Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những triệu chứng cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.86 KB, 8 trang )



Những triệu chứng cần
đưa trẻ đến bệnh viện
ngay

Khi trẻ có những dấu hiệu: không ăn uống hoặc không bú
được, nôn ói,… thì các bậc phụ huynh cần biết rằng trẻ
có thể đang bị bệnh nặng, thậm chí rất nặng.
Cách xử trí đúng nhất là nên nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y
tế gần nhất để được khám và điều trị kịp thời. Tuyệt đối
không để ở nhà theo dõi thêm hay tự ý mua thuốc cho bé
uống. “Nhiều trường hợp cha mẹ phát hiện nhiều triệu chứng
bệnh của con nhưng chủ quan, để con ở nhà, hoặc đưa con
khám bệnh quá trễ, dẫn đến tình trạng bệnh nặng hơn, khó
điều trị” – BS Phạm Mai Đằng, Phó phòng Kế hoạch tổng
hợp BV Nhi Đồng 2, cảnh báo.
• Ói vọt cấp:
Xảy ra ngay sau khi ăn hoặc sau ăn một thời gian. Có thể xác
định mức độ ói dựa vào số lần cao nhất trong một khoảng
thời gian cụ thể, hoặc ói có yếu tố thúc đẩy như sau ăn cơm,
ăn cháo, uống sữa, uống nước hoặc thậm chí không ăn uống
gì cũng ói… Đây là dấu hiệu bệnh của cả nội khoa và ngoại
khoa. Với nội khoa, ói vọt có thể là tình trạng rối loạn tiêu
hóa cần được xác định sớm để có chế độ chăm sóc phù hợp
và cần can thiệp ngay để phòng ngừa mất nước, điện giải,
kiệt sức hay hạ đường huyết. Trong trường hợp này, trẻ có
thể ói kéo dài khoảng một-hai ngày, tối đa là ba ngày.
Với bệnh lý ngoại khoa, ói cấp có thể là triệu chứng ban đầu
của lồng ruột. Trẻ cần được khám và phát hiện sớm để tránh
hoại tử nhiễm trùng quai ruột. Ói vọt cũng có thể là biểu hiện


của một chấn thương ở trẻ trước đó (như té, ngã, u đầu, hóc
xương, dị vật đường tiêu hóa…) mà cha mẹ không biết, trẻ có
khả năng đã bị tụ máu trong não, chấn thương não, xuất
huyết não. Thông thường trường hợp này còn kèm thêm triệu
chứng da xanh tái, chân tay nhợt nhạt.
Yêu sức khỏe - Sức khỏe! Chuyên mục về tin tức sức khỏe, tư
vấn trực tuyến, gia đình, tin tức làm đẹp, đời sống, y tế.

• Ngủ li bì:
Là tình trạng ngủ khác hẳn với giấc ngủ hàng ngày của trẻ.
Khi bị kích thích, lay gọi dậy, trẻ có phản ứng như mở mắt, la
lên, vùng vẫy nhưng lại tiếp tục ngủ. Nguyên nhân, trẻ có thể
bị rối loạn về tri giác, bị các bệnh lý thần kinh hoặc bệnh lý
toàn thân gây mệt mỏi cho trẻ (như nhiễm siêu vi). Nếu trẻ
ngủ li bì do tổn thương thần kinh (trực tiếp hay gián tiếp),
diễn tiến bệnh sẽ ngày càng nặng, có thể dẫn đến hôn mê;
nếu do mệt mỏi vì bệnh lý thông thường thì diễn tiến sẽ ngày
càng khả quan hơn.
• Co giật:
Có hai tình huống xảy ra là trẻ co giật kèm theo sốt hoặc chỉ
đơn thuần là co giật. Những biểu hiện thường gặp khi trẻ co
giật: tay chân co giật trong trạng thái duỗi cứng hoặc co
cứng, cắn môi, nghiến cứng răng không mở ra được, mắt
trợn, hoặc nhắm nghiền không tiếp xúc và không đáp ứng với
kích thích đau.
Yêu sức khoẻ! Trang tin tức sức khoẻ tổng hợp, đem lại kiến
thức sức khoẻ, mẹo vặt phòng bệnh chữa bệnh cho gia đình,
những bài thuốc chữa bệnh nhân gian.
Co giật có kèm sốt có thể là biểu hiện của bệnh lý nhiễm
trùng thần kinh trung ương như viêm não, viêm màng não.

Nếu thời gian co giật lâu có thể gây ngưng tim, ngưng thở vì
thiếu oxy não kéo dài. Khi co giật, trẻ còn có nguy cơ bị tổn
thương thân thể vì dễ bị té hoặc va đập vào các vật cứng.
Co giật không kèm sốt có thể là biểu hiện của các bệnh lý
động kinh, u não, xuất huyết não, vỡ dị dạng mạch máu não;
hoặc bệnh lý về chuyển hóa như hạ đường huyết, hạ canxi,
magie… Đặc điểm là cơn co giật tái phát nhiều, cơn động
kinh càng gần và dài hơn, ngay ở lần đầu cơn động kinh cũng
dài hơn so với co giật kèm sốt.
Nguyên tắc xử trí trẻ co giật tại nhà là đảm bảo thông thoáng
đường thở và tránh những chấn thương do co giật. Xử lý
chung ban đầu đối với trẻ bị co giật là lấy một vật cứng, quấn
bên ngoài bằng một lớp vải mềm để chặn giữa hai hàm răng
của trẻ, để trẻ không cắn lưỡi. Phụ huynh không nên quá hốt
hoảng, tránh nhiều người xung quanh vì sẽ càng khiến trẻ
khó thở. Nên để trẻ trong không gian thoáng mát, tránh ức
chế hô hấp, lau đàm nhớt rồi nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y
tế gần nhất. Tuyệt đối không vắt chanh vào miệng trẻ, điều
này rất nguy hiểm vì có thể làm ngưng thở, ngưng tim tức thì
và tử vong.
• Tiêu chảy:
Đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ béo phì vì khó đánh giá được
lượng nước bị mất và khó cả trong cách tính lượng dịch bù
vào cho trẻ. Nguyên nhân do lớp mỡ dư thừa có thể chiếm
đến 20-30%, thậm chí 50-60% trọng lượng cơ thể, làm che
lấp những dấu hiệu mất nước (da trẻ nhăn, dấu véo da, mắt
trũng, cân nặng thay đổi) khiến phụ huynh và nhân viên y tế
khó phát hiện. Ngoài ra, lượng mỡ cũng chính là áp lực khiến
cho mạch máu bị xẹp, tuần hoàn máu khó lưu thông, khó lập
đường truyền khi cấp cứu và chậm đáp ứng với điều trị tích

cực.
Tiêu chảy khi mất nước trên 5% trọng lượng cơ thể đều phải
nhập viện. Nhất là khi trẻ ói nhiều, không uống được, hoặc
có bù nước nhưng tốc độ thải phân cao hơn lượng bù bằng
đường uống. Nguyên nhân tiêu chảy hầu hết là do siêu vi
trùng; vi trùng, tác dụng phụ của thuốc, các bệnh lý nhiễm
trùng khác; hoặc dị ứng thức ăn, do thuốc, hóa trị, xạ trị,
bệnh lý ngoại khoa… Dù do bất kỳ nguyên nhân nào, nguyên
tắc quan trọng nhất là tránh để trẻ mất nước. Tử vong do mất
nước trong tiêu chảy chiếm tỷ lệ cao nhất. Phương pháp
phòng ngừa và điều trị hiệu quả nhất là bù nước bằng dung
dịch điện giải qua đường uống. Liều lượng bù tùy vào mức
độ trẻ ói hoặc tiêu chảy, lưu ý là không chờ cho đến khi trẻ
có dấu hiệu mất nước mới bù.

×