Hải Bối,
Đông Anh, Hà Nội. 58
3.3.3 Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Cổ Bi, Gia
Lâm, Hà Nội 59
3.4. Nghiên cứu một số biện pháp nhằm hạn chế tính kháng thuốc của
rầy lƣng trắng 60
3.4.1. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng trắng
trƣởng thành gây hại trên cây mạ 5 ngày tuổi. 61
3.4.2. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng trắng
trƣởng thành gây hại trên cây mạ 10 ngày tuổi 62
3.4.3. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng trắng
trƣởng thành gây hại trên cây mạ 15 ngày tuổi 63
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 66
4.1. Kết luận 66
4.2. Đề nghị 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
PHỤ LỤC 75

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Các hoạt chất và nhóm thuốc trừ sâu đƣợc sử dụng trên lúa
trong vụ xuân năm 2011 tại Đại Đồng, Thạch Thất, Hà Nội 41
Bảng 3.2. Các hoạt chất và nhóm thuốc trừ sâu đƣợc sử dụng trên lúa
trong vụ xuân năm 2011 tại Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội 43
Bảng 3.3. Các hoạt chất và nhóm thuốc trừ sâu đƣợc sử dụng trên lúa
trong vụ xuân năm 2011 tại Cổ Bi – Gia Lâm – Hà Nội 45
Bảng 3.4. Tỷ lệ % hộ nông dân sử dụng thuốc dƣới dạng hỗn hợp hoặc
đơn lẻ tại các địa điểm nghiên cứu vụ xuân 2011 48
Bảng 3.5. Liều lƣợng, tần suất và số lần sử dụng thuốc BVTV phòng
trừ nhóm rầy hại thân tại các địa điểm nghiên cứu trong vụ
xuân năm 2011 49
Bảng 3.6. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với
hoạt chất Thiamethoxam (thuộc nhóm thuốc Neonicotinoid) 51
Bảng 3.7. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với
hoạt chất Fipronil (thuộc nhóm thuốc Phenylpyrazole) 53
Bảng 3.8. Mức độ kháng thuốc của các quần thể rầy lƣng trắng với
hoạt chất Fenobucarb (thuộc nhóm thuốc Carbamat) 55
Bảng 3.9. Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Đại
Đồng, Thạch Thất, Hà Nội 57
Bảng 3.10. Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Hải
Bối, Đông Anh, Hà Nội 58
Bảng 3.11. Hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc tại Cổ Bi,
Gia Lâm, Hà Nội 60
Bảng 3.12. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng

trắng trƣởng thành gây hại trên cây mạ 5 ngày tuổi 61

vii
Bảng 3.13. Tác động của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy non
đƣợc sinh ra từ rầy trƣởng thành ở các công thức đã xử lý
thuốc đối với cây mạ 5 ngày tuổi 62
Bảng 3.14. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng
trắng trƣởng thành gây hại trên cây mạ 10 ngày tuổi 63
Bảng 3.15. Hiệu lực của thuốc Cruiser Plus 312.5FS đối với rầy lƣng
trắng trƣởng thành gây hại trên cây mạ 15 ngày tuổi 63



viii
DANH MỤC CÁC HèNH

Trang

Hình 2.1. Mạ khay (Thức ăn nuôi rầy lƣng trắng - Giống lúa TN1) 29
Hình 2.2. Lồng nhân nuôi các quần thể rầy lƣng trắng nghiên cứu 30
Hình 3.1. Tỷ lệ % hộ nông dân sử dụng các nhóm thuốc trừ sâu trên
lúa tại Đại Đồng, Thạch Thất, Hà Nội vụ xuân 2011 42
Hình 3.2. Tỷ lệ % hộ nông dân sử dụng các nhóm thuốc trừ sâu trên
lúa tại Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội vụ xuân 2011. 44
Hình 3.3. Tỷ lệ % hộ nông dân sử dụng các nhóm thuốc trừ sâu trên
lúa tại Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội vụ xuân 2011 46
Hình 3.4. Điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV trên lúa tại các
địa điểm nghiên cứu trong vụ xuân năm 2011 47
Hình 3.5. Giá trị Ri của các quần thể rầy lƣng trắng đối với hoạt chất
Thiamethoxan (thuộc nhóm thuốc Neonicotinoid) 51

Hình 3.6. Dùng Microsyranh bơm thuốc lên mảnh lƣng ngực trƣớc của
rầy lƣng trắng 52
Hình 3.7. Giá trị Ri của các quần thể rầy lƣng trắng đối với hoạt chất
Fipronil (thuộc nhóm thuốc Phenylpyrazole) 54
Hình 3.8. Giá trị Ri của các quần thể rầy lƣng trắng đối với hoạt chất
Fenobucarb (thuộc nhóm thuốc Carbamat) 56
Hình 3.9. Thí nghiệm đánh giá hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số
loại thuốc tại Đại Đồng, Thạch Thất, Hà Nội 58
Hình 3.10. Xử lý hạt giống Enaldo 60FS 62
Hình 3.11. Không xử lý hạt giống 62


ix
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BNNPTNT
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
BVTV
Bảo vệ thực vật
CF
Correction factor
FAO
Food and agriculture organization of the
United nationals
IRRI
International rice research institute
LC
50

Lethal concentration 50

LC
95

Lethal concentration 95
LD
50

Lethal doses 50
LKC
Liều khuyến cáo
NSP
Ngày sau phun
NXB
Nhà xuất bản
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam
Ri
Resistance index
RLT
Rầy lƣng trắng

1
1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cõy lúa vốn đƣợc coi là cây lƣơng thực chủ yếu trong hoạt động sản
suất nông nghiệp và nú luụn giữ vai trò quan trọng trong nhu cầu đời sống
của con ngƣời. Để phục vụ cho những nhu cầu đú thỡ hàng năm sản lƣợng
lúa gạo trên thế giới đã không ngừng tăng lên. Năm 2011, mặc dự đó cú
những báo cáo về tình hình lũ lụt tại châu Á nhƣng Tổ chức Nụng-Lƣơng
Liên hợp quốc (FAO) vẫn nâng mức dự báo sản lƣợng gạo năm 2011 lên 721

triệu tấn, tăng 2,4 triệu tấn so với dự báo trƣớc. Với mức dự báo 721 triệu tấn
hiện tại, thì sản lƣợng lúa gạo toàn cầu đã tăng 3% so với sản lƣợng năm
2010. Sự gia tăng này cũng đồng thời cho thấy diện tích thu hoạch tăng 2,2%
lên 164,6 triệu ha với năng suất tăng 0,8%, tƣơng đƣơng 4,38 tấn/ha. Sản
lƣợng lúa gạo châu Á vẫn chiếm tới 90,3%, tức 651 triệu tấn (hay 435 triệu
tấn gạo) trong tổng sản lƣợng lúa gạo toàn cầu năm 2011. Kết quả này có
đƣợc chủ yếu nhờ sản lƣợng tăng mạnh tại Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và
Việt Nam, trong đó Việt Nam đạt 25,53 triệu tấn [4].
Việt Nam từ một nƣớc thiếu hụt lƣơng thực nay đã trở thành một
trong những nƣớc đảm bảo đƣợc an ninh lƣơng thực và có sản lƣợng lúa
gạo xuất khẩu lớn nhất, nhỡ trờn thế giới. Năm 2004 xuất khẩu gạo Việt
Nam đạt 4,06 triệu tấn, đạt kim ngạch 941 triệu USD, tăng 6,3% về lƣợng,
31% về chất. Đến năm 2011, xuất khẩu gạo Việt Nam đã tăng thêm 200
nghìn tấn và thị phần của Việt Nam tại các nƣớc nhập khẩu gạo đã tăng lên,
nhƣ tại Singapore trƣớc đây, thị phần của Thái Lan là gần 100% với số lƣợng
200.000 tấn nhƣng hiện nay gạo Việt Nam đã chiếm 20% thị phần, đứng hàng
thứ hai thế giới [4]. Tuy nhiên do việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng,
cơ cấu mùa vụ cũng nhƣ việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân
hóa học chƣa hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho dịch hại phát triển. Đõy

2
chớnh là nguyên nhân làm giảm phẩm chất lúa gạo. Một trong những loài
dịch hại hiện nay đƣợc các nhà trồng trọt đặc biệt chú ý là nhóm rầy hại
thõn lỳa. Trong đó, rầy lƣng trắng (Sogatella furcifera Horvath) là đối
tƣợng gây hại phổ biến và nguy hiểm. Nếu rầy lƣng trắng gây hại vào giai
đoạn lúa trổ bông thỡ chỳng sẽ làm cho số lƣợng bông và chiều dài bông
giảm, hạt lúa bị lép, lửng và làm chậm quá trình chín của hạt. Rầy lƣng
trắng cũng là môi giới chớnh truyền và lây lan bệnh virus lùn sọc đen
phƣơng Nam cho lỳa (Ngụ Vĩnh Viễn, 2009)[20].
Theo báo cáo của viện Bảo Vệ Thực Vật năm 2000 tổng diện tích

nhiễm rầy lƣng trắng là 591.424 hecta chiếm khoảng 7,7% diện tích gieo cấy
(tăng 3,8 lần so với năm 1999) trong đó diện tích nhiễm nặng là 91,747
hecta (tăng 2,7 lần so với năm 1999), diện tích cháy rầy là 106,6 hecta [9].
Cũng theo báo cáo của cục BVTV, năm 2008 - 2010 diện tích nhiễm rầy
lƣng trắng tăng gấp 2 lần so với trung bình 10 năm trở lại đây và tăng 4,7 đến
5,2 lần so với năm có diện tích thấp nhất; đặc biệt các tỉnh phía Bắc diện tích
nhiễm rầy tăng gấp 1,9 và 2,3 lần so trung bình 10 năm trở lại đây và tăng 7,2
đến 9,3 lần so với năm có diện tích thấp nhất [14].
Nhƣ vậy mỗi năm, mỗi vụ cả nƣớc có hàng nghìn, hàng triệu hecta lúa
phải tiến hành phun trừ rầy. Năm 2009-2010 cả nƣớc đã phải tiến hành
phun phòng trừ tới 2.174.626 hecta lúa. Điều này đã làm tốn kém tiền của
và ảnh hƣởng đến môi trƣờng sống. Tuy nhiên, điều mà các nhà khoa học
hiện nay quan tâm hơn cả là sự lạm dụng thuốc hóa học của ngƣời nông
dân trong việc phòng trừ nhóm rầy hại thân nói chung và rầy lƣng trắng nói
riêng. Ngƣời nông dân đã lạm dụng thuốc hóa học cả về liều lƣợng, chủng
loại lẫn tần suất sử dụng thuốc. Việc lạm dụng thuốc hóa học trong thời
gian dài đã làm cho tính mẫn cảm của rầy lƣng trắng bị suy giảm, dẫn đến
việc quản lý rầy lƣng trắng trở nên khó khăn hơn. Cụ thể: những năm trƣớc

3
đây rầy lƣng trắng không phải là đối tƣợng dịch hại chính nhƣng hiện nay
nú đó bựng phỏt về số lƣợng và là đối tƣợng phòng trừ nguy hiểm trên cây
lúa. Theo báo cáo của cục Bảo Vệ Thực Vật và các chi cục Bảo Vệ Thực
Vật một số tỉnh phía Bắc, một số loại thuốc hóa học đang đƣợc sử dụng
phổ biến để trừ nhóm rầy nói chung và rầy lƣng trắng nói riêng đang dần
kém hiệu lực do các quần thể rầy lƣng trắng bắt đầu có dấu hiệu suy giảm
tính mẫn cảm đối với thuốc hóa học. Một vấn đề mà các nhà khoa học
hiện nay đang đặc biệt chú ý là sử dụng loại, nhóm thuốc nào, với liều
lƣợng bao nhiêu, tránh sử dụng liên tục một loại thuốc để tránh hiện
tƣợng kháng thuốc của rầy lƣng trắng. Để cú thờm thông tin về mức độ

kháng thuốc của rầy lƣng trắng đối với một số loại thuốc hóa học đang
dùng phổ biến hiện nay, nhằm giúp cho việc quản lý phòng trừ rầy lƣng
trắng có hiệu quả hơn chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Đánh giá tính kháng
thuốc của rầy lƣng trắng (Sogatella furcifera Horvath) trong vụ xuân
năm 2011 tại Hà Nội”.
2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu
Đánh giá đƣợc tính kháng thuốc của rầy lƣng trắng đối với một số hoạt
chất thuốc trừ sâu, đồng thời nghiên cứu một số biện pháp nhằm làm giảm
mức độ kháng thuốc của rầy lƣng trắng tại Hà Nội.
2.2. Yêu cầu
- Điều tra tình hình sử dụng thuốc trừ sâu trên cây lúa ở một số điểm
nghiên cứu tại Hà Nội
- Đánh giá mức độ kháng thuốc của rầy lƣng trắng tại Hà Nội đối với cỏc
nhúm thuốc trừ rầy đang đƣợc dùng phổ biến trong sản xuất thông qua LD50.
- Đánh giá hiệu lực trừ rầy lƣng trắng của một số loại thuốc trừ sâu đang
dùng phổ biến tại Hà Nội.

4
- Đánh giá hiệu lực trừ rầy của một số thuốc xử lý hạt giống.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Góp phần bổ xung các thông tin mới, để việc nghiên cứu về tớnh
khỏng thuốc của rầy lƣng trắng nói riêng và tớnh khỏng thuốc của dịch hại ở
nƣớc ta nói chung có tính liên tục và hệ thống.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đỏnh giá đƣợc mức độ kháng thuốc của rầy lƣng trắng giúp đƣa ra
các giải pháp hạn chế tính kháng thuốc của rầy lƣng trắng. Để từ đó chọn lựa
đƣa ra các bộ thuốc trừ rầy lƣng trắng có hiệu quả và thân thiện với môi
trƣờng. Điều này sẽ giúp nông dân có những định hƣớng đúng đắn về sử

dụng thuốc trừ rầy lƣng trắng một cách hợp lý, giúp kiểm soát đƣợc dịch lùn
sọc đen phƣơng Nam, đồng thời góp phần đảm bảo sự ổn định và bền vững
trong sản xuất lúa gạo, đảm bảo an ninh lƣơng thực của quốc gia và an sinh
của toàn xã hội.
4. Đối tƣợng, phạm vi, thời gian, địa điểm nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Các quần thể rầy lƣng trắng thu thập ở Hà Nội (Đại Đồng, Thạch Thất;
Hải Bối, Đông Anh; Cổ Bi, Gia Lõm)
- Một số nhóm thuốc trừ rầy đang đƣợc dùng phổ biến nhƣ: Carbamate
(có hoạt chất Fenobucarb), Neo-nicotinoid (có hoạt chất Thiamethoxam),
Phenylpyrazole ( có hoạt chất Fipronil).
4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Các nghiên cứu về mức độ kháng thuốc của rầy lƣng trắng và một số
nghiên cứu nhằm khắc phục tớnh kháng thuốc của rầy lƣng trắng.
4.3 Thời gian nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 7 năm 2011.

5
4.4 Địa điểm nghiên cứu
- Viện Bảo vệ thực vật, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
- Cỏc xã, huyện trên địa bàn Hà Nội bao gồm: Xã Đại Đồng, Thạch
Thất; xã Hải Bối, Đông Anh; xã Cổ Bi, Gia Lâm.









6
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Cũng nhƣ các loài sâu hại khỏc trờn đồng ruộng, tớnh khỏng thuốc là
một đặc điểm nổi bật và quan trọng của sâu hại lúa nói chung và rầy lƣng
trắng nói riêng. Đây là đặc điểm mang tính di truyền, thể hiện phản ứng chọn
lọc của chúng với tác động (hóa chất trừ sâu) của môi trƣờng. Hiện tƣợng
kháng thuốc của sâu hại xuất hiện khi việc sử dụng các loại thuốc diệt trừ
chúng trở nên quá lạm dụng.
Khi quần thể dịch hại chịu tác động lặp đi lặp lại của một loại thuốc trừ
sâu trong nhiều thế hệ nối tiếp nhau thì từ thế hệ này sang thế hệ khỏc đó xảy
ra một quá trình chọn lọc; những cá thể có mang sẵn những gen kháng thuốc
còn đƣợc gọi là gen tiền thích ứng sẽ tồn tại, sản sinh ra những cá thể của thế
hệ sau mang tớnh khỏng thuốc, hình thành nên một nũi khỏng thuốc (Rudd,
1970)[42].
Trên đồng ruộng, tốc độ phát triển tớnh khỏng thuốc của sâu hại nói
chung và rầy lƣng trắng nói riêng phụ thuộc vào các yếu tố: đặc điểm di
truyền và sinh học của loài sâu hại; đặc trƣng của các loại thuốc sử dụng trên
đồng ruộng; cƣờng độ sức ép chọn lọc. Đối chiếu các yếu tố này với đặc điểm
của rầy lƣng trắng và tình hình phát sinh gây hại của chúng ở Hà Nội và vùng
phụ cận có thể thấy:
- Rầy lƣng trắng có những đặc điểm sinh học hết sức thuận lợi cho sự
phát triển tớnh khỏng thuốc của chúng: có từ 6 – 7 lứa/năm, có khả năng sinh
sản cao, có nguồn thức ăn dồi dào liên tục do diện tích các giống nhiễm rầy
lớn và các vụ lúa liên tiếp gối nhau.

7
- Do nhiều thuốc trừ rầy đã đƣợc sử dụng tràn lan, nhiều lần/vụ trong

thời gian qua nên khả năng kháng thuốc của rầy lƣng trắng là rất lớn.
Các biện pháp hạn chế tớnh khỏng thuốc đều dựa trên nguyên tắc phải
tìm cách giảm sức ép chọn lọc của sâu hại đối với thuốc. Trên quan điểm cho
rằng hiện tƣợng kháng thuốc là một quá trình chọn lọc, rõ ràng sự chọn lọc sẽ
xảy ra càng mạnh (cƣờng độ sức ép chọn lọc lớn) khi số lần phun
thuốc/vụ/năm càng nhiều, nồng độ liều lƣợng thuốc dùng càng cao, quy mô
dùng thuốc càng rộng. Trong những điều kiện nhƣ vậy, những quần thể dịch
hại sẽ phải trải qua một quá trình chọn lọc khắc nghiệt nờn đó đẩy nhanh tốc
độ phát triển và cƣờng độ kháng thuốc của chúng. Con ngƣời có thể chủ động
tác động đến yếu tố cƣờng độ sức ép chọn lọc để giảm thiểu tốc độ hình thành
và phát triển tớnh khỏng thuốc của sâu hại nói chung và rầy lƣng trắng nói
riêng (Lê Trƣờng, 2002)[17].
Sự gia tăng tớnh khỏng thuốc của rầy lƣng trắng đã trở thành mối quan
tâm hàng đầu của các nhà khoa học trên thế giới và ở nƣớc ta. Các nghiên cứu
về tớnh khỏng thuốc của đối tƣợng này đã đƣợc tiến hành ở nhiều nƣớc trên
Thế giới từ những năm 1960 của thế kỷ XX và hiện vẫn đang đƣợc tiến hành.
Qua những nghiên cứu cho thấy các loài côn trùng và nhện kháng thuốc
thuộc nhóm Clo hữu cơ, Lân hữu cơ và Carbamat nhƣng đến nay cỏc nhúm
thuốc nhƣ Pyrethroid, các chất triệt sản, các chất điều khiển sinh trƣởng côn
trùng, các thuốc vi sinh vật cũng đều đã bị kháng (Lê. Trƣờng, 1985; Nguyễn
Trần Oỏnh, 2007)[16],[8].
Theo các tác giả Rudd (1970, Perry và Agosin (1974), khi quần thể dịch
hại chịu tác động lặp đi lặp lại của một loại thuốc trừ sâu trong nhiều thế hệ
nối tiếp nhau thì từ thế hệ này sang thế hệ khỏc đó xảy ra một quá trình chọn
lọc: những cá thể có mang sẵn những gen chống thuốc - còn đƣợc gọi là gen
tiền thích ứng (preadaptative genes) - sẽ tồn tại, sản sinh ra những cá thể của

8
thế hệ sau mang tớnh khỏng thuốc, hình thành nờn một nũi khỏng thuốc [42].
Hiện tƣợng kháng thuốc Bảo vệ thực vật (BVTV) của dịch hại đƣợc phát

hiện ở hầu hết quần thể sinh vật. Nhƣng do côn trùng và nhện đẻ nhiều và
nhanh, vòng đời ngắn, nhiều thế hệ đƣợc sinh ra trong vụ/năm, nờn tớnh
khỏng thuốc đƣợc hình thành mạnh nhất và đƣợc nghiên cứu nhiều nhất. Đến
đầu những năm 80 của thế kỷ 20, ngƣời ta đã phát hiện 447 loài côn trùng và
nhện (trong đó có 264 loài côn trùng và nhện hại nông nghiệp); trên 100 loài
nấm và vi khuẩn; khoảng 50 loài cỏ dại đã hình thành tớnh khỏng [21].
Các loài côn trùng đã phát triển tớnh khỏng với tất cả cỏc nhúm thuốc
trừ sâu hữu cơ: Đầu tiên là các thuốc clo, lân hữu cơ và cacbamat, thì nay cỏc
nhúm thuốc mới giết côn trùng trực tiếp nhƣ pyrethroid, formamidin,
neonicotenic v.v cỏc chất triệt sản, các chất điều khiển sinh trƣởng côn trùng
Insect Growth Regulator (IGR) cũng đã hình thành tớnh khỏng. Nhiều loài
côn trùng và nhện, không những kháng một loại thuốc hay các thuốc trong
cùng một nhúm hoỏ học, mà cũn khỏng cả nhiều thuốc thuộc cỏc nhúm khác
nhau cả về cơ chế và phƣơng thức tác động. Có ít nhất có 17 loài phát triển
tớnh khỏng với tất cả cỏc nhóm thuốc trừ sâu chủ yếu [17].
Tớnh kháng thuốc của sâu hại gây trở ngại cho việc dùng thuốc BVTV
và gây tâm lý nghi ngờ hiệu quả của các loại thuốc dựng. Cỏc thuốc trừ dịch
hại mới ra đời đã không kịp thay thế cho các thuốc đã bị kháng hoặc hiệu lực
giảm sút.
Biện pháp sử dụng thuốc hoá học cũng dần trở nên kém hiệu quả trong
việc quản lý phòng trừ các loài dịch hại phổ biến. Nguyên nhõn là do các loài
dịch hại có khả năng sinh sản nhanh và phát triển mạnh, vòng đời ngắn, trong
một năm có nhiều lứa và đặc biệt chịu áp lực chọn lọc thuốc hóa học rất cao
do đó chúng có khả năng hình thành tớnh khỏng rất nhanh chóng {(Lê
Trƣờng, 1982), (Hoàng Trung, 2005)} [15],[13].

9
Ở Việt Nam, các nghiên cứu này cũng mới đƣợc bắt đầu. Do vậy, nghiên
cứu về tớnh khỏng thuốc của rầy lƣng trắng ở Hà Nội và các giải pháp hạn
chế tớnh khỏng thuốc của chúng là hết sức cần thiết để xây dựng cơ sở khoa

học cho việc quản lý hiệu quả và bền vững đối với loài sâu hại này.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1 Khái niệm tớnh khỏng thuốc của dịch hại (Resistance)
Các chuyên gia nghiên cứu tớnh khỏng thuốc của sâu hại nông nghiệp
(của FAO) đã đƣa ra định nghĩa: “Tớnh khỏng thuốc là một sự giảm sút về
phản ứng của một quần thể những loài động vật hay thực vật đối với một loại
thuốc trừ dịch hại do kết quả của việc dùng thuốc. Khả năng đạt đƣợc đó của
quần thể khiến cho nó có thể chịu đựng đƣợc những liều lƣợng thuốc có thể
tiêu diệt hầu hết những cá thể của một quần thể cùng loài nhƣng chƣa kháng
thuốc”. Theo Rudd R.L, (1970) định nghĩa: “Tớnh khỏng thuốc có nghĩa là
một bộ phận của một quần thể có khả năng chống chịu đƣợc khi tiếp xúc với
chất độc hoá học và bộ phận này đã phát triển rộng ra. Khi bộ phận đú đó trở
thành một phần nổi bật của quần thể và tính chống thuúc đƣợc tiếp diễn sang
những thế hệ sau, dự cú hay không tiếp xúc với chất độc thì quần thể đú đó
trở thành kháng thuốc” [25].
Trong tớnh khỏng, ngƣời ta ghi nhận có hiện tƣợng khỏng chộo (cross-
resistance) của dịch hại đối với các loại thuốc.
Khỏng chộo õm (negative cross-resistance) là hiện tƣợng khi dịch hại đã
trở nên kháng với một loại thuốc nào đó thỡ nú có thể trở nên mẫn cảm với
một số loài hợp chất khác. Nhƣng nguy hiểm hơn nữa là tính đa kháng
(multiple resistance).
Tính đa kháng (multiple resistance)đó là đặc tính mà côn trùng có thể
kháng với nhiều loại thuốc có cơ chế tác động khác nhau trên côn trùng. Tính

10
đa kháng hiện nay rất phổ biến trên côn trùng và hiện diện ở ít nhất 44 họ
thuộc 10 bộ [26].
Kết quả nghiên cứu năm 1989 cho thấy các loài côn trùng có khả năng
kháng cùng một lúc nhiều loại thuốc nhƣ: DDT/Methoxychlor,
Lindane/Cyclodiene, gốc Lân Hữu cơ, Carbamate, Pyrethroid và nhóm

Arsenical, bao gồm các loài muỗi Anopheles sachorovi; gián Blattella
germanica; bọ chét Boophilus decoloratus và B. microphus, sâu thuốc lá
Heliothis virescens, bọ khoai lang Leptinotarsa decinlineata, rầy mềm Myzus
percicae, sâu tơ Plutella xylostella; rầy Psylla pyricola; mọt Tribolium
castaneum, sâu keo Spodoptera frugiperda và Spodoptera lettorales; mọt
Sitophilus granarius, nhện đỏ Tetranichus urticae.
- Loại thuốc sử dụng: các kết quả nghiên cứu cho thấy tớnh khỏng của côn
trùng đối với các loài thuốc khác nhau có thể khác nhau.
- Đặc điểm sinh vật học của côn trùng: yếu tố này rất quan trọng, vì ở
những loài côn trùng có chu kỳ sinh trƣởng ngắn, nhiều thế hệ trong năm, khả
năng sinh sản cao thì khả năng thể hiện tớnh khỏng càng sớm, mật số cá thể
kháng sẽ đƣợc tích luỹ nhiều hơn, nhanh hơn [26].
Chỉ số chống thuốc (resistance index - Ri) hay Hệ số chống thuốc
(resistance cofficient - Rc): là chỉ tiêu xác định tính chống thuốc của dịch hại [11].
Nòi mẫn cảm (sensitive strain – SS): là loài dịch hại chƣa từng tiếp xúc
với thuốc [11].
Liều gây chết trung bình (medium lethal dose, MLD=LD
50
): là liều
lƣợng chất độc gây chết cho 50% số cá thể đem thí nghiệm. Giá trị LD
50
đƣợc
dùng để so sánh độ độc của các chất độc với nhau. Giá trị LD
50
càng nhỏ,
chứng tỏ chất độc đó càng mạnh [8].

11
1.2.2 Cơ chế kháng thuốc của dịch hại
Cơ chế kháng thuốc của dịch hại gồm 4 cơ chế như sau:

- Thay đổi về cấu trúc lipid, sáp và protein trong cutin hoặc gia tăng kết
cấu biểu bì để nhằm hạn chế sự xâm nhập của thuốc vào cơ thể sinh vật (lớp
cutin của cơ thể côn trùng khi tiếp xúc với thuốc dần dần sẽ trở nên dày hơn
nờn khú tiếp xúc với thuốc hơn) hoặc cơ thể côn trùng tự hạ thấp sự hấp phụ
chất độc ở màng tế bào (dẫn theo Lê Trƣờng, 1985) [16].
- Phản ứng chống chịu sinh lý thay đổi do cơ thể có thể xuất hiện lớp
lipid mới ngăn thuốc xâm nhập vào thần kinh trung tâm của côn trùng hoặc hệ
men của côn trùng bị “trơ” (kém mẫn cảm) làm cho thuốc mất tác dụng.
Nhiều công bố về cơ chế kháng thuốc này của dich hại nhƣ rầy xanh
Nephotellix cinticeps kháng đƣợc Demeton, nhện Tetrannychus cinnabarimus
kháng đƣợc Malathion (dẫn theo Lê Trƣờng, 1985) [16].
- Cơ chế chống thuốc quan trọng nhất, phổ biến nhất là tăng cƣờng sự
giải độc của thuốc hoặc làm giảm hoạt tính của thuốc bằng những quá trình
chuyển hoá (cơ chế này còn đựơc gọi là tính chống chịu sinh lý và đƣợc coi là
dạng chống chịu thực sự của côn trùng và nhện đối với thuốc bảo vệ thực vật)
nhƣ quá trình giải độc của các thuốc trừ sâu Clo hữu cơ, Lân hữu cơ,
Carbamat trong cơ thể các loài côn trùng đã mang tớnh khỏng thuốc nhƣ sâu
xanh Heliothis sp., (dẫn theo Lê Trƣờng, 1985) [16].
1.3 Một số nghiên cứu về tớnh khỏng thuốc của rầy lƣng trắng
1.3.1 Nghiên cứu ở nước ngoài
Vị trí phân loại, phân bố, ký chủ, phƣơng thức gây hại của rầy lƣng trắng
a. Vị trí phân loại
Rầy lƣng trắng có tên khoa học là Sogatella furcifera lần đầu tiên đƣợc
Horvath mô tả và đặt tên vào năm 1899 trên cơ sở mẫu thu thập ở Nhật Bản,
nó có vị trí phân loại theo sơ đồ sau đây:

12
Lớp (Class): Insecta Bộ (Order): Homoptera
Bộ phụ (Suborder): Auchenorrhyncha
Tổng họ (Superfamily): Fulgoroidae

Họ (Family): Delphacidae
Giống: Sogatella
Loài: Sogatella furcifera
b. Phân bố địa lý của rầy lƣng trắng
Asche và Wilson (1990) cho biết rằng rầy lƣng trắng có phân bố rộng rãi
ở vùng cận Đông, Đông và Tây Thái Bình Dƣơng và Úc. Nhƣng sự phân bố
của rầy lƣng trắng về phía Tây là không rõ vì tất cả các mẫu vật thu đƣợc ở
Châu Phi, Châu Âu và Tân Đảo đã đƣợc ghi nhận trƣớc đây nhƣ là Sogatella
furcifera thì sau này đã đƣợc chứng minh là các loài khỏc. Cỏc nƣớc đƣợc ghi
nhận có rầy lƣng trắng phân bố là:
Các nƣớc Châu Á: Rầy lƣng trắng có mặt ở nhiều nƣớc nhƣ Afganistan
(Dale,1994), Bangladesh (Alam,1995; Dale,1994; EPPO,1996), Trung Quốc
(Matsumura,1910; EPPO,1996), Inđonesia (Muir,1917; EPPO,1996), Nhật Bản
(Nakayama,1930; Lee & Kwon,1980; EPPO,1996), Lào (Grist & Lever,1969;
Asche & Wilson,1990; EPPO,1996), Malaysia (Waterhouse,1993; EPPO,1996),
Nepal (Rana & Sharma,1967; Dale,1994; Asche & Wilson,1990; EPPO,1996);
Pakistan (Dlabola,1971; Ghauri,1979; Asche & Wilson,1990; EPPO,1996),
Philipines ( Muir,1917; Ghauri,1979; Asche & Wilson,1990; EPPO,1996), Iran
(EPPO,1994), Srilanca (Melichar,1903; Fennan,1975; EPPO,1996), Thái Lan
(Nishida et al,1976; Hongsaprug,1987; EPPO,1996), Việt Nam (Tao &
Ngo,1970; Fennah,1978; EPPO,1996).
Các nƣớc Châu Âu: bao gồm các nƣớc Liên Bang Nga và các nƣớc vựng
Liờn Xụ cũ. Ngoài ra rầy lƣng trắng còn có mặt ở Siberi và cỏc vựng đất Nga
cách xa về phía đông (EPPO,1994).

13
Tây bán cầu: có ở các nƣớc Cuba, Guana và Suriname (EPPO,1996)
Thái Bình Dƣơng gồm có: Autralia (Grist & Lever, 1969; Asche &
Wilson,1990; EPPO,1996)[44].
c. Ký chủ của rầy lƣng trắng

Trên đồng ruộng cây ký chủ chủ yếu của rầy lƣng trắng là cây lúa. Qua
thí nghiệm Catindig cho biết rầy lƣng trắng đẻ trên 37 loại cây khác nhau và
ngoài cây lúa rầy lƣng trắng còn có thể hoàn thành pha phát dục của mỡnh
trờn cây ngô (Zea mays), cỏ lồng vực cạn (Echinochloa cololum), lồng vực
nƣớc (Echinochloa glabrescens), cỏ đuôi phƣợng (Leptochloa chinensis)…
(Catindig,1993). Miral (1980) còn phát hiện ra rầy lƣng trắng cú trờn lỳa mỳ,
mía và lúa mạch, nhƣng không có thông tin nào cho thấy rầy lƣng trắng có
khả năng hoàn thành chu kỳ phát dục trờn cỏc cõy này[35].
Ở Nhật Bản Kisimoto cũng đã tiến hành điều tra về ký chủ khác loài cây
lúa và thấy rằng có 39 loài thuộc hai họ là ký chủ hoặc ký chủ phụ của rầy
lƣng trắng trong đó Zizania latifolia, Leersia japonica và mía có khả năng là
cỏc cõy ký chủ qua đông. Và không có cây ký chủ nào là cây ký chủ chính
của rầy lƣng trắng ngoài cây lúa (Kassai,1984)[30].
d. Tớnh khỏng thuốc và hiệu lực của thuốc trừ sâu đối với rầy lƣng trắng
Nhiều khảo nghiệm thuốc hóa học với rầy lƣng trắng đã đƣợc tiến hành.
Tại Năm 1984 tại Ấn Độ, Sasmal đã thử 7 loại thuốc và kết luận: rầy chết
90% sau 24h đối với các loại thuốc Quinaphos, Carbaryl, Chlorpyriphos và
Carbosulphat cho hiệu lực kéo dài 5 ngày.[43].
Theo Valecia et al (1983) rầy non tuổi 3 của rầy lƣng trắng chết khi lột
xác nếu phun 0,075% Buprofezin hoặc quần thể bị hạn chế số lƣợng khi sống
trên cõy có phun 0,075% Buprofezin [47].
Nagata et al (1980) đã tiến hành so sánh tính mẫn cảm của các quần thể rầy
lƣng trắng nhiệt đới và ôn đới ( nhiệt đới là Thailand và Philippies còn ôn đới là

14
Nhật Bản và Đài Loan) với 8 loại thuốc sâu thì thấy rằng các quần thể rầy lƣng
trắng ở ThaiLand và Philippines mẫn cảm với thuốc sâu hơn quần thể rầy ở Nhật
Bản hơn nữa chúng sinh sản ra tỷ lệ cánh ngắn cao hơn quần thể rầy ở Nhật Bản
khi nuụi trờn mạ. Điều này cho thấy rằng giữa các quần thể rầy củavựng ôn đới
và nhiệt đới có sự khác nhau về sinh lý và sinh thái [37].

Haq et al (1991)[27] đã tiến hành thử nghiệm hiệu lực của các loại thuốc
lân hữu cơ và thuốc có nguần gốc thảo mộc ở Pakistan với rầy lƣng trắng cho kết
luận: thuốc lân hữu cơ có hiệu lực cao nhất (93,15%) sau đó là Methidathion
(89,16%), Nicotin (61,63%) và cuối cùng là dầu Neem (33,39%).
Ramaraju (1987)[41] cũng đã tiến hành thử 6 loại thuốc ở Ấn Độ với
trứng rầy lƣng trắng thì chỉ có Phosphamidon 0,05% và Fenvalerate 0,005%
là có tác dụng làm giảm khả năng sinh sản của rầy cái và duy nhất có
Phosphamidon 0,05% là có khả năng diệt trứng rầy lƣng trắng.
Sontakke et al (1994) cũng có kết luận rằng phun dầu xoan và các thuốc
trừ sâu Monocrotophos, Chlorpyriphos, Carbaryl và Quynaphos (cả đơn chất
và hợp chất) đều làm giảm số lƣợng của rầy lƣng trắng ở Orisa (Ấn Độ) [45].
Mani (1991) nhận xét rằng nếu xử lý Flufenoxuron (chất ức chế tổng hợp
kitin) vào giai đoạn khi trứng vừa đẻ thì trứng chết rất nhanh, nếu xử lý vào
giai đoạn trứng chuẩn bị nở thì rầy non nở ra bị dị dạng, nếu xử lý lúc côn
trùng đang lột xỏc thỡ rầy lƣng trắng bị kìm hãm lột xác và chết, các cá thể
rầy non hoàn thành phát dục thì khi hóa trƣởng thành cánh của chúng bị biến
dạng rất điển hình. Ở nồng độ 600 ppm hợp chất cú tỏc dụng giảm khả năng
sinh sản [33].
Đối với rầy lƣng trắng: vòng đời, giới tính, tập tính di cƣ và dạng cánh là
những nhân tố xác định tốc độ tớnh khỏng thuốc. Heinrichs et al (1984) kết
luận rằng độ mẫn cảm với thuốc sâu của rầy còn chịu ảnh hƣởng rõ rệt bởi
mức độ kháng của rầy với cây ký chủ. Rầy nuụi trờn giống kháng vừa mẫn

15
cảm với thuốc hơn là nuụi trờn giống nhiễm. Dạng cánh dài của rầy nâu và
rầy lƣng trắng có trị số LD50 cao hơn dạng hỡnhcỏnh ngắn từ 2 đến 10 lần
(Nagata & Matsuda, 1980). Trong 3 loài rầy ở Nhật Bản ( rầy nâu, rầy lƣng
trắng và rầy xỏm) thỡ ở 2 loài di cƣ nhiều ( rầy lƣng trắng, rầy nõu) tớnh
khỏng thuốc có tốc độ phát triển chậm hơn, còn ở rầy xám do di cƣ ít hơn nên
tốc độ phát triển tớnh khỏng thuốc cao hơn ( Nagata et al, 1979; Kilin et al,

1981).
Theo Nagata (1980) tớnh kháng thuốc của các loài rầy di cƣ vào Nhật
Bản có quan hệ với sức ép chọn lọc của quần thể rầy ở nƣớc có nguần gốc
nhập cƣ hơn nữa cấu tạo hóa học của một loại thuốc và mức độ sử dụng
thƣờng xuyên cũng là những nhân tố ảnh hƣởng đến tốc độ phát triển tớnh
khỏng thuốc của côn trùng. Trong 3 nhóm thuốc có gốc Clo hữu cơ, lân hữu
cơ, Carbamate đƣợc sử dụng trong 10 năm (1961 – 1971) ở Nhật Bản thì rầy
lƣng trắng và rầy nõu cú tốc độ phát triển tớnh khỏng thuốc không tăng cũn
rầy xỏm thỡ tăng khá nhanh [37].
Theo kết quả nghiên cứu năm 1990 cho thấy: cơ chế kháng thuốc của rầy
lƣng trắng với thuốc Malathion và MTMC (Metolcarb) là hoạt động thoái
biến với Malathion và Malaxon, còn cơ chế kháng MTMC là do sự giảm mức
độ nhạy cảm của enzym Acetycholinesterase với thuốc (Endo S.et al.,1988)
[26]. Sự phát hiện ra các thuốc Neonicotinoid là mốc mới trong nghiên cứu
thuốc trừ sâu trong ba thập kỷ vừa qua. Các thuốc trong nhóm này đƣợc các
tác giả Liu and Casida (1993); Chao et al.(1997); Zhang et al.(2000); Nauen
et al.(2001), Tomizawa (2003) cho rằng thuốc có đặc điểm giống nicotin là
tác động vào hệ thần kinh trung ƣơng của côn trùng nhƣ nhân tố đúi khỏng
của cơ quan thụ cảm nicotinic acetylcholine (nAChRs) và không giống nhƣ
nicotin là chúng chỉ tác động đến côn trùng chứ không tác động có hại đến
động vật có vú (dẫn theo Ralff Nauenl và Ian, 2005) [40].

×