Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

12 bài thuốc từ cây dâu doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.93 KB, 4 trang )

12 bài thuốc từ cây dâu


Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân đau nhức
như dùi đâm. Nên dùng lá dâu già và lược gãy, nệm rách, tóc rối lượng bằng nhau, đem
đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân (khoảng 12 g) với nước nóng thì khỏi.

Bổ huyết, dưỡng huyết

Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập đến trong nhiều y thư cổ. Uống ba
tháng thì thân thể mọc đầy mụn do sức thuốc đẩy ra; sau đó khắp mình sẽ tươi sáng, da
dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm, khí lực trở nên mạnh mẽ, bệnh tật dần dần tiêu
tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, rõ tai, sáng mắt, tinh
thần khoan khoái, tăng thêm tuổi thọ.
Chọn lá dâu non, hái lúc mặt trời mọc, rửa sạch bụi phấn, phơi nắng cho khô. Vừng đen
phân nửa, xát tróc vỏ, đem đồ chín “cửu chưng cửu sái” (có nghĩa là chín lần đồ, chín lần
phơi), cùng lá dâu tán bột, có thể đem xay nhỏ, cho luyện mật làm thành viên hoàn.
Cũng hai vị thuốc này, Tuệ Tĩnh còn dùng nấu với nước vo gạo để gội đầu, chỉ 7 lần mà
tóc dài được vài “thước”! Nếu đúng như vậy thì bài thuốc này có tác dụng kích thích mọc
tóc.

Chữa thong manh, đau mắt

Tuệ Tĩnh cũng giới thiệu dùng chữa chứng thong manh bằng lá dâu tươi đem về giã nát,
phơi khô, đốt thành than, nấu lấy nước mà rửa mắt. Xưa có người thong manh đến 20
năm mà đã chữa khỏi bằng bài thuốc này.
Để chữa đau mắt gió hay chảy nước mắt: Lá dâu hái vào tháng chạp, hãm lấy nước mà
rửa hàng ngày.


Chữa hen suyễn lâu ngày


Lá dâu già, lá thầu dầu già, trấu sao mật, các vị tán nhỏ, thắng mật làm viên bằng hạt ngô
đồng, mỗi lần uống một viên với nước sôi. Bài thuốc này được Tuệ Tĩnh cho là rất hay.

Chữa huyết áp cao

Lá dâu bánh tẻ một nắm nhỏ, cá diếc sống một con. Đem cá diếc bỏ vào châu pha nước
muối cho nhả hết nhớt, không mổ, để nguyên con đem luộc, gỡ lấy thịt nấu canh với lá
dâu mà ăn.
Hoặc: Vỏ rễ dâu 15,5 g, sinh địa 9 g, hoài sơn (củ mài) 15,5 g, phục linh 6 g, mẫu đơn bì
9 g, tri mẫu 15,5 g, sa sâm bắc 15,5 g, táo ta 10 g, mai rùa 10 g, thạch xương bồ 6 g,
huyền sâm 15,5 g, đương quy 6 g, hà thủ ô đỏ 10 g, hoàng cầm 6 g. Sắc uống ngày một
thang. Uống liên tục 2-3 tháng.
Hoặc: Trai sông 50-100 g, lá dâu tươi 20 g thái nhỏ, nấm hương 20 g, hành củ khô 2-3
củ. Nấu cháo ăn hàng ngày, có tác dụng hạ huyết áp tốt. Bài thuốc này thích hợp với
người già bị tăng huyết áp và u xơ tiền liệt tuyến có các dấu hiệu tiểu không thông, tiểu
đêm, tiểu nhiều lần… Đặc biệt là người tăng huyết áp bị chứng “trên bảo dưới chẳng chịu
nghe” thì cũng nên dùng.

Tẩy sán
Lấy dao tre cạo lấy vỏ trắng ở cành dâu 3 nắm, nước 3 bát sắc lấy 1 bát. Tối hôm trước
phải nhịn ăn, sáng mai bụng đói thì uống, sán sẽ xuống hết. Uống 2-3 lần.

Chữa tiểu buốt, nước tiểu đục
Tổ bọ ngựa trên cây dâu, mỗi lần chỉ cần một cái nướng khô, tán nhỏ, uống với rượu lúc
đói, nặng thì uống 2-3 lần là khỏi. Chuyên trị chứng “cao lâm” tiểu buốt. Ngài tằm bỏ
đầu, chân, cánh, sấy khô, tán nhỏ, giã với cơm vo thành viên bằng hạt ngô đồng, uống với
nước muối lúc đói, chữa được nước tiểu đục, trắng.

Chữa viêm họng
Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, thứ trắng như vẩy cá, giã nhỏ, lấy lụa

bọc lại thành viên, tẩm mật ngậm, có tác dụng chữa bệnh viêm họng.

Chữa viêm tuyến vú
Đọt dâu non một nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ vú sưng, lấy giấy dấp nước đắp ngoài, khi
khô lại thay, hết viêm thì thôi.

Chữa thiếu máu, mất ngủ
Quả dâu chín ngâm với đường (hoặc mật ong), mỗi ngày pha nước uống. Uống liên tục
trong nhiều ngày càng tốt. Nếu mất ngủ, nên uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.
__________________
Duyên hợp giả có - Phù phiếm vô định
Quả Dâu
Dâu ta hay còn gọi là Dâu tằm, (Dâu cho lá nuôi tằm kéo tơ) có ở nhiều
nơi. Cây Dâu nuôi tằm thì nhiều lá, quả ít và nhỏ, vị chua. Cây Dâu lưu
niên thì quả nhiều, to, đỏ, tím mọng, ngọt. Mỗi loại có đặc tính riêng tuỳ
theo mục đích sử dụng. Loại Dâu lưu niên được trọng dụng hơn. Quả dâu
có tên Hán là Tang thậm (Tang thậm tử) tên khoa học phổ biến là Morus Alba.

Trong Đông y, trái Dâu được dùng từ đời Đường. Các công trình nghiên cứu cho thấy
Dâu ta và Dâu Tầu có giá trị nuôi tằm và làm thuốc tương đương nhau.

Theo Trung dược học bản thảo: Trái Dâu tằm có công dụng bổ thận, dưỡng huyết, khu
phong, sáng mắt, tăng lực, chữa táo bón kinh niên; theo Bản thảo cương mục Lý Thời
Trân: Trái Dâu giải được độc của rượu, lợi cho cả khí, cả thuỷ trong cơ thể.

Quả Dâu ta

Cây Dâu cho lá nuôi tằm ra hoa kết trái vào tháng 2, 3. Đến mùa Thu thì trái ít và nhỏ
hơn. Giống Dâu vườn lưu niên cho quả nhiều, to, ngọt và chất lượng tốt hơn. Trồng Dâu
lấy quả phải chọn giống Dâu ít lá, lá nhỏ và mỏng. Ở miền Bắc, Công ty Đông dược Bảo

Long đã chọn quả Dâu Ba Vì (Hà Tây) để sản xuất Vang dâu cho chất lượng cao. Dâu
càng chín (tím đen) càng thơm ngọt, bớt chua chát, nhiều chất bổ dưỡng.

Theo Viện Dược liệu Bộ Y tế: Trong quả Dâu: Nước 84,71%; Đường 9,19%; Axit 8%;
Protit 0,36%; Tanin; Vitamin C; Caroten. Trong đường có glucoza, fructoza. Trong axit
có axit malic, axit sucinic. Một số tài liệu Trung Quốc cho biết: Cứ 100g quả Dâu có 1,6g
anbumin, 0,4g chất béo, 9,6g chất đường, 20mg caroten, 30mg canxi, 33mg phốtpho,
0,3mg sắt.

Thu hoạch dâu chín phải nhẹ tay, không để dập nát, gây lên men, không chất đống, thiếu
không khí, dễ gây giảm chất lượng của các chế phẩm. Chế biến quả Dâu bằng nhiều cách,
từ đơn giản đến phức tạp: nước ép Dâu, cao Dâu, Dâu ủ men, Dâu hấp, mứt Dâu, bột
Dâu, Dâu xào thịt… Trong các chế phẩm đó, có khi chỉ dùng trái Dâu, có khi phối hợp
thêm nhiều thức ăn hay các vị thuốc Đông y khác để phục vụ cho mục đích điều trị khác
nhau.

Quả Dâu chín có tác dụng chữa bệnh rất tốt

Bổ can thận, ích tâm huyết, thính tai, sáng mắt, lợi xương khớp - Rượu tang thậm (Tang
thậm tửu). Trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: Quả Dâu tươi, chín 5000g, Gạo
nếp 6000g. Men rượu vừa đủ. Quả Dâu phi chín đều, ép lấy nước, đun sôi để nguội, cho
cơm nếp, men rượu, trộn đều cho vào bình ngâm. Ngày uống mỗi lần 30 - 50 ml/ngày,
vào 2 bữa cơm.

Dưỡng huyết đen mượt tóc (Trung y mỹ dung): Quả Dâu tươi chín 50g. Đường phèn vừa
đủ. Quả Dâu rửa sạch, cho vào nồi đất, cho nước vừa đủ, sắc lấy nước, hoà đường phèn
để uống. Có thể uống thường xuyên, nhất là về mùa hè.

Các bệnh tuổi già: Nhức mỏi cơ xương, khớp, đau lưng gối, hoa mắt, ù tai, chóng mặt,
táo bón, kém ăn, yếu sức, đoản hơi, tóc râu khô bạc, rụng, hay quên, lẫn.


*Cháo qủa Dâu: Quả Dâu chín 40g, Gạo cũ 50g, Đường phèn vừa đủ. Nấu cháo loãng, ăn
buổi sáng (khi chưa ăn gì, bụng còn đói), rất tốt với trẻ em, người già, yếu, ốm dậy.

*Bánh mè quả Dâu: Quả Dâu 30g, Vừng đen 60g, Bột nếp 700g, Bột gạo tẻ, hạt Đay 10g,
Đường trắng 30g. Làm bánh, hấp chín.

Tóc khô gẫy, rụng, chóng bạc:

* Quả Dâu 100g, rượu 1/2 lít, ngâm 3 ngày. Uống ngày 2 bữa cơm. Mỗi lần 20ml.

* Quả Dâu, Sinh địa, mỗi thứ 30g, Đường trắng 15g. Giã nát, sắc uống, chia 10 lần uống.

Mất ngủ cấp tính: Quả Dâu tươi 60g (khô 30g) sắc uống 2 lần/ngày vào chiều tối.

Mất ngủ kinh niên: Quả Dâu 15g, Thục địa 15g, Bạch thược 15g sắc uống.

Các chứng bệnh sau đẻ: (hậu sản do âm huyết kém; ho, sốt): Dâu, Long nhãn, Đẳng sâm,
mỗi thứ 30g, nghiền nát 3 thứ. Uống mỗi lần 2 - 3g với nước đun sôi để nguội, ngày 3
lần.

Hồi hộp, tim đập nhanh, đau tức ngực: Quả Dâu 30g, Ngân nhĩ 20g, Ô mai 3g. Sắc kỹ
uống ngày 2 lần.

Ho lâu ngày do phế hư: Quả Dâu 150g, Lá Dâu 100g, Vừng đen 100g, cô cao lỏng, thêm
500g đường, uống ngày 3 lần. Mỗi lần 15g (1 thìa con).

Phù thũng: Cành Dâu một nắm, băm nhỏ, đổ ngập nước, đun còn một nửa bỏ bã; Dâu
chín lấy một lượng bằng lượng cành, nấu nhừ lọc bỏ bã cô đặc, cho đường, ít rượu, ngày
uống 2 thìa canh, hoà nước cơm uống trước bữa ăn.


Chảy nước mắt sống (Nước mắt tự nhiên chảy ra): Quả Dâu 20g, Cà chua một quả, đem
nghiền nát. Ăn hết một lần. Ngày 1 - 2 lần. Đồng thời lấy lá Dâu già, chưa rụng, nấu lấy
nước rửa mắt hàng ngày.
Ăn không tiêu, trướng bụng óc ách, tức thở: Quả Dâu 10g, Bạch truật 6g, sắc uống.

Hoạt huyết, dưỡng huyết thông kinh - chữa bế kinh do huyết ứ: Quả Dâu 15g, Hồng hoa
3g, Kê huyết đằng 12g, Rượu trắng 1 thìa con (15ml). Cho tất cả vào nồi, nấu lấy nước,
bỏ bã. Ngày 1 thang, uống trong 5 - 7 ngày.

Ra nhiều mồ hôi, mồ hôi trộm: Quả Dâu, Ngũ vị tử. Mỗi loại 10g, sắc kỹ còn 1/2, uống
ngày một lần.

Bệnh mạch vành: Quả Dâu 30g, Câu kỷ tử 30g, Gạo dính 15g. Nấu uống ngày 2 lần.

Phó Đức Thuần
CTQ 22
__________________

×