Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Vốn lưu động và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Xí nghiệp Chế biến kinh doanh Nông thổ sản - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.53 KB, 70 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của
mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn
lưu động nói riêng vốn lưu động gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động, bản thân doanh nghiệp phải biết kết
hợp giữa lý luận với điều kiện thực tế của công ty mình, cũng như điều kiện
kinh tế xã hội và các qui định của nhà nước trong việc quản lý và sử dụng
vốn lưu động.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý
và sử dụng vốn lưu động đang được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới,
cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế là quá trình cắt giảm nguồn
vốn ngân sách cấp, mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh
nghiệp tự quản lý và sử dụng đã tạo ra một tình hình mới đầy phức tạp và
biến động trong quá trình vận động vốn nói chung. Một số doanh nghiệp đã
có phương thức, phương pháp, biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh
doanh một cách năng động và có hiệu quả, phù hợp với những yêu cầu đòi
hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới. Bên cạnh đó đã có không ít những doanh
nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, các doanh nghiệp này chẳng những
không huy động, phát triển tăng thêm nguồn vốn mà còn trong tình trạng mất
dần vốn. Do công tác quản lý sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả, vi
phạm các qui định trong thanh toán.
Trong bối cảnh chung đó, Xí nghiệp Chế biến và Kinh doanh Nông thổ
sản -Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hướng khai thác, huy động
vốn vào phát triển kinh doanh và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết
như tích luỹ hơn nữa để tăng nguồn vốn sở hữu, tự chủ trong sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử
1
dụng vốn, đặc biệt là vấn đề quản lý và sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Là
một doanh nghiệp thương mại nhà nước hoạt động đặc thù trong ngành Nông


thổ sản nên vốn lưu động của Xí nghiệp đòi hỏi lớn, chiếm khoảng trên 80%
tổng vốn kinh doanh. Kinh doanh Nông sản nên đã đòi hỏi một lượng hàng
hoá lớn trong khâu dự trữ và lưu thông, điều này bắt buộc doanh nghiệp phải
có phương thức quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách hết sức khoa
học, hợp lý... nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất của đồng vốn.
Do tầm quan trọng của vấn đề và qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu trong
thời gian thực tập tại Xí nghiệp. Đặc biệt là được sự giúp đỡ tận tình của
PGS - PTS Đặng Đình Đào và các cô, chú trong Ban lãnh đạo của Xí nghiệp.
Em đã mạnh dạn chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: "Vốn lưu động và các
biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp Chế biến
và Kinh doanh Nông thổ sản - Hà Nội".
Song do thời gian có hạn và kiến thức thực tế còn non kém nên bài viết
của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cô, chú trong Ban lãnh đạo Xí nghiệp
để bài viết của em được tốt hơn.
Qua đây em cũng tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Thầy
cô giáo và các cô chú trong xí nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung chính của luận văn được trình bày trong các chương sau:
Ch ương I: Vốn lưu động và tầm quan trọng của vốn lưu động đối
với các doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Ch ương II: Tình hình sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp
Ch ương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp Chế biến và Kinh doanh Nông sản- Hà
Nội.
2
Ch ương I
VỐN LƯU ĐỘNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN LƯU
ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Đa phần các doanh nghiệp nhà nước, được sinh ra và trưởng thành
trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Bởi vậy hầu hết các doanh
nghiệp đó đều được cấp phát và bao cấp về vốn kinh doanh hàng năm.
Nhưng kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì sự ưu đãi đó ngày
càng bị cắt giảm. Các doanh nghiệp phải tự mình bươn trải, tìm kiếm nguồn
vốn kinh doanh cho riêng mình. Đứng trước tình hình đó các doanh nghiệp
nhà nước đã có sự phân hoá rõ rệt, có doanh nghiệp làm ăn phát đạt từng
bước khẳng định mình trên thương trường. Song cũng có không ít các doanh
nghiệp do trình độ quản lý yếu kém thiết bị lạc hậu... đã làm ăn thua lỗ dẫn
tới phá sản.
I. VỐN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN ĐỐI VỚI MỖI DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho bất
cứ doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế, kỹ thuật... nào trong kinh tế. Để tiến
hành được hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải nắm giữ một
lượng vốn nào đó. Số vốn này thể hiện giá trị toàn bộ tài sản có thuộc quyền
quản lý và sử dụng của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định hay
không.
Vốn với ý nghĩa kinh tế bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí
để sản xuất kinh doanh. Vốn được đưa vào sản xuất kinh doanh, được thể
hiện ở nhiều hình thức vật chất khác nhau. Nó bao gồm vốn cố định và vốn
lưu động, cũng như mọi kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp, sự khéo léo,
trình độ quản lý và các tác nghiệp của lãnh đạo và nhân viên trong doanh
nghiệp.
3
1. Khái niệm vốn kinh doanh
Có nhiều khái niệm về vốn kinh doanh, tuy nhiên khái niệm mà được
nhiều người ủng hộ nhất là:
"Vốn kinh doanh là số vốn được dùng vào trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, số vốn này được hình thành từ khi thành lập

doanh nghiệp (do chủ sở hữu đóng góp ban đầu...) do cấp phát và bổ sung
thêm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh".
Như vậy vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
• Tài sản bằng hiện vật như: Nhà cửa, kho tàng, máy móc... và các vật
kiến trúc khác.
• Tài sản bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc...
• Tài sản bằng bán quyền sở hữu công nghiệp...
Tất cả tài sản này đều được quy ra tiền Việt Nam, mọi doanh nghiệp khi
tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải trải qua chu trình sau:
Hàng hoá Hàng hoá
Đầu vào ...Sản xuất kinh doanh... Đầu ra
Dịch vụ Dịch vụ
Để sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một khoản tiền
ứng trước, vì doanh nghiệp cần cố vốn để cung cấp cho những yêu cầu sản
xuất kinh doanh của mình, tuy nhiên các nhu cầu này thể hiện dưới các
hình thức khác nhau.
2. Các loại vốn kinh doanh
Có rất nhiều cách phân loại vốn kinh doanh, tuỳ theo người quản lý
đứng trên giác độ nào:
- Đứng trên giác độ quản lý nhà nước, vốn của doanh nghiệp gồm:
+ Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh
nghiệp, vốn pháp định do pháp luật qui định đối với từng ngành nghề, và
4
từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ
điều kiện thành lập doanh nghiệp.
+ Vốn điều lệ : Là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào
điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, theo từng
ngành nghề ... vốn điều lệ không thể ít hơn vốn pháp định.
• Đứng trên giác độ hình thành vốn, vốn của doanh nghiệp gồm:
+ Vốn bổ xung: Là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà

nước bổ sung bằng phân phối lại nguồn vốn đối với doanh nghiệp nhà nước,
do sự đóng góp của các thành viên, do phát hành cổ phiếu đối với các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần.
+ Vốn liên doanh: Là số vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên
doanh với nhau để hoạt động kinh doanh.
+ Vốn đi vay: Trong sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có, đa phần các
doanh nghiệp còn phải sử dụng một khoản vốn vay khá lớn. Ngoài ra còn có
khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị khác.
• Đứng trên giác độ chu chuyển vốn: Vốn của doanh nghiệp bao gồm
vốn cố định, vốn lưu động đây là hình thức phân loại vốn của các doanh
nghiệp hiện nay.
+ Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định. Tài
sản cố định dùng trong kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất
kinh doanh nhưng về giá trị thì chỉ được thu hồi sau nhiều chu kỳ kinh
doanh.
Đối với loại hình doanh nghiệp thương mại thì vốn cố định chỉ chiếm
một phần nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, khoảng từ 20% -
30% tổng vốn.
+ Vốn lưu động: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Vốn lưu
động là giá trị còn lại của vốn kinh doanh, sau khi đã trừ đi phần tài trợ cho
tài sản cố định. Như vậy vốn lưu động có thể được xác định theo công thức
sau:
5
VLĐ = Vốn kinh doanh - Vốn cố định.
Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Vốn do lao động thặng dư trong
các thành phần kinh tế thuộc các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại khách
quan trong xã hội tích luỹ lại. " Xã hội luôn biểu hiện ra là một đống của cải
vật chất khổng lồ". Nhưng đống vật chất khồng lồ này chỉ được coi là vốn,
khi bản thân nó phải vận động và chuyển hoá thành T': T - H - T'.
3. Các bộ phận cấu thành của doanh nghiệp

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành bởi hai bộ phận
chính là:
Vốn cố định (VCĐ) là vốn lưu động (VLĐ). Tuỳ loại hình doanh
nghiệp và tuỳ theo trình độ áp dụng công nghệ trong sản xuất và có những tỷ
lệ về từng loại vốn cho hợp lý. Việc xác định hợp lý cho cơ cấu vốn ở từng
doanh nghiệp là yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện trình độ quản lý sử dụng
vốn ở mỗi doanh nghiệp.
3.1. Vốn cố định
Vốn cố định là toàn bộ giá trị của tài sản cố định trong doanh nghiệp .
Tài sản cố định(T SCĐ)là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời
gian sử dụng dài. Khi nó tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh . TSCĐ
bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí
kinh doanh. Khác với vốn lưu động. TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ kinh
doanh .
TSCĐ lại được chia thành TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
TSCĐ hữu hình là loại tài sản có vật thể kiến trúc như nhà của, máy
móc...
TSCĐ vô hình như bản quyền phát minh sáng chế.... tóm lại tuỳ theo
từng loại hình doanh nghiệp và mục đích nghiên cứu mà có sự phân loại
TSCĐ khác nhau.
3.2. Vốn lưu động
6
Vốn lưu động của doanh nghiệp đó chính là nguồn vốn hình thành nên
tài sản lưu động. Là lượng tiền cần thiết ứng trước để có được TSLĐ. Khác
với TSCĐ, TSLĐ có thời gian luân chuyển ngắn thường là trong một chu kỳ
kinh doanh hay trong vòng một năm. Đặc điểm của TSLĐ là luôn thay đổi
hình thức biểu hiện trong quá trình luân chuyển với tốc độ cao.
Như vậy vốn lưu động là vốn dài hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên
trong nguồn vốn dài hạn này ở các doanh nghiệp lại được hình thành rất
nhiều nguồn khác nhau như: Nguồn vốn tự có, nguồn vốn vay dài hạn...

trong mỗi loại nguồn vốn đó lại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
như:
+ Nguồn vốn tự có: Hay vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà
nước nguồn vốn này là do ngân sách Nhà nước cấp, và vốn đóng góp, vốn
liên doanh đối với các loại hình doanh khác.
Nguồn vốn tự bổ xung lấy từ phần lãi được giữ lại, là phần chênh lệch
giữa một bên là toàn bộ doanh thu (và các thu nhập khác) của các hoạt động
kinh doanh, hoạt động tài chính và một bên là toàn bộ chi phí kinh doanh,
chi phí tài chính... số lãi này trong khi chưa phân phối cho các lĩnh vực
(nộp ngân sách, nộp quĩ Xí nghiệp...) được sử dụng cho kinh doanh vàcoi
như vốn chủ sở hữu.
Ngoài ra còn có các loại vốn chủ sở hữu khác có nguồn gốc từ lợi
nhuạn để lại (các quĩ Xí nghiệp, các khoản dự trữ...) hoặc các loại vốn khác
(vốn xây dựng cơ bản, vốn từ các nguồn kinh phí cấp phát...).
+ Các nguồn vốn từ đi vay dài hạn và ngắn hạn.
Là phần công nợ phải trả bao gồm các loại sau:
- Vốn đi vay (ngân hàng, cán bộ công nhân viên...)
- Vốn từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
- Vốn từ chiếm dụng các doanh nghiệp khác...
7
Đây là số vốn mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị,
cá nhân, tổ chức... do vậy doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả khoản công
nợ này.
Tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong vốn dài hạn được coi là cơ cấu
vốn của doanh nghiệp. Đối với vốn tự có doanh nghiệp muốn sử dụng thì
phải chịu các khoản chi phí như: Chia lãi cổ phần đối với vốn cổ phần, vốn
liên doanh, trả các khoản thu trên vốn đối với vốn ngân sách cấp. Đối với
vốn vay dài hạn doanh nghiệp phải trả lãi tiền vay hay còn gọi là chi phí vốn
vay...
Như vậy giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản chỉ là một tài sản có

thể được tài trợ từ một hay nhiều nguồn vốn khác nhau, ngược lại một
nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên nhiều loại tài sản. Điều đó đòi hỏi
doanh nghiệp phải biết sáng suốt lựa chọn các hình thức huy động nên
nguồnvốn hợp lý, dẫn tới việc xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ... đem
lại hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao nhất.
Giá trị tài sản = Nguồn hình thành tài sản hay
Hoặc Giá trị tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả
TSLĐ + TSCĐ = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả.
Vốn lưu động được biểu hiện thông qua hai lĩnh vực luân chuyển của
TSCĐ sai: TSCĐ sản xuất và TSCĐ lưu thông. TSCĐsản xuất bao gồm
những tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất (nguyên vật liệu, dụng cụ...) và
tài sản lưu động trong lĩnh vực lưu thông gồm tài sản dự chữ cho quá trình
lưu thông (thành phẩm, hàng hoá dự trữ trong kho hay đang gửi đi bán), tài
sản lưu động trong quá trình lưu thông(vốn bằng tiền, các khoản phải
thu...) và các tài sản đầu tư tài chính gắn hạn (đầu tư liên doanh, liên kết
ngắn hạn, đầu tư chứng khoán ngắn hạn...).
4. Vai trò của vốn lưu động đối với doanh nghiệp trong sản xuất
kinh doanh .
8
VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận
không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, từ khâu
nghiên cứu thị trường, mua sắm vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó
chính là vốn luân chuyển cho doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả máy móc,
thiết bị và lao động để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm.
Giá trị của nó chuyển hoá toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm sau mỗi chu
kỳ sản xuất kinh doanh. Do vậy chi phí VLĐ là cơ sở để tính giá thành của
sản phẩm. Về cơ bản doanh nghiệp đầu tư tiền vốn lưu động ban đầu để mua
sắm vật tư, hàng hoá, dịch vụ... sau đó tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra

sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mới rồi tiêu thụ chúng nhằm thu lại tiền vốn ban
đầu bỏ ra và thu thêm được giá trị thặng dư phục vụ cho quá trình tái sản
xuất.
Vòng tuần hoàn và chu chuyển của vốn lưu động diễn ra trong toàn bộ
các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, do vậy sự vận động và biến
đổi của VLĐ giúp cho doanh nghiệp gần như quản lý được toàn bộ các hoạt
động của quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy VLĐ đã có vai trò quan
trọng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu VLĐ
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là một yếu tố cấp bách đối với các
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
cho riêng từng doanh nghiệp cũng như để phục vụ cho chiến lược phát triển
kinh tế của Nhà nước.
II. CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt nam đều trong tình trạng
thiếu vốn (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để doanh nghiệp huy động có hiệu quả nguồn vốn để phục vụ tốt cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trên thực tế có rất nhiều các giải
9
pháp huy động vốn đặc biệt là vốn lưu động, mà các doanh nghiệp đã áp
dụng và có hiệu quả cao. Chúng ta có thể phân thành hai loại chính sau đây
là: Giải pháp huy động vốn ngắn hạn và dài hạn.
1. Giải pháp huy động vốn dài hạn
Như đã biết nguồn tài trợ trực tiếp cho vốn lưu động là vốn dài hạn
của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong nguồn vốn dài hạn này lại bao gồm từ rất
nhiều nguồn khác nhau, có thể do Nhà nước cấp vốn, vốn này được xác định
trên cơ sở biên bản giao nhận vốn của Nhà nước cho doanh nghiệp. Bên cạnh
đó còn là vốn nội bộ của doanh nghiệp, bao gồm phần vốn khấu hao cơ bản
để lại cho doanh nghiệp, phần lợi nhuận không chia và phần nhượng bán,
thanh lý tài sản (nếu có). Vì vậy chính sách phân phối lợi nhuận cho tiêu

dùng và tích luỹ phải được nhìn nhận như là lĩnh vực quyết định tất yếu của
công tác quản lý tài chính. Một khi doanh nghiệp đã khai thác hết nguồn vốn
nội lực bên trong mà nhu cầu về vốn dài hạn vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu
kinh doanh thì doanh nghiệp có thể áp dụng một số giải pháp sau để huy
động nguồn vốn này cho doanh nghiệp.
1.1. Giải pháp 1: Phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận góp cổ phần để tạo lập vốn cho doanh
nghiệp và chứng nhận lợi tức cổ phần cho người mua. Cổ phần hình thành
lên vốn tự có của doanh nghiệp. Người mua cổ phiếu gọi là các cổ động và
được hưởng lợi tức cổ phần từ số lượng cổ phiếu mà cổ đông đã mua.
Giải pháp này thường chỉ áp dụng được đối với các công ty cổ phần.
Các cổ đông có thể đầu tư sang các lĩnh vực khác bằng cách nhượng bán các
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu gồm hai loại: Cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường (Common Stok/ Shave) là loại cổ phiếu thông dụng
nhất vì nó đáp ứng được cả hai phía người đầu tư và phía công ty phát hành.
Cổ phiếu ưu tiên (Prefered Stock) thường chiếm một tỷ trọng nhỏ
trong tổng số cổ phiếu phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp dùng
10
cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có
cổ tức cố định. Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước
các cổ đông, thường cổ phiếu ưu đãi có thể được thu hồi lại (chuộc lại) khi
công ty thấy cần thiết. Những trường hợp này phải được qui định rõ trong
điều lệ công ty.
1.2. Giải pháp 2: Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.3. Giải pháp 3: Phát hành trái phiếu công ty.
Hiện nay ở Việt nam theo thống kê chưa đầy đủ của các nhà kinh tế
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 96 - 2000 ước tính nguồn vốn
tích luỹ trong nước đạt 20 - 25 tỷ USD, là lượng tiền nhàn rỗi rất lớn trong
dân cư. Vì vậy việc phát hành trái phiếu công ty nhằm huy động vốn nhàn

rỗi trong dân là rất cần thiết, góp phần phát triển nền kinh tế nước nhà.
Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn, trung hạn
bao gồm: Trái phiếu Chính phủ (Government Bad) và trái phiếu công ty
(Conporete bad) trái phiếu còn được gọi là trái khoán.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành và lựa chọn
loại trái phiếu nào cho phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình
hình tài chính của mình trên thị trường tài chính ở nhiều nước hiện nay
thường lưu hành những loại trái phiếu công ty sau:
- Trái phiếu có lãi suất cố định, là loại trái phiếu được sử dụng nhiều
nhất. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái của tờ trái phiếu và không thay đổi
trong suốt kỳ hạn của nó.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi, trong điều kiện có mức lạm phát cao
và lãi suất thị trường không ổn định.
- Trái phiếu có thể thu hồi.
1.4. Giải pháp 4: Vay dài hạn và trung hạn ngân hàng.
Vay ngân hàng là hình thức huy động vốn phổ biến nhất ở các doanh
nghiệp hiện nay, dưới các hình thức vay trung và dài hạn.
11
Hình thức này đã đem lại các hiệu quả kịp thời, thuận tiện, nhanh
chóng cho các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động. Được thể hiện dưới các
hình thức như: Hình thức tín dụng thuê mua là hình thức có tác dụng chủ yếu
đến nguồn vốn cố định.
1.5. Giải pháp 5: Nguồn vốn nội bộ.
Tự tài trợ dài hạn bằng nguồn vốn nội bộ là con đường tốt nhất, ngắn
nhất. Trong tình hình hiện nay đã có rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính
sách tới đầu tư từ số lợi nhuận để lại. Họ cố gắng tập trung hết nguồn lực
nhằm mục tiêu có số lợi nhuận đủ lớn để tự đáp ứng nguồn vốn của mình.
2. Các giải pháp huy động vốn ngắn hạn.
Huy động vốn ngắn hạn là giải pháp thông dụng nhất đối với các
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Đáp ứng kịp thời các thời cơ kinh doanh.

Tuỳ vào điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn các giải pháp
cho phù hợp. Dưới đây là một số giải pháp được sử dụng nhiều nhất ở nước
ta hiện nay:
2.1. Vay ngân hàng và vay các đối tượng khác.
Ngân hàng luôn là nhà cung cấp quan trọng, kịp thời về vốn lưu động
cho doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh ngăn hạn. Khi một
doanh nghiệp muốn vay vốn, ngân hàng sẽ căn cứ đánh giá một số chỉ tiêu
sau, để xem doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay không. Trước hết đó là chỉ
tiêu tự tài trợ của công ty.
Vốn tự có
∑ Tài sản nợ
Qua chỉ tiêu này họ đánh giá được khả năng độc lập về mặt tài chính
của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độc lập về tài chính
của doanh nghiệp càng cao. Bởi vì hầu hết mọi tài sản đều được đầu tư bằng
vốn chủ sở hữu.
12
Tỷ lệ tự tài trợ =
Tình hình tài chính của doanh nghiệp lại được thể hiện qua khả năng
thanh toán. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao, lúc đó ngân hàng
mới yên tâm cho doanh nghiệp vay vốn.
Tổng số tài sản lưu động
Tổng số nợ ngắn hạn
Tỷ suất này cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp là cao cấp hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 doanh
nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài
chính bình thường và khả quan.
∑ vốn bằng tiền
∑ số nợ ngắn hạn
Thực tế cho thấy nếu tỷ suất này > 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn trong thanh toán công nợ.

Thông qua các chỉ tiêu trên ngân hàng sẽ quyết định cho doanh nghiệp
vay vốn hay không. Tuy nhiên việc vay này doanh nghiệp cần tính đến lãi
suất tiền vay và lợi nhuận thu về đảm bảo có lãi hoặc không lỗ vốn.
Bên cạnh việc vay ngân hàng doanh nghiệp còn có thể huy động vay
ngắn hạn ở các tổ chức tín dụng, vay đơn vị bạn, van cán bộ công nhân viên.
2.2. Hướng tín dụng nhà cung ứng (mua trả chậm).
Tín dụng nhà cung cấp là loại tín dụng ngắn hạn quan trọng, nợ cho
phép doanh nghiệp mua hàng hoá và được thanh toán nợ của mình sau khi
mua trong thời hạn 30 ngày đến 90 ngày. Khoản nợ nàyđược ghi nhận bằng
thương phiếu như: Hối phiếu và kỳ phiếu.
Hối phiếu thương mại là một loại chứng từ được chấp thuận qua đó
người chủ nợ - người trả tiền thanh toán ngay hoặc khi đến hạn một số tiền
đã định cho người mà chủ nợ chỉ định - người thụ hưởng.
13
Tỷ suất thanh toán hiện hành ngắn hạn =
Chỉ tiêu tỷ suất thanh toán tức thời=
Kỳ phiếu là một cam kết mà theo đó người ký phải (khách hàng) cam
kết chấp nhận thanh toán một khoản tiền nào đó cho người thụ hưởng được
chỉ định hoặc theo lệnh của người thụ hưởng vời thời gian đã định.
2.3. Chiết khấu thương mại.
Đây là một loại nghiệp vụ của ngân hàng. Ngân hàng cho khách hàng
sử dụng một số điều, căn cứ vào việc doanh nghiệp giao thương phiếu
cho ngân hàng trước thời hạn, nghiệp vụ này có thể minh hoạ bằng sơ đồ
sau:
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
LƯU ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP
1. Mục đích và nhiệm vụ phân tích
Kinh doanh là một hoạt động nhằm mục đích kiếm lời, lợi nhuận là
mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, để đạt được lợi nhuận tối đa. Các
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý và sử dụng vốn

nhất là vốn lưu động.
Thực chất của việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong
doanh nghiệp là nhằm mục đích thông tin cho nhà quản lý. Và mục đích cụ
thể của việc phân tích là:
• Phân tích giúp cho nhà quản lý nhận thức đúng đắn và đánh giá đúng
thực chất kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
14
Doanh nghiệp
mua hàng
Doanh nghiệp
bán hàng
1/9/97 thương phiếu 100
(1)
Hàng hoá
Kỳ hạn
3 tháng
(2)
Khoản
vay 90
Ngân hàng
(3)
Thương
phiếu 100
30/11/97
1/10/97
Trả 100
• Phân tích giúp, tìm ra những mâu thuẫn tồn tại, phát hiện các nhân
tố ảnh hưởng để từ đó nhà quản lý có các quyết sách kịp thời hợp lý.
• Phân tích để đánh giá đúng chất lượng quản lý về vốn lưu động,
vạch ra các khả năng tiềm tàng để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn.

• Việc xây dựng và phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
doanh giúp cho doanh nghiệp thường xuyên tự đánh giá trên phương diện sử
dụng vốn, qua đó thấy được chất lượng quản lý kinh doanh, biết được mình
đang ở cung đoạn nào, giai đoạn trong quá trình phát triển, đang ở vị trí nào
trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thương trường.
Tìm lại con đường cho đầu tư và tư vấn.
Với các mục tiêu trên để thực hiện công tác này chính xác, toàn diện,
phản ánh đúng đắn tình trạng và nguyên nhân ảnh hưởng, các nhà quản lý
phải thực hiện cho chính xác các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, các nhà quản lý phải thu thập các thông tin từ các nguồn thu
thập khác nhau như khảo sát thực tế, báo cáo định kỳ... đảm bảo sao cho
thông tin này được cập nhật toàn diện.
Thứ hai, phải xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn lưu động. Trong đó bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ
tiêu cá biệt.
Thứ ba, vận dụng hệ thống chỉ tiêu này để phân tích tình hình kế
hoạch tình hình thực tế.
2. Các phương pháp sử dụng trong phân tích hiệu quả vốn lưu
động.
Có rất nhiều phương pháp hay công cụ dùng để phân tích vốn của
doanh nghiệp. Nhưng các phương pháp sau đây là được sử dụng nhiều nhất.
2.1. Phương pháp so sánh.
Đây là phương pháp lâu đời, áp dụng rộng rãi nhất. Thực chất của
phương pháp này là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được
lượng hoá có cùng một nội dung, một tính chất tương tự nhau.
15
Ưu điểm của phương pháp này là cho phép tách ra được những nét
chung, những nét riêng của các hiện tượng kinh tế được so sánh trên cơ sở
mặt phát triển hay kém phát triển để tìm ra các phương pháp quản lý hợp lý
và tối ưu trong mỗi trường hợp.

Để phục vụ cho mục đích phân tích cụ thể người ta thường sử dụng
hai cách so sánh sau:
a. So sánh bằng số tuyệt đối
và b. So sánh bằng số tương đối.
2.2. Phương pháp thay thế.
Phương pháp này là đo lường mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố tác
động một chỉ tiêu kinh tế cụ thể. Khi muốn đo mức độ ảnh hưởng của nhân
tố nào thì thay thế số liệu gốc bằng số liệu mới và các nhân tố khác giữ
nguyên. Rồi sau đó so sánh hai chỉ tiêu được tính theo nhân tố ban đầu và
nhân tố thay thế.
Trong thực tế phương pháp này được sử dụng dưới 2 dạng là:
a. Thay thế liên hoàn:
Là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay
thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị gốc sang kỳ phân tích để xác
định tới số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi.
b. Số chênh lệch:
Điều kiện để áp dụng chênh lệch cũng giống phương pháp thay thế,
chỉ khác ở chỗ để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp
dùng số chênh lệch về giá trị của kỳ phân tích so với kỳ gốc của nhân tố đó.
Dạng tổng quát chỉ số chênh lệch.
∆ Q = Q
1
- Q
0
= ∆
a
+ ∆
b
+ ∆
c


a
= (a
1
- a
0
) b
0
c
0

b
= (b
1
- b
0
) a
1
c
0
16

c
= (c
1
- c
0
) a
1
b

1
c
1
IV. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Quan điểm và tiêu thức xác định hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh
cao.
Theo quan điểm chung nhất hiện nay, hiệu quả kinh doanh là lợi ích
đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh và do vậy hiệu quả kinh
doanh được đánh giá dưới hai góc độ, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực nhân lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất
trong quá trình kinh doanh.
Hiệu quả xã hội của hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh sự tham
gia đóng góp của các doanh nghiệp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội của nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có
quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động, tư liệu lao
động, đối tượng lao động) nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt được các chỉ tiêu
kinh tế nếu doanh nghiệp sử dụng các yêu tố cơ bản của quá trình kinh doanh
như là các loại vốn.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học về hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, cần phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu chi tiết về hiệu quả
sử dụng vốn cố định cũng như vốn lưu động. Các chỉ tiêu đó phản ánh được
sức sản xuất, mức hao phí cũng như mức sinh lợi của từng yếu tố, từng loại
vốn (kể cả phần tổng vốn và phần dôi ra) và phải thống nhất được công thức
hiệu quả chung là:


Kết quả đầu ra
17
Hiệu quả kinh doanh =
Yếu tố đầu vào
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng,
tổng doanh thu, doanh thu thuần, lợi tức gộp... còn các yếu tố đầu vào bao
gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn
vay...
2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động.
Đánh giá một cách tổng quát hiệu quả sử dụng vốn lưu động.Trên thực
tế có rất nhiều tiêu thức đánh giá khác nhau, nhưng phổ biến các doanh
nghiệp vẫn sử dụng các tiêu thức sau:
2.1. Chỉ tiêu mức độ đảm bảo nguồn vốn cho tài sản lưu động dự trữ.
Vốn lưu động trong doanh nghiệp, được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau (do nhà nước cấp, tự bổ xung, liên doanh, liên kết, vay ngân hàng,
vay khác).
+ Chỉ tiêu này đánh giá mức độ phù hợp của vốn lưu động từ các
nguồn đó cho kế hoạch dự trữ tài sản lưu động trong doanh nghiệp.
a. So sánh sự tăng giảm các nguồn vốn lưu động cuối kỳ và đầu kỳ.
+ Từ đó tìm ra nguyên nhân thay đổi nguồn vốn và hướng thay đổi
trong các kỳ tiếp theo.
Cụ thể nguồn vốn pháp định, về cơ bản là cố định chỉ thay đổi khi
doanh nghiệp mở rộng hoặc thu hẹp qui mô sản xuất.
Nguồn vốn tự bổ xung, cuối kỳ tăng so với đầu kỳ là tốt, chứng tỏ
hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, ngược lại nếu giảm thể hiện hoạt động
không có lãi hoặc lỗ.
+ Nguồn vốn liên doanh, cuối kỳ tăng so với đầu kỳ là khả quan,
chứng tỏ hoạt động liên doanh liên kết có lãi, thu hút được vốn góp, còn nếu
giảm so với đầu kỳ có thể do liên doanh hết hạn hoặc hoạt động không có lãi

bị rút vốn trước hạn.
18
Nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn, nếu cuối kỳ tăng so với đầu kỳ là
không tốt. Chứng tỏ doanh nghiệp thừa vốn và để bị chiếm dụng, ngược lại
nếu giảm so với đầu kỳ là tốt.
b. So sánh nguồn vốn lưu động thực tế với tài sản dự trữ thực tế (gồm
chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, giá trị hàng tồn kho...)
Để thấy được mức độ thừa, thiếu vốn lưu động áp dụng công thức sau:
Nếu chênh lệch = Vốn lưu động - Tài sản dự trữ
> 0 → Thừa vốn bị → Bị chiếm dụng
⇒ <0 → Thiếu vốn → Đi chiếm dụng vốn
=0 → Đảm bảo hoạt động bình thường
2.2. Các chỉ tiêu về sử dụng vốn lưu động
Các chỉ tiêu này đánh giá tình hình sử dụng TSLĐ ở các doanh
nghiệp. TSLĐ đảm bảo để cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục,
bình thường, tránh thừa, thiếu hoặc gây mất vốn.
a. Phân tích chung.
Hiệu quả chung về sử dụng TSLĐ được phản ánh qua các chỉ tiêu như
sức sản xuất, sức sinh lợi của vốn lưu động
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem
lại mấy đồng doanh thu thuần cho doanh nghiệp.
Lợi nhuận thuần (lãi gộp)
Vốn lưu động bình quân
19
•Sức sản xuất của vốn lưu động = =
• Sức sinh lợi các vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng VLĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận thuần (lãi gộp), chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ doanh nghiệp sử

dụng có hiệu quả VLĐ.
Khi phân tích chung, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ
phân tích và kỳ gốc (kỳ kế hoạch đều tăng lên thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng
chung tăng lên và ngược lại).
b. Phân tích tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Trong sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng,
thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (dự trữ - sản xuất
- tiêu thụ).
Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải
quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, tổng lợi nhuận tăng lên. Để xác định tốc độ chu chuyển vốn
lưu động người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ
kinh doanh. Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sư dụng vốn lưu động
tăng và ngược lại.
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được
một vòng, thời gian của 1 vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển
càng lớn.
Ngoài hai chỉ tiêu ở trên, khi phân tích vòng có thể tính thêm:
Vốn lưu động bình quân
20
Số vòng quay của vốn lưu động =
(a)
Thời gian của 1 vòng quay luân chuyển =
Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động =

(b)
(c)
Tổng số doanh thu thuần
Hệ số vòng quay càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao và
vốn được tiết kiệm càng nhiều. Qua chỉ tiêu này, ta biết được để có một đồng
vốn luân chuyển cần mấy đồng vốn lưu động.
Cách tính từng chỉ tiêu sau:
Tổng số Tổng số Tổng số Chiết Giảm Doanh thu
doanh thu = doanh thu - thuế doanh + khấu bán + giá + hàng bán
thuần bán hàng thu hoặc thuế hàng hàng bán bị trả lại
trong kỳ VAT
• Thời gian của kỳ phân tích : Theo qui định, thì thời gian của kỳ phân tích
tháng là 30 ngày, quí là 90 ngày và năm là 360 ngày.
Do đó vốn lưu động bình quân cũng được tính theo:
VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng
2
VLĐ bình quân 3 tháng
3
VLĐ bình quân 4 quí
4
Trường hợp có số liệu về vốn lưu động ở đầu các tháng thì có thể xác
định vốn lưu động bình quân quí, bình quân năm (V) như sau:
V
1/2
+ V
2
+ ...+ V
n/2
n - 1
Trong đó : V

1
, V
2
...V
n
là số vốn lưu động có đầu vào các tháng.
n - Số thứ tự các tháng.
Trường hợp không có số liệu ở các tháng thì có thể tính vốn lưu động
bình quân bằng cách cộng vốn lưu động đầu kỳ với cuối kỳ rồi chia cho 2.
21
*VLĐ bình quân tháng =
*VLĐ bình quân quí =
*VLĐ bình quân năm =
* V =
Hệ số quay kho của sản phẩm =
Hệ số quay kho sản phẩm, hàng hoá càng lớn thì số vòng quay của vốn
lưu động càng nhiều. Do đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
Từ 2 chỉ tiêu số vòng quay của vốn lưu động và thời gian của 1 vòng
quay vốn lưu động dẫn đến một chỉ tiêu khác đó là chỉ tiêu về mức tiết kiệm
vốn lưu động sử dụng trong kỳ:
Mức tiết kiệm VLĐ = x
Để tăng tốc độ luân chuyển của vốn, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp
nhằm giảm bớt số vốn và thời gian vốn lưu lại tại từng khâu, từng gian đoạn
trong quá trình sản xuất kinh doanh .
Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động có tác dụng làm giảm nhu
cầu về vốn, cho phép cùng lượng vốn làm ra nhiều sản phẩm, hàng hoá hơn
nữa cụ thể là:
Với số vốn không tăng, nhưng có thể làm tăng được thêm doanh
số từ đó tạo điều kiện tăng thêm được lợi nhuận, nếu doanh nghiệp đẩy
nhanh được tốc độ luân chuyển của vốn.

Tổng số doanh thu thuần = CLĐ bình quân x Hệ số luân chuyển
Như vậy trong điều kiện không đổi nếu tăng thêm được hệ số luân
chuyển thì có thể tăng thêm được doanh thu và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp là tốt.....
3. Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong
doanh nghiệp.
Sử dụng vốn lưu động hiệu quả, trong sản xuất kinh doanh ,là một khâu
có tầm quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động lại là kết quả tổng hợp của
tất cả các khâu, các bộ phận trong quá trình kinh doanh.Từ hoạt động nghiên
cứu Marketing đến việc tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh. Cũng như
các biện pháp quản lý vốn hiệu quả, quản lý hạch toán, theo dõi, kiểm tra,
nghệ thuật kinh doanh và các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
22
Mục đích của việc nghiên cứu các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh của vốn lưu động, là nhằm đảm bảo nhu cầu tối đa về vốn cho việc
phát triển sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở nguồn vốn có hạn của doanh
nghiệp, được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm... đem lại kết quả kinh
doanh cao nhất. Để đạt các mục đích trên, yêu cầu bắt buộc đối với các
doanh nghiệp là:
- Đảm bảo sử dụng vốn lưu động đúng phương hướng, đúng mục đích,
đúng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp đề ra.
- Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về lưu thông tiền tệ của Nhà
nước.
- Thực hiện tốt các quy định về pháp lệnh kế toán thống kê, cùng các
quy định của Nhà nước về quản lý vốn ở doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt các mục tiêu, và tuỳ vào tình hình cụ thể ở từng doanh
nghiệp. Mà các doanh nghiệp có thể áp dụng một số biện pháp sau đây để
nâng cao hơn nữa kết quả kinh doanh của mình.
3.1. Biện pháp đầu tiên và thường được áp dụng đem lại kết quả cao

đó là :
Tăng nhanhvòng quay của vốn lưu động và rút ngắn số ngày lưu chuyển
của vốn lưu động.
Theo công thức:
Số vòng quay của VLĐ =
Ta có thể thấy ngay muốn tăng nhanh vòng quay của VLĐ thì doanh
nghiệp phải tăng doanh thu bằng cách tăng cường bán hàng và giữ mức vốn
lưu động sử dụng bình quân trong kỳ ở mức tối thiểu, đáp ứng các nhu cầu
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vấn đề tăng nhanh doanh thu luôn là một vấn đề quan trọng mang tính
chất sống còn của doanh nghiệp. Nó không những có vai trò trong việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động mà còn là mục tiêu phát triển kinh doanh
23
của doanh nghiệp. Do vậy doanh thu có liên quan đến rất nhiều vấn đề trong
kinh doanh.
Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng, được xác định như sau :

=
=
n
i
ii
PXD
1
.
Trong đó : X - sản lượng hàng hóa tiêu thụ.
P - giá bán đơn vị sản phẩm.
n - số loại sản phẩm tiêu thụ.
Như vậy, muối tăng doanh thu bán hàng thì doanh nghiệp chhỉ còn

cách phải tăng giá bán một đơn vị hàng hóa, dịch vụ. Trong đó giá bán đơn
vị sản phẩm là một yếu tố khách quan do qui luật cung - cầu trên thị trường
quy định là chủ yếu, tự do tăng giá bán chỉ có thể ở các doanh nghiệp độc
quyền mà thôi. Do vậy về phía chủ quan doanh nghiệp chỉ còn cách là tăng
sản lượng hàng hóa tiêu thị và tăng chủng loại hàng hóa bán ra.
Muốn thực hiện được điều đó là cả một công việc khó khăn đòi hỏi sự
năng động, nhậy bén của doanh nghiệp.Doanh nghiệp phải thực hiện tốt
công tác từ nghiên cứu Marketing tìm hiểu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị
hiếu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Để từ đó cải tiến, đổi mới công
nghệ, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao năng xuất, chất lượng, uy tín và
chủng loại mẫu mã phong phú của từng loại sản phẩm. Làm tốt công tác
Marketing đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp khai thác triệt để năng lực của
doanh nghiệp và thị trường tiêu thụ. Từ đó giúp tăng nhanh doanh thu và bán
hàng đầu ra của sản phẩm hàng hoá.
Tăng nhanh doanh thu, không chỉ ở bộ phận sản xuất mà còn có sự
góp sức quan trọng của công tác tiêu thụ, bán hàng....Doanh nghiệp phải tổ
chức hợp lý các kho bán hàng, mở rộng các kênh tiêu thụ hàng hoá từ trực
tiếp đến gián tiếp, tổ chức rộng dãi các đại lý bán hàng, tiếp thị, quầy hàng
24
giới thiệu sản phẩm lịch sự, thuận tiện.... đến khách hàng nhằm đáp ứng tốt
nhất mọi nhu cầu cần có của mọi khách hàng.
Tuy nhiên doanh thu bán hàng ở đây là thực thu của Xí nghiệp. Do
vậy thời điểm xác định doanh nghiệp thu được tiền bán hàng. Nhưng trong
cơ chế thị trường của nược ta hiện nay thời điểm tính doanh thu là thời điểm
đơn vị mua hàng chấp nhân trả tiền. Đây là 2 thời điểm khác nhau ảnh
hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Do đặc điểm này, trong than toán đã
hình thành nên một bộ phận của TSLĐ đó là các khoản phải thu về tiền bán
hàng, dịch vụ... Bộ phận này sẽ làm tăng vốn lưu động phải sử dụng trong
thanh toán, nếu thời hạn dài sẽ làm cho vòng quay của vốn lưu động chậm
đi.

Như vậy muốn tăng vòng quay của vốn lưu động, không những phải
tăng doanh thu mà còn phải lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp
nhằm giảm lượng vốn đọng ở khâu thanh toán, chánh bị đơn vị khác chiếm
dụng mất vốn. Do vậy doanh nghiệp phải tổ chức tốt các khâu tiêu thụ, bán
hàng. Làm cho số thực t hu của doanh nghiệp lớn nhất, nhanh nhất.
Mặt khác để tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động doanh nghiệp
còn phải sử dụng, quản lý chặt chẽ lượng vốn lưu động sử dụng trong kỳ.
Nhằm giảm tối thiểu lượng vốn lưu động được sử dụng. Để thực hiện được
điều này, doanh nghiệp cần phải có kế hoạch chỉ tiêu, xác định chính xác nhu
cầu sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn lưu động dự phòng và nhu cầu vốn
lưu động tăng thêm, để phát triển kinh doanh ở doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có thể căn cứ vào:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm.
- Các hợp đồng kinh tế đã ký kết.
- Điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các phương thức thanh toán thông dụng trên thị trường.
Khi đã xác định được nhu cầu vốn lưu động tối thiểu phục vụ cho quá
trình kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả vốn lưu động. Doanh nghiệp phải
25

×