Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Số liệu thống kê kiểm tra nồng độ chì trong xăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.27 KB, 26 trang )

Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
Số liệu thống kê
Kiểm tra nồng độ chì trong xăng
Các nhà phân tích chính sách phải giải quyết nhiều bằng chứng. Do sự hạn
chế về thời gian và những vấn đề về chính sách buộc các nhà phân tích phải dựa
vào các số liệu định lợng. Tuy nhiên đôi khi họ thấy số liệu giúp ớc tính quy mô
của những tác động chính sách tới điều kiện - xã hội - kinh tế - chính trị, giúp họ
tính toán lợi ích thực của các chính sách hoặc thậm chí áp dụng kỹ thuật để tìm các
phơng pháp thay thế.
Hiệu quả của sử dụng số liệu định tính đòi hỏi hiểu biết các vấn đề về mô
hình nghiên cứu và trợ giúp bằng các kỹ thuật số liệu. Ngay cả khi các nhà phân
tích không đủ nguồn để phân tích số liệu, họ đối mặt với những bằng chứng định l-
ợng trong chính sách hoặc lấy từ văn học nghiên cứu. Nếu thiếu kỹ năng đánh giá,
họ sẽ chịu ảnh hởng các bằng chứng khách quan và khoa học. Những nhà phân tích
giỏi cần cơ sở về số liệu tốt nếu không có các nguồn khác.
Những nền tảng nghiên cứu và số liệu không thể bao quát việc phân tích
chính sách chúng ta không thể bao quát hết trong sách này. Nhng chúng tôi đa ra
vài ví dụ về thay đổi chính sách mà phân tích định tính là cần thiết: Quyết định của
cơ quan bảo vệ môi trờng học kỳ năm 1985 gảm lợng chì trong xăng. Việc này cần
một số nhân tố khi mà phân tích định tính của tổ chức này; thay tế phân tích ban
đầu bằng phân tích tinh vi hơn vì có nhiều thời gian và số liệu, phân tích lại để giải
thích cho những ngời phản đối chính sách và những sự kiện ảnh hởng chính sách
phân tích lại để giải thích cho những ngời phản đối chính sách và những sự kiện
ảnh hởng chính sách phân tích. Mặc dù mục đích là cho biết những gì chúng ta tin
vào sự việc này, chúng tôi vẫn hy vọng cung cấp những bài học cơ bản về phân tích
định tính.
1
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
Thông tin cơ bản về mức chì của EPA
Đạo luật môi trờng sạch 1970 cho phép thành viên của các cơ quan bảo vệ
môi trờng CEPA điều chỉnh thành phần phụ của nhiên liệu phơng tiện giao thông


gây ra các chất có hại cho sức khoẻ con ngời. Trớc đó, các thành viên phải xem xét
mọi bằng chứng và các biện pháp nhằm đặt mức chuẩn về khí thải chứ không
phải là thành phần nhiên liệu.
Năm 1971, nhân viên của EPA cho biết họ đang xem xét điều chỉnh độ chì
trong xăng, lý do là hậu quả của khí thải tốt do đốt năng có chì tới sức khoẻ con
ngời. Bằng chứng cho thấy chì độc cho cơ thể là bị hít vào bằng đờng hô hấp. Lý
do nữa là điều chỉnh lợng chì sự chuyển đổi nhằm giảm lợng Hydrocacbon từ xe
cộ. Lý do thứ nhất cho thấy việc này rất cần thiết, lý do thứ hai cho thấy lợng chỉ
giảm cần đợc đo đạc bằng máy kiểm tra. Tại sao Chính phủ lại phản tối vấn đề
này? Tại sao họ quyết định lắp đặt máy kiểm tra. Phân tích sau không đơn thuần
giải thích sự cần thiết của máy kiểm tra. Máy kiểm tra và giảm lợng chì liên quan
tới thị trờng, thông tin về tác động của chì tới sức khoẻ. Vì khoẻ không giảm đi qua
nhiều năm, thị trờng không hiệu quả ít thông tin. Những thất bại này cần có sự
xem xét của Chính phủ.
Nhng sự can thiệp này rất tốn kém, có thể vợt cả lợi ích. Vấn đề là so sánh
giá cả và lợi ích; tác động của xăng chì tới con ngời, môi trờng là gì? Chúng thay
đổi ra sao khi đợc cộng đồng tác động? chi phí cho việc này và lợi ích kinh tế của
nó? Cuối cùng, phơng pháp nào giúp đạt đợc lợi ích cao nhất?
EPA đã phát hiện ra những vấn đề này. Một năm sau khi giảm lợng chì,
EPA đề xuất phơng pháp điều chỉnh vào 1972. Sau khi tham khảo ý kiến, EPA đa
ra các yêu cầu các máy lọc chì trong xăng để xe mới sử dụng vào 1975 kèm theo
các máy kiểm tra. Đồng thời, EPA đề xuất giảm chì vì lý do sức khoẻ con ngời.
Việc này còn gây nhiều tranh cãi. Máy lọc coi chì là chất phụ trong xăng vì nó
tăng octan mà không gây áp lực và các nhiên liệu khác cần phải cân bằng quá trình
2
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
biến đổi. Các tổ chức môi trờng ủng hộ những điều chỉnh này là Uỷ ban bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên khuyến khích EPA đa ra những điều chỉnh cuối cùng
vào28/11/1973. Theo đó lợng chì trong xăng giảm theo từng giai đoạn. Vào 1979.
Mức trung bình là 0,5gr/gallon (gpg) xăng. Việc này bị một toà án cả trở và vấn đề

xăng trong 1979, giá dầu biến động theo cách mạng Iran. Do đó, mức 5 gpg không
đợc áp dụng co tới 1/10/1980.
Vào 1982, EPA đề cập tới vấn đề, xăng chì nhằm đáp ứng nhu cầu tăng,
máy lọc phải tăng nồng độ chì và mức độ là 0,5gpg. Vào tháng 2 EPA thông báo 1
bài báo cáo về mức chì năm 1973 và tháng 8 đề xuất mức chì mới thay vì lợng chì
trung bình hiện có. Nguyên tắc cuối cùng đa ra 10/1982 đạt mức 10gpg (tơng đơng
với mức cũ theo mức độ thải chì 0,5 pgg trên 100% xăng so với 1,1pgp trên 45%
xăng) vì lợng xăng chì theo dự tính tiếp tục giảm, mức giảm liên quan tới sự thài
chì. Mặc dù áp dụng chậm nhng đã đặt giai đoạn cho các điều luật mới cho phép
giảm chì qua quá trình lọc. Ví dụ nhà lọc đợc phép sản xuất 1.20gpg xăng nếu nó
trao đổi với một nhà máy khác sản xuất lợng 1.00pgp để lợng trung bình là
1.100pgp.
Nguồn gốc của mức năm 1985 phát biểu tại cơ quan EPA. Mấy tuần sau,
Schwartz và Jane Leggett bắt đầu 2 tháng nỗ lực thực hiện báo cáo ban đầu này.
Tập hợp các báo cáo
Nhiệm vụ dành cho Schwatz và Lggett là thúc đẩy phơng pháp tính toán tác
dụng của lệnh cấm. Bí quyết của xem xét tác dụng của việc tránh làm hại máy rất
phức tạp trong tính toán. Bí quyết để nâng cao tính toán tác dụng của việc giảm chì
cần đánh giá quan hệ giữa chì trong xăng và trong máu. Các phân tích là phần
quan trọng.
Các loại phơng tiện thay đổi liên tục, một số gây ô nhiễm máy chuyển nhiên
liệu đã bị loại bỏ và thay thế phơng tiện mới tốt cho máy. Lệnh cấm chì có ảnh h-
3
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
ởng nhiều tới phơng tiện giao thông. Ví dụ, xe cộ có thể bị phá hỏng và phải bảo d-
ỡng dài kỳ.
Các nhà phân tích phát triển phơng pháp chế tạo mà mỗi năm cung cấp thêm
lợng xe. Mỗi năm lợng xe hỏng do tai nạn và trục trặc kỹ thuật. Thêm vào đó, một
phần hỏng vì dùng nhầm nhiên liệu. Có thể dự đoán lợng máy đợc tiết kiệm mỗi
năm do giảm chì. Tránh suy thoái máy đợc tính toán qua mỗi năm

Hai xem xét quan trọng trong quá trình xe cộ hoạt động đợc cụ thể hoá. Chì
có thể gia tăng chi phí bảo dỡng xe. Do đó, những lợi ích mới cần đợc tính toán khi
dùng kiểu xe mới. Một số động cơ có thể hỏng van nếu chạy bằng xe không chì.
Mặc dù vấn đề còn hạn chế, nó cũng chỉ ra nhu cầu cần xe xét lại lệnh cấm.
Nỗ lực cải thiện mối liên hệ giữ chì trong xăng và chì trong máu nên chú
trọng tới phân tích số liệu từ nghiên cứu điều tra về dinh dỡng và sức khoẻ quốc gia
(NHANES II). Nghiên cứu này có nguồn gốc từ số liệu của trung tâm y tế quốc
gia, nhằm đa mẫu dân số từ đó độ tuổi 6 tháng đến 74 năm, gồm 27.801 ngời ở
tuổi 64 đại diện cho các vùng từ 1976 1980. Trong 16.563 ngời đa mẫu máu,
61% phản ứng lại. Nồng độ chì trong máu đợc đo để tìm số liệu dùng đo mức máu
trung bình trong giai đoạn 4 năm. Lợng chì trong xăng đợc bán trong thời kỳ này
có thể liên quan tới nồng độ chì trong máu.
Mối liên hệ giữa chì trong máu và trong xăng do các nhà nghiên cứu có lý
do xem xét lại mức chì năm 1983. Thành viên của EPA đề cập rằng nhiều thành
phố không đạt mức 0zon năm 1987. Ozon có trong khói, sản phẩm của thải
Hydrocabon và Nitơ Oxit phản ứng với không khí. Máy kiểm tra tốt giảm mức khí
thải. Máy này đợc dùng đo xăng không chì, không có hiệu quả với xăng chì. Vì
xăng chì rẻ và máy chạy tốt hơn xăng không nên ngời tiêu dùng nhiều xe với máy
chuyển đổi xăng chì. Nghiên cứu của EPA cho biết 13,55 xe sử dụng sai nhiên
liệu. Giảm lợng chì có thể giải quyết vấn đề theo 2 cách. Thứ nhất, giảm u thế tiết
4
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
kiệm bằng cách tăng giá xăng chì so với xăng không chì. Thứ hai, giảm lợng chì
gây ra sự suy thoái trong máy chuyển đổi nhiên liệu.
Nhân tố khác là tác động tới sức khoẻ của xăng chì. Bằng chứng mới cho
biết mối liên hệ giữa chì xăng và chì trong máy là rất chặt chẽ. Môi trờng bên
ngoài rất thuận lợi. Nhiều nhóm môi trờng ủng hộ cấm sử dụng chì, vì thế nhiều
ngời này hy vọng hạn chế chì giúp nâng cao sức khoẻ . Ngoài ra, toà án Hoa Kỳ tại
quận Columbia phản đối luật giảm lợng chì. Ngoài ra cho rằng những bằng chứng
ủng hộ EPA cấm sử dụng xăng chì. Lãnh đạo EPA đợc giao nhiệm vụ xem xét

dự án. Ông ta nói chuyện tới Joel Schwart nhà phân tích kinh tế đã đặt mức năm
1982. Schwart dùng kinh nghiệm để hoàn thành một bài phân tích chi phí trong 2
đến 3 ngày nhằm cấm sử dụng chì trong xăng.
Lệnh cấm đợc xem xét năm 1982 do đó Schwart có thể kết luận đợc ớc tính
hợp lý về giả cả. Cũngdễ dành đánh giá đợc các nguyên tắc về sức khoẻ và an toàn
nhng khó đánh giá đợc lợi ích của lệnh cấm này. Ông đa ra 2 lợi ích chỉ số IQ của
trẻ em tăng vì lợng chì trong máu giảm và giảm thiệt hại đối với máy chuyển nhiên
liệu.
Ông sử dung nhiều nguồn t liệu liên quan tới hiện tợng thải chì và đánh giá
về việc tăng tuổi thọ cho trẻ em. Bớc đầu là dùng số liệu năm 1982 phân tích quan
hệ giữa thải chì và chì trong máu. Tiếp đó ông tiến hành nghiên cứu về quan hệ
giữa lợng chì - chỉ số IQ. Cuối cùng nghiên cứu cho thấy sự đóng góp của IQ vào
sức lao động tơng lai.
Shwartz ớc tính chi phí của máy chuyển nhiên liệu bị ô nhiễm do mức chì
hiện tại. Ông dùng một số máy này tiết kiệm giá cả và cho rằng chính những máy
này có tác dụng tốt hơn, cách đo đạc này có vẻ không linh hoạt. Cách tính này cho
rằng lợi ích của lênh cấm chì sẽ bù đắp trong khi phó. Schwartz thảo luận kết quả
với các đồng nghiệp Martin Wagner nghiên cứu phát hiện, đợc thể hiện cụ thể ở
phòng 15/1 do Jame Pickle từ trung tâm kiểm soát dịch bệnh đa ra để đo nồng độ
5
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
chì trong máu và trong xăng. Hơn nữa còn phải tính toán chi phí và lợi ích.
Schwartz dùng nhiều kỹ thuật mà chúng ta sẽ xem xét kỹ ở phần sau để tính mức
tăng trung bình Microgram chì trong mỗi decilit máu (Mg/dl). Ông cũng áp dụng
mô hình tính toán khả năng trẻ em có các triệu chứng ngộ độc chì trong máy do l-
ợng chì trên 30mg/d
Hình 15.1 Chì trong sản xuất xăng và lợng chì trung bình trong máu theo
tính toán của NHANER II (2/1976- 2/1980)
T liệu: J.S, H.P, R.L, B.) và A.N, chi phí và lợi nhuận của giảm chì trong
xăng. Phân tích kết luận (W.D.C) cơ quan bảo vệ môi trờng H.K, cơ quan phân tích

chính sách 2/1985).
Yếu tố này đợc dùng để dự đoán số lợng trẻ em có thể tránh ngộ độc nếu có
lệnh cấm chì
Đầu 11/1983, Schwert và Leggett kết hợp các phân tích của họ và tìm ra tỷ
lệ giữa lợi nhuận và chi chí của lệnh cấm toàn bộ. Họ trình bày kết quả với ngài
phó chủ tịch Alm. Ông này đã khuyến khích họ, chuẩn bị để trình bày với ngài chủ
tịch. Những căn cứ của lệnh cấm mới Alm cũng muốn các chuyên gia của EPA
đánh giá kết quả, giục họ tăng tốc để buộc các nhà máy sản xuất giảm lợng chì tr-
ớc khi EPA có bằng chứng.
6
Chì có trong xăng
Lượng chì trung bình
trong máu
Tổng lượng chì được sử dụng
trong 6 tháng (1000 tấn)
Lượng chì trungbình trng máu
(decitit)
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
Một nhóm phân tích đợc bổ sung xúc tiến việc chuẩn bị báo cáo giửi cho
ngài chủ tịch. Schwartz, Legett, Ronnie, Levin, Hugh Pitcher và Bart Ostro là các
chuyên gia về tính toán tác dụng của việc giảm 0zon. Cha đầy 1 tháng, nhóm này
đã hoàn thành bản báo có nháp để đợc xem xét ban đầu.
Những nỗ lực thay đổi phơng pháp phân tích. Do vấn đề đầu van, phân tích
tập trung vào việc giảm chì trên mỗi gallông xăng cũng nh lệnh cấm toàn bộ.
những bằng chứng cho thấy mức 0,1g/lg có thể tránh việc hỏng van trong động cơ
chạy bằng xăng chì. Đồng thời, những nỗ lực nhằm địng lợng ghi phí bảo dỡng có
thể đợc.
Vào cuối tháng 12, bản báo cáo đợc gửi tới các chuyên gia để nhận ý kiến
bình luận. Danh sách các kỹ s, các nhà kinh tế học, các nhà phân tích sinh học, các
nhà nghiên cứu y khoa, chuyên gia giao thông và các nhà tâm lý học. Trong suốt

1/1984 nhóm này phân tích và kết hợp các ý kiến nhận xét của các chuyên gia bên
ngoài.
Cuối cùng, đầu tháng 2, nhóm này đã sẵn sàng trình bày kết quả lên EPA.
ngài chủ tịch chấp nhận rằng phân tích của họ đã hỗ trợ cho chuẩn mực 0,1gpg chì
mới và yêu cầu họ hoàn thành báo có để ra mắt công chúng đồng thời ông yêu cầu
văn phòng hỗ trợ soạn thảo những nguyên tắc mới.
Báo cáo dự thảo của nhóm đợc ,,,, và ra mắt công chúng vào 26/3/1984.
Nhóm tiếp tục phân tích và dành thời gian cải thiện các quan hệ đối ngoại. Nhóm
gặp gỡ với các nhà phân tích OMB 1 vài lần trớc khi chấp nhận những phân tích về
lợi và hại để đa ra mức cấm chặt chẽ hơn.
Môi trờng chính trị khá ổn định. Nhng các nhà máy lọc và sản xuất chì vẫn
phản đối. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận lệnh cấm vận mới trong một vài năm đầu vì
các thiết bị cũ còn tồn tại. Vì thế, nhóm này bắt đầu nghiên cứu lợi ích và hại của
lịch trình áp dụng luật.
7
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
Các nhà sản xuất chì sẵn sàng đờng đầu với khó khăn mới. Vào tháng 5,
Schwatz tham dự một cuộc hội thảo tại trung tâm kiểm soát dịch bệnh tại Atlanta,
Georgia về vấn đề lợng độc tố chì trong máu của trẻ em đợc đa ra sẽ giảm từ
30Mg/dl xuống 25Mg/d/. Đại diện của các nhà sản xuất chì cũng có mặt, họ lập kế
hoạch sẽ pha chế thêm Beren vào xăng nhằm tăng lợng Octan nếu chì bị giảm.
Schwartz nghiên cứu ý kiến này sau hội thảo và thấy với khả năng này tổng lợng
benzen vẫn giảmvì giảm mức ô nhiêm của máy lọc, máy sẽ làm ô xi hoá benzen
nếu có bị ô nhiễm. Vào ngày những luật mới đợc ra mắt, Schwortz đã tạo đà cho
việc sử dụng benzen
EPA xuất bản luật mới vào 2/8/1984. Họ yêu cầu mức chì trong xăng cho
phép phải giảm xuống còn 0,1gplg vào 1/1986. Yêu cầu cho thấy EPA dự đoán
luật mới có thể đợc thực hiện bằng các thiết bị mới nhng chỉ ra rằng giai đoạn
chuyển đổi cần giảm dần cuối cùng, đề xuất này làm tăng khả năng lệnh cấm chì
trong xăng và đợc thực hiện vào 1995.

Xem xét cụ thể quan hệ giữa chì trong xăng và chì trong máu.
Tính toán những lợi ích trực tiếp tới sức khoẻ khi thực hiện lệnh cấm đòi hỏi
số liệu về sự tác động của chì tới máu. Số liệu của NHANE II cùng với thông tin về
lợng chì trong xăng giúp nhóm nghiên cứu hoàn thành những thông lệ cần thiết.
Những nỗ lực của họ cung cấp những phân tích hoàn hảo cho việc đa số liệu vào
phân tích chính sách.
Nhu cầu về những phân tích đa dạng
Xem hình 15.1 ta có thể thấy quan hệ chặt chẽ giữa chì trong xăng và chì
trong máu. Tại sao cần xem kỹ hơn lý do là khó khẳn trong trả lời đợc những câu
hỏi thực nghiệm: Lợng chì trong máy trung bình ở Hoa Kỳ giảm bao nhiêu với việc
giảm 1000 tấn chì ở mỗi đơn vị xăng và chì trong máu thay đổi do thay đổi chì
trong xăng. Nhng có nhiều câu trả lời khác nhau cho vấn đề trọng tâm.
8
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
Bảng 15.2 phân tích khác biệt giữa quan hệ này và quy mô ảnh hởng.
Nếu số liệu đợc trình bày bằng hình tam giác thì chúng ta có thể đoán đúng
về quan hệ giữa chì trong xăng và trong máu. Hiệu quả của việc đợc chì trong máu
trong xăng từ 500tấn/ngày còn 400 tấn/ngày là giảm đợc chì trong máy trung bình
từ 10,1Mg/dl xuống 10Mg/dl. Mẫu số liệu đợc trình bày bằng hình chấm thể hiện
quan hệ giống nh số liệu tam giác đã thể hiện. Mặc dù 2 số liệu có cùng thể hiện
nhng thể hiện số liệu bằng dấu chấm thể hiện tác động của xăng chì tới máu lớn
hơn so với số liệu trớc.
Chì trong xăng (100tấn/ngày)
Bảng 15.2: Mẫu số liệu thể hiện 2 quan hệ giống nhau nhng với 2 dòng khác
nhau
Mặc dù chúng ta đã biết số liệu ở hình 15.1, phân tích vẫn cha hoàn chỉnh vì
quan hệ này có thể còn phải xem xét. Chì trong xăng và trong máu có thể không
liên quan trực tiếp với nhau nhng chúng có thể hiện qua tới những cải tiến chúng
thay đổi. Phân tích cổ điển về vấn đề này là mối liên hệ này đôi khi nằm ở mật độ
và tỷ lệ sinh.

Tất nhiên, có những giải thích dễ chấp nhận hơn. Phơng pháp đo mức độ
quan hệ giữa tỷ lệ và mật độ sinh ở vùng nông thôn - nông dân muốn sinh con để
giúp làm việc nhà và mở rộng đất đai, khu vực đô thị có xu hớng 1 con. Mẫu này
9
Lượng chì trong máu trung bình
(Mg/de)
Dòng 2
Dòng 1
Nguyễn Thị Vân Anh Quản lý kinh tế K43 A
cho thấy cả khu vực nông thôn và thành thị có thể đợc đợc liên hệ giữa mật độ và
tỷ lệ sinh. Nếu chúng ta xem xét quan hệ này riêng rẽ chúng ta có thể thấy quan hệ
giữa tỷ lệ và mật độ sinh sẽ trở nên khó phát triển.
Một nghiên cứu dựa trên mẫu ngẫu nhiên những phản ứng sống từ 1972 đến
1974 tại Wiekhem, England. Sau 20 năm, 24% phụ nữ này cho thấy tỷ lệ tử vong
do hút thuốc không lớn. Độ tuổi có thể có liên hệ với nguy cơ tỷ lệ tử vong cao vì
hút thuốc, 1 nhóm có tỷ lệ tử thấp do hút thuốc bà nhóm cao tuổi nhất tỷ lệ rất cao
cả ở ngời hút thuốc là không hút thuốc. Chỉ nhìn vào những ngời phụ nữ từ 18
45 trong 172, 66% ngời hút thuốc, chỉ 3,8% ngời không hút thuốc chết. Rõ ràng,
kết quả đáng ngạc nhiên này là hệ quả của việc nhóm tuổi khác nhau cha không
phải do tác động của hút thuốc.
Trở lại với phân tích chì, chúng ta cần phải biết rằng 1 hoặc nhiều cách giải
thích về chì trong xăng và trong máu. Ví dụ, có bằng chứng cho thấy những ngời
hút thuốc có lợng chì trong máu cao hơn những ngời không hút thuốc. Có thể qua
giai đoạn số liệu của NHANES II đợc phân tích, tỷ lệ ngời hút thuốc giảm, do đó
xu hớng giảm chì trong máu là do giảm hút thuốc chứ không phải do giảm chì
trong xăng.
Để quyết định liệu hút thuốc có liên quan không, chúng ta phải xây dựng 2
biểu đồ tách biệt giống ở hình 15.2 dành cho ngời hút thuốc và không hút thuốc.
Bằng cách này, chúng ta có thể xem xét khả năng những thay đổi trong tỷ lệ ngời
hút trong mẫu khảo sát về lợng chì trong máu. Nếu chúng ta ghép các dòng song

song nhng không giống nhau thì sự khác biệt nằm theo trực dọc thể hiện tác động
của hút thuốt lên chì trong máy. Nếu 2 dòng không song song, chúng ta thấy hút
thuốc liên quan tới việc tiếp xúc với xăng chì nên tác động chỉ là những ngời hút
thuốc ít nhất tiếp xúc với xăng chì.
Với số liệu hạn chế, chúng ta luôn điều chỉnh các phơng án theo nhiều cách.
Tuy nhiên với mẫu cố định, chúng ta thờng trải dài số liệu nếu muốn hình thành số
10

×