Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Phân tích tình hình tài chính Công tư vấn giám sát và xây dựng công trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.95 KB, 82 trang )

Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất.
Hoạt động sản xuất là hoạt động tự giác có ý thức của con người nhằm biến các
vật thể tự nhiên thành các vật phẩm có ích phục vụ cho mình. Con người khi
tiến hành làm bất cứ việc gì cũng luôn mong muốn đạt hiệu quả cao với những
chi phí tối thiểu nhưng đem lại lợi ích tối đa cho mình. Một trong những hoạt
động quan trọng và được con người tiến hành thường xuyên là hoạt động sản
xuất kinh doanh. Để hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt được kết quả
như mong muốn thì điều tất yếu là phải thực hiện chức năng quản lý và để có
thể thực hiện tốt chức năng quản lý thì không thể thiếu thông tin. Thông tin cung
cấp cho quản lý được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau và bằng nhiều cách
khác nhau, trong đó có các thông tin về hoạt động tài chính.
Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nó có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu tạo
vốn trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ của hoạt động tài chính là phải huy động đủ vốn đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời phải quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả
trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách, chế độ quy định về tài
chính tín dụng của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính của doanh nghiệp là một
vấn đề được rất nhiều người quan tâm nhất là những người quan tâm đến hoạt
động của doanh nghiệp . Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính là một việc
làm vô cùng cần thiết. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm đánh giá
được đầy đủ, chính xác tình hình tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý các loại
vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, vạch rõ khả năng tiềm tàng và xu hướng
phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thông qua việc quản lý, sử dụng
các nguồn vốn, đề xuất các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để khai thác tới
mức cao nhất những khả năng tiềm tàng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phục
vụ tốt cho sản xuất kinh doanh.


Tài liệu dùng để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chủ yếu dựa
vào các số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo định kỳ trong đó bảng cân
đối kế toán được sử dụng nhiều nhất trong việc phân tích vì nó phản ánh khá đâỳ
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
1
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả của việc phân tích tình hình tài
chính cho ta biết thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại
thời điểm phân tích.
Vì vậy em chọn đề tài tốt nghiệp là: “Phân tích tình hình tài chính Công
tư vấn giám sát và xây dựng công trình”.
Ngoài mở đầu và kết luận đồ án gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về phân tích tài chính trong doanh nghiệp .
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty tư vấn giám sát và xây
dựng công trình.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính
của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
2
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp :
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các
công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi
ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định

tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro
phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh
toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích
tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính - một trong các hướng dự đoán doanh
nghiệp. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau :
với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên
cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích( trong doanh nghiệp hoặc ngoài
doanh nghiệp )
2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc
phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối
chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá
khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những
rủi ro trong tương lai. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình
hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
3
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản trị doanh
nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người bên
ngoài doanh nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của
nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các
cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan
chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu thông tin
khác nhau.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý

tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng...
kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp :
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có
khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính
và dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định
vì lợi ích của cổ đông của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt
và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết định của nhà quản lý được
đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính doanh
nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là những người có nhiều
lợi thế để thực hiện phân tích tài chính một cách tốt nhất.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
4
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
lãi, nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định
hướng cho giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định
đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối
cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
2.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp

Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn
vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài
chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các
doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới
việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ
rủi ro và doanh lợi đạt được. Trên cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt
động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả
năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những
quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu
ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền
của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức
lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho
những người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và
cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết
sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập
của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm
của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở
hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu
tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các
cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của
họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
5
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm
trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu
của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu

tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp
thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng
thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc
biệt đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó
so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất
quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ
trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay
đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay
dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu
hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ
phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay
không, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và
trong thời gian sắp tới.
2.4. Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp,
người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin
tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
6
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
người lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham

gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những
người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
2.5. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt
động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo
đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi
phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân
tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ
thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng
thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát,
lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những
điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để
nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và
đầu tư phù hợp.
3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài
chính là việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của
doanh nghiệp, bao gồm:
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn
cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và
kết quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp
có hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
7
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp

tiềm tàng của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
II. Phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung chủ yếu của phân tích tình hình tài chính bao gồm:
- Đánh giá khái quát tình hình tài chính
- Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
- Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
- Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng tài sản cố định
- Phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp
Để tiến hành phân tích tình hình tài chính, người phân tích phải sử dụng
rất nhiều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính. Báo
cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và là nguồn thông
tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp.
1. Cơ sở số liệu trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
• Thu nhập thông tin số liệu:
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu nhập, sử dụng mọi nguồn
thông tin. Từ thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài
doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó
đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét kết luân chính
xác.
• Xử lí thông tin:
Thông tin nhu nhập về, phải được chọn lọc, kiểm tra tính chính xác và độ
tin cậy của thông tin đó. Quy đổi các thông tin đó về cùng thời điểm, dưới dạng
tỉ số hay phần trăm.
• Tiến hành so sánh và phân tích
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
8
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
So sánh các tỷ số đó với nhau, có thể năm này với năm khác, hoặc thời

điểm này với thời điểm kia, so sánh với tỷ số trung bình của ngành đó. Phân
tích các tỉ số đó xem như thế đã được chưa, có hợp lí không?
• Đánh giá và rút ra kết luận
Nhìn vào các tỷ số đã phân tích và so sánh đó, để rút ra những mặt còn hạn
chế, cần khắc phục, những điểm mạnh cần phát huy.
1.2. Trình tự phân tích tình hình tài chính
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích
thích ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau :
Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài
áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
- Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu
Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số,
bảng biểu
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu
- Cân bằng tài chính
- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi
Phân tích thuyết minh
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất
lợi
Tổng hợp quan sát
Tiên lượng và chỉ dẫn

Xác định :
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
9
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc bỏ
qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp
1.3. Tài liệu phân tích tài chính doanh nghiệp
a. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo
tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định, dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài
sản. Xét về bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài
sản với vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả( nguồn vốn).
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản
cân đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng
quát tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và
những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần
nguồn vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần
dưới là phần nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn
bằng nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả
• Phần tài sản : Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định.

Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có
quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích
trong tương lai.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
10
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát
về quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng
vốn của doanh nghiệp.
• Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu,
phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ
đông, các bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn
vốn thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh
doanh, về số tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản
nợ( với người lao động, với nhà cung cấp, với Nhà nước...).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản
hiện có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng
thời phần nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán:
+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua
các chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản
lưu động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các
khoản phải trả.
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
b. Báo cáo kết quả kinh doanh

Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân
tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh.
Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự
dịch chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
11
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo
kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh
doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí
phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có
thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy,
báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm
năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần:
+ Phần I: Lãi, lỗ.
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được
miễn giảm.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ
sở các tài liệu:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
+ Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+ Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài
khoản 333 “Thuế GTGT phải nộp”.
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu,

lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta
đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh
nghiệp kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
12
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
bao nhiêu. Từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự
đoán tốc độ tăng trong tương lai.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta
có những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin
của doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải
(tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho
biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh
doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan
đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh
nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp
thành ba nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu
chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất
thường.
2. Các phương pháp phân tích tài chính
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và
tình hình biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các
báo cáo tài chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương

pháp: phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài
chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến
động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài
chính, còn phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
13
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo
cáo tài chính với nhau để rút ra kết luận.
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
2.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ
yếu trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến
đổi của chỉ tiêu phân tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc
vào mục đích và yêu cầu của việc phân tích.
+ So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định
mức. Đây là phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu
kế hoạch, định mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề
ra.
+ So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho
thấy sự biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của
doanh nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh.
+ So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất
kinh doanh khác nhau của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể
so sánh được của các chỉ tiêu:
+ Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.

+ Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội
dung, cơ cấu của các chỉ tiêu.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu
này bằng những đơn vị tính đổi nhất định.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
14
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
+ Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh
bằng các chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường
hợp, việc so sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không
mang một ý nghĩa kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối
thì hoàn toàn cho phép và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số
tương đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát
triển không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách
khác, số bình quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số
bình quân có thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ
suất). Khi so sánh bằng số bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân
chung của tổng thể, của ngành, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật.
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện
tượng kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản
ánh, cách tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu
của hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để
phân tích so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên
trong cũng như quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so
sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối.
2.2. Phương pháp tỷ lệ.

Phương pháp tỷ lệ là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến
trong phân tích tài chính doanh doanh nghiệp. Đây là phương pháp có tính hiện
thực cao với điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi vì:
Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn.
Đó là cơ sở hình thành những tham chiến tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ của
một doanh nghiệp trong một nhóm doanh nghiệp.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
15
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy
nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ.
Phương pháp này giúp cho các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những
số liệu và phân tích hàng loạt các số liệu một cách có hệ thống theo thời gian
lien tục hay theo từng giai đoạn.
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của các đại lượng
tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị
của tỷ lệ tham chiếu như các tỷ số trước đây của doanh nghiệp. Một tỷ lệ chuẩn
cà các tỷ số của các doanh nghiệp khác có thể so sánh.
Theo phương pháp này thông thường các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ về: Khả năng thanh toán, năng lực hoạt động, khả năng cân đối
vốn, khả năng sinh lãi.
2.3 Phương pháp phân tích tài chính Dupont:
Dupont là tên một nhà quản trị tài chính người Pháp, tham gia kinh doanh ở
Mỹ. Ông đã thành công trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp từ chỉ số
doanh lợi vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Lợi nhuận ròng
Tồng vốn
=
Lợi nhuận ròng
Doanh thu

X
Doanh thu
Tổng vốn
Dupont đã khái quát hóa và trình bày chỉ số ROI một các rõ rang, nó giúp
cho các nhà quản trị tài chính có một bức tranh tổng hợp để có thể đưa ra các
quyết định tài chính hữu hiệu.
Phương pháp phân tích tài chính Dupont cho ta thấy mối quan hệ tương hỗ
giữa các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu. Nó xem xét mối quan hệ tương
tác giữa hệ số sinh lời, doanh thu với hiệu suất sử dụng tài chính, tỷ lệ sinh lãi
vốn chủ sở hữu doanh nghiệp. Phương pháp này thiết lập ra các hàm số giữa các
tỷ lệ tài chính để xem xét ảnh hưởng của các yếu tố khác đến một chỉ tiêu tổng
hợp như thế nào. Đó là mối quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn
bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Phân tích các hàm số này sẽ thấy được sự tác động
giữa các chỉ tiêu tài chính để từ đó đưa rac các giải pháp nhằm tăng doanh thu,
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
16
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
tiết kiệm chi phí hay xác định tỷ lệ nợ hợp lý. Phương pháp này được sử dụng
như việc tổng hợp ảnh hưởng các nhân tố nhẳm rút ra nhận xét và kiến nghị.
3.Nội dung chủ yếu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai
cách sau:
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
- Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
3.1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
a. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên
phải so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có
thể thấy được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng
như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài

sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi
sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai
loại tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, nhưng cân
đối này chỉ mang tính lí thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp
đủ trang trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay
hoặc chiếm dụng. Thực tế thường xảy ra 1 trong 2 trường hợp sau:
- Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm
dụng.
- Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải
đi vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.
Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị
chiếm dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải
thu và nợ phải trả.
Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ
tiêu tỉ suất tài trợ đẻ thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
17
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
động trong kinh doanh của công ty (phần này được trình bày trong phân tích kết
cấu nguồn vốn của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, về khả năng thanh toán cũng
cần được quan tâm chú ý ( được trình bày ở phần nhu cầu và khả năng thanh
toán)
b. Phân tích chi tiết tình hình tài chính
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân
bổ vốn, xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa?
Để phân tích, ta tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì
và cuối kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra
nguyên nhân của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được sự thay đổi về số
lượng, quy mô và tỉ trọng của từng loại vốn. Để có thể thấy được tình hình thay

đổi của tài sản là hợp lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài
sản. Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để tạo tiền
đề tăng năng suất lao động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hoặc đầu tư tài
chính dài hạn được xem xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất
đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân
tích kết cấu nguồn vốn; phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán;
phân tích hiệu quả và khả năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình đảm bảo
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và
được trình bày cụ thể trong Chương 2 của đồ án này.
3.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
3.2.1. Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân
thành 4 nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về
khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả
năng sinh lãi
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin
về từng vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người
phân tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết
luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
18
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên
điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính
doanh nghiệp đó và so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động
trong cùng ngành.
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ
lệ được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để
phân tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.

b. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán :
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản
của mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn
cần đến nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều
đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng
nữa thì để đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều
quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính
giữa các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh
toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp
cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn
của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả
thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài
sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.
Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :
Hệ số thanh toán hiện hành
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài
sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các
khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản
vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung
cấp, các khoản phải trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
19
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
hạn nhất định - tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả
năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ
của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành
tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Hệ số thanh toán hiện

hành(ngắn hạn)
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1
thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu
con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản
lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm
lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà
doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
Hệ số thanh toán nhanh:
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh
nghiệp có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian
ngắn với chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của
các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy,
chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải
thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu
động và dễ bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết
khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ
(tồn kho).
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
20
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Hệ số thanh toán nhanh
(thanh toán tức thời)
=

Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống
như trương hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn
trong việc thanh toán nợ.
c. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ
đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền
kinh tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp
có tỷ lệ này cao trong nền kinh tế bùng nổ.
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả
năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay
những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản
Hệ số nợ =
Nợ
Tổng tài sản
Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối
với các chủ nợ đã góp vốn cho doanh nghiệp. Để đánh giá được việc sử dụng nợ
cũng như mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài
chính (Degree of Financial Leverage - DFL) của doanh nghiệp.
Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh
lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay
phải trả.
DLF =
Q (P - V) - F

Q (P - V) – F - 1
Trong đó : Q là sản lượng
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
21
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
P là giá bán đơn vị sản phẩm
V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm
F là chi phí cố định
I là chi phí lãi vay phải trả
Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn
để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi
nhuận trước thuế và lãi vay đã đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần
một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi
vốn chủ sở hữu.
Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi
Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho
lãi tiền vay.
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Lãi tiền vay
Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả
năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho
doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta
thấy được tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ
nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi thấp so với mức trung
bình của ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia
tăng nợ.
Khả năng độc lập về tài chính
Khả năng độc lập về tài chính =
Vốn chủ sở hữu

Vốn trung và dài hạn
Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ
động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của
doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi
phí vay nợ và việc tăng vốn cổ phần cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh
đạo doanh nghiệp.
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
22
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh
nghiệp cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng yêu cầu
kinh doanh và nâng cao hiệu qủa kinh tế của đồng vốn. Việc phân tích tình hình
phân bổ vốn hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng
vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp với đặc điểm loại hình
kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có ảnh hưởng
gì đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản =
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung
và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất
và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ
thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể.
d. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư
cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các
nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng
nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành

nguồn vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm
tính tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn
hạn. Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng
tài chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp
nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh... Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở
mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Vì vậy, cần quan tâm đến tốc độ
vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
23
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
Vòng quay
tiền
=
Doanh thu thuần
Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán
Vòng quay hàng tồn kho
Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu,
mặt khác tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để
đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh.
Khoản đầu tư này được giải phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán
ra trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con

số này càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn
thì hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc
này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn.
Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều
thông tin. Việc giảm vòng quay vốn hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng,
quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu.
Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức
này là ngày) :
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu
Doanh thu thuần
x 360
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng
thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố :
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
24
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật thương mại Chuyên đề tốt nghiệp
- Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu : Một số
doanh nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn
thanh toán hơn các đối thủ cạnh tranh để phát triển thị trường.
- Tình trạng của nền kinh tế : Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có
khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng
thời gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là
dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải thay đổi chính
sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể là do khách hàng gặp khó khăn trong chi
trả nhất là ở vào thời kỳ kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây
chuyền cho các doanh nghiệp bán chịu.

- Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu : khi lãi suất tín dụng cấp
cho các doanh nghiệp để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu
hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về
chi phí tài chính.
- Ngoài ra độ lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả
trước của doanh nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này
còn được gọi là hệ số luân chuyển. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp
phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Tài sản cố định ở đây được xác định là giá trị còn lại tới thời
điểm lập báo cáo tức là bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế.
SV: Đặng Thị Kim Chi - Lớp: 3CTC2
25

×