Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Tổng hợp và Phân tích Văn bản hki lớp 9 mới nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.13 KB, 73 trang )

TỔNG HỢP ĐIỂM KIẾN THỨC VĂN BẢN HỌC KỲ I
LỚP 9
 Note: - Ghi nhớ là phần để viết “ĐÁNH GIÁ CHUNG” khi phân tích văn bản
-



I)

Kiểu văn bản và phương thức biểu đạt CHỈ CĨ Ở TRUYỆN, KHƠNG Ở THƠ
Các chữ được viết bằng màu cam là phần ghi chú thêm hoặc mở rộng để làm NLVH
Các tựa bài được tơ nền màu tím là những bài đã lâu rồi chưa ra thi TS, cần ôn kỹ
Những phần được viết bằng kiểu chữ Calibri Light (Headings) là phần không
quan trọng, không cho ra thi
- Các nghệ thuật (+) được tơ nền màu xanh có xuất hiện trong bài làm mẫu của GV Đài
Trang, nhưng được viết lại theo lối viết, văn phong của người soạn đề cương
- Riêng THƠ được viết bằng kiểu chữ Consolas, còn lại đều là Times New Roman
- Ở một vài bài sẽ có cái từ ngữ được tô nền màu vàng, là từ ngữ đắt giá của các bài thơ
- Phần giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” chỉ được ghi đầy đủ
trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, hai đoạn trích cịn lại chỉ được VIẾT SƠ LƯỢC
Mục lục: 1) Chuyện người con gái Nam Xương ………. 1
2) Hoàng Lê Nhất Thống Chí ……………….. 3
3) Chị em Thúy Kiều ………………………... 4
4) Cảnh ngày xuân …………………………... 8
5) Kiều ở lầu Ngưng Bích ……………………11
6) Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ……...14
7) Đồng chí ………………………………….. 17
8) Làng ………………………………………. 21
9) Đồn thuyền đánh cá ……………………... 24
10) Bếp lửa ………………………………….. 28
11) Lặng lẽ Sa Pa ………………………….... 33


12) Chiếc lược ngà ………………………….. 36
13) Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính ……..... 39
14) Ánh trăng ……………………………….. 46

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (THẾ KỈ XVI):
1) Tác giả: Nguyễn Dữ: Học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống ở thế kỉ
XVI, thời kì triều định nhà Lê bắt đầu khủng hoảng – mở đầu cho chặng dài lịch sử tối tăm
của xã hội phong kiến: loạn lạc triền miên, dân tình khốn khổ. Ông học rộng tài cao nhưng
chỉ làm quan một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như các tri
thức đương thời. Sự nghiệp văn học tuy khiêm tốn nhưng có giá trị vô cùng lớn với nền văn
học Việt Nam
2) Xuất xứ: Trích “Truyền kì mạn lục” (truyện thứ 16) - ghi chép tản mạn những điều kì lạ
vẫn được lưu truyền, viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện với nhiều đề tài phong phú, có nguồn
gốc từ Trung Quốc, được các nhà văn Việt Nam tiếp nhận dựa trên những chuyện người thật
việc thật hầu hết ở nước ta, mang đậm giá trị nhân bản, ước mơ khát vọng về một xã hội tốt
đẹp.
3) Thể loại: Truyện ngắn
4) Phương thức biểu đạt: Tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm
Kiểu văn bản: Tự sự


5) Đại ý: Vũ Nương đẹp người đẹp nết nhưng số phận bất hạnh
6) Bố cục: - Phần 1: Từ đầu … cha mẹ đẻ mình: Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nượg
- Phần 2: Tiếp theo … nhưng việc trót đã qua rồi: Nỗi oan của Vũ Nương
- Phần 3: Tiếp theo … hết: Vũ Nương được giải oan
7) Phẩm chất nhân vật: Vũ Nương là người vợ chung thủy, là người con dâu hiếu thảo, là
người mẹ hết lòng thương con.
8) Dẫn chứng trực tiếp: A) Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương: - Vũ Nương đẹp người đẹp
nết nhưng xuất thân bình dân: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, “con nhà
kẻ khó”

- Cảm kích trước vẻ đẹp nên Trương Sinh mới bỏ tiền ra cưới về: “đem trăm lạng vàng cưới
về” => vẻ đẹp nhan sắc, lẫn phẩm chất của Vũ Nương được thể hiện rõ nét, mang trên mình
chuẩn mực của Nho giáo thời xưa đối với người phụ nữ “cơng dung ngơn hạnh – tam tịng tứ
đức”
*Với chồng: - Vũ Nương nhẫn nhịn chịu đựng, hiền thục, có ý thức vun vén, xây dựng và
giữ gìn hạnh phúc gia đình đầm ấm, n vui: “Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng
ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khn phép, khơng từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất
hòa”. -> Ước mơ chung của mọi người phụ nữ
- Vũ Nương không tham vinh hoa phú quý, không màng danh lợi, yêu thương,
lo lắng cho chồng; chung thủy: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn
hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn lường.Giặc cuồng cịn lẩn lút, qn triều cịn gian
lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hồi, mẹ già
triền miên lo lắng.Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ
bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ
khơng có cánh hồng bay bổng”. -> Đặt hạnh phúc gia đình lên hàng đầu, không bận tâm đến
công danh phù phiếm, thấu hiểu tận lòng sự gian lao, nguy hiểm, gửi đi niềm thương nhớ
khắc khoải chẳng cách nào nguôi ngoai của nàng
=> Lời nói thùy mị, nết na, yêu chồng hết mực. Đây là lời nói xuất phát từ trái tim, chấp nhận
đợi chờ để người yên tâm đi xa. Thế mới thấy, khát vọng của phụ nữ bình dị thật, chẳng cần
đến giàu sang phú quý, có được một mái nhà yên vui đã là mãn nguyện lắm rồi!
- Khi chồng đi lính, nàng lúc nào cũng nhớ nhung, yên thương hết mực: “Mỗi khi bướm lượn
đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”.
*Với mẹ chồng: - Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo:
+ “Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy
lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. (nàng thay Trương Sinh làm tròn bổn phận của một
người con)
+ “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dịng tươi tốt, con cháu đơng đàn,
xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
+ “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”.

+ Lời trăn trối của mẹ chồng là minh chứng xác thực nhất để khẳng định lòng hiếu thảo, tình
cảm chân thành và cơng lao to lớn của nàng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con
đã chẳng phụ mẹ.”
*Với con trai: Vũ Nương là người mẹ đảm đang, hết lòng thương con:


+ Một mình vượt cạn sinh ra con, vừa thực hiện thiên chức của người mẹ là chăm sóc, vừa
đảm nhận luôn cả thiên chức của người cha là dạy dỗ, ni nấng con.
+ u thương con, tâm lí, lo lắng cho con cả về mặt tinh thần, từ ngày sinh ra đã chưa thấy
mặt cha, nàng muốn con có tình thương đủ đầy của cha mẹ nên chỉ vào cái bóng mình trên
tường mà bảo “cha Đản”
=> Hồn thành tốt trách nhiệm của người vợ, người con, người mẹ, người cha, người trụ cột
gia đình, người thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương trong căn nhà vắng bóng người
đàn ơng. Đáng lí ra những gì nàng nhận được phải là hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất, nhưng
thay vào đó lại bị vu oan oan uổng đến bước đường phải tự tử.
B) Số phận của Vũ Nương: - Vũ Nương bị oan: Vũ Nương bị Trương Sinh nghi oan
khơng chung thủy – tự vẫn ở sơng Hồng Giang.
+ “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu.Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi
vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày
tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.” (Vũ Nương chung thủy,
son sắt với chồng, mong muốn phân trần để chồng tỏ rõ tấm lịng mình, nhắc đến thân phận, tình
nghĩa giữa nàng và Trương Sinh, chỉ mong chồng đừng nghi oan, chỉ mong có chút hy vọng hàn
gắn cái hạnh phúc đang đứng trên bờ vực này).
+ “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu
xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu cịn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa.” (Sự tiếc nuối
của Vũ Nương khi rời xa chồng, nàng đau đớn thất vọng không hiểu cớ sự gì đã khiến mình bị
nghi oan như vậy, cái khao khát cả đời nàng dày công vun vén, bồi đắp từng ngày từng ngày đã
tan vỡ, nàng bị đối xử bất cơng, bị mất đi tình u nàng một lịng trân quý. Cái nỗi đau khổ chờ

chồng hóa đá, ngày tháng sau này có lẽ chẳng cịn cơ hội làm nữa rồi…)
+ “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sơng có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn
lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim
dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cả tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin
chịu khắp mọi người phỉ nhổ.” (lời độc thoại, trăn trối trước khi tự vẫn, là lời than, lời thề xin
thần sông chứng giám cho tiết hạnh của nàng. Phải chăng giờ đây, trong nàng ngoài nỗi đau cùng
cực và nỗi thất vọng cùng cực thì chẳng cịn gì nữa, đến độ bây giờ con đường duy nhất của nàng
chính là tìm đến cái chết, cũng là việc duy nhất nàng có thể làm lúc ấy để bảo vệ phẩm giá của
mình)
 Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương: - TRỰC TIẾP: Do lời nói ngây thơ của bé Đản
gieo rắc vào đầu Trương Sinh niềm hoài nghi


GIÁN TIẾP: + Do chế độ nam quyền gia trưởng, trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến
mà Trương Sinh là đại diện, hơn nhân khơng bình đẳng
+ Do sự phân biệt giai cấp giàu nghèo trong xã hội cũ.
+ Do cuộc chiến tranh phi nghĩa chia cắt gia định của Trương Sinh và Vũ Nương.
*Các yếu tố kì ảo hoang đường:
+ Vũ Nương tự vẫn nhưng không chết vì được các nàng tiên dưới động rùa cứu.
+ Phan Lang bị đắm thuyền được Linh Phi cứu
+ Vũ Nương trở về thoắt ẩn thoắt hiện giữa dòng ... rồi từ từ biến mất
*Ý nghĩa: +Tạo kết thúc có hậu, phù hợp với quan niệm của người xưa “Ở hiền gặp lành”
+ Bày tỏ, thể hiện tấm lòng nhân đạo của tác giả
+ Hoàn chỉnh nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương:
.) Ln nhớ q hương, chồng con.
.) Có lịng tự trọng cao
.) Trọng chữ tín
.) Thọ ơn, biết báo ơn
9) Ghi nhớ: - Nghệ thuật: Tác phẩm là một áng văn hay, được viết vô cùng điêu luyện, cho

người đọc thấy rõ chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Du. Với kết cấu độc
đáo, sáng tạo, thành công về nghệ thuật dựng truyện, xây dựng tình huống đặc sắc, miêu tả tâm
lý nhân vật – đặc biệt qua các lời đối thoại, độc thoại làm nổi bật tính cách nhân vật, lựa chọn
nhân vật mang tính điển hình kết hợp lối viết tự sự và trữ tình, có điểm thắt nút và mở nút hợp lý.
Sử dụng thể văn biền ngẫu, yếu tố tưởng tượng kì ảo hoang đường tạo sự hấp dẫn.
- Nội dung: Vũ Nương là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tâm hồn đáng được ca ngợi. Qua câu chuyện về
cuộc đời và cái chết thương tâm của nàng, “Chuyện người con gái Nam Xương” lên án những
cuốn chiến tranh phi nghĩa loạn lạc, dẫn đến gia đình li tán của những con người vô tội. Tác
phẩm cũng đồng thời phản ánh thực tại bất hạnh, thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan
nghiệt của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ – dưới chế độ phong kiến khơng
bình đẳng, lễ giáo hà khắc, trọng nam khinh nữ đang ngày ngày lộ rõ sự phi lí, chà đạp, rẻ rúng
con người, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống, đức hạnh của họ và đề cao quan niệm dân
gian: ở hiền gặp lành.

II)

HỒNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(KHOẢNG CUỐI XVIII – ĐẦU THẾ KỈ XIX):


1) Tác giả: Ngơ gia văn phái: nhóm tác giả dịng họ Ngơ Thì ở Hà Nội, làm quan thời Lê
Chiêu Thống, được Ngơ Thì Chí làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống và Ngơ Thì Du làm
dưới triều nhà Nguyễn viết 14 hồi đầu, họ là những người mang nặng tư tưởng trung
quân, ái quốc, những cây bút trung thực mang tư tưởng tiến bộ. 3 hồi cuối có thể do một
số người dịng họ Ngơ Thì viết thời đầu nhà Nguyễn
2) Xuất xứ: Trích phần lớn hồi mười bốn “Hồng Lê nhất thống chí” - thể văn ghi chép sự
vật, sự việc có tính văn học lẫn lịch sử và triết lí
Nội dung chính (Hồng Lê nhất thống chí): Khơng chỉ dừng ở sự thống nhất của
vương triều nhà Lê, còn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động khi xã hội phong

kiến Việt Nam vào rơi vào khủng hoảng, các phong trào nông dân, tiêu biểu là phong trào
Tây Sơn nổ ra khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
3) Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
4) Phương thức biểu đạt: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm
Kiểu văn bản: Tự sự
5) Đại ý: Viết về sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh
6) Bố cục: - Phần 1 (từ đầu … Mậu Thân (1788)): Được tin quân Thanh chiếm Thăng Long,
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngơi hồng đế, rhaan chinh cầm quyền dẹp giặc.
-Phần 2 (tiếp theo … rồi kéo vào thành): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng
lẫy lừng của Quang Trung
- Phần 3 (còn lại): Sự đại bại của quân Thanh và tình cảnh thảm hại của Lê Chiêu
Thắng
7) Phẩm chất nhân vật: - Sáng suốt trong việc dùng người; có tầm nhìn xa trơng rộng; ý chí
quyết chiến, quyết thắng…
- Năng lực tiên đốn chính xác của nhà quân sự tài ba; vị tướng mưu lược, kì tài trong việc dùng
binh khiển tướng
8) Dẫn chứng trực tiếp: - Sáng suốt trong việc dùng người; có tầm nhìn xa trơng rộng, có chiến
lược đánh trận và niềm tin, ý chí quyết chiến, quyết thắng…:
+ Ngày 24 tháng chạp, nghe tin báo mất cả một vùng đất đai rộng lớn ở Thăng Long, giận lắm,
liền họp các tướng sĩ, xông xáo muốn giải quyết nhanh gọn, có chủ đích, chẳng hề nao núng mà
định thân chinh cầm quân đi ngay.
+ Ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788), ngay thời điểm hàng chục vạn quân Thanh với thế
giặc hùng mạnh ầm ầm kéo vào đánh chiếm nước ta, tình thế trở nên nguy cấp hơn bao giờ hết
khi nước ta đang đứng trên vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc”, chỉ suýt một bước cũng có thể


nước mất nhà tan. Chính vào thế cuộc lúc ấy, Nguyễn Huệ đã tế cáo trời đất lên ngồi ngôi hoàng
đế (niên hiệu Quang Trung) để thống nhất nội bộ, tập hợp nhân tài, đặc biệt hơn hết là để “yên kẻ
phản trắc và giữ lấy lòng người”
+ Ngày 29 tháng chạp đến Nghệ An, mở cuộc duyệt binh; kêu gọi các tướng sĩ

+ Ngày 30 tháng chạp ở Tam Điệp gặp lại cánh quân của tướng Sở Quân, mở tiệc khao quân hẹn
mồng 7 Tết thắng trận sẽ khao tiệc tại Thăng Long. Tối 30 Tết đốc suất, chia quân làm năm đạo
binh và lên đường ra Bắc.
+ Tìm gặp cống sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp hỏi về kế sách, bàn cơ mưu đánh trận
+ Tuyển mộ quân sĩ, kén lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ bằng một
bài hịch, cũng có thể xem như một bản tun ngơn ngắn gọn nhưng ý tứ phong phú, hàm ý sâu
xa nhằm khẳng định chủ quyền của dân tộc để kêu gọi, cổ vũ, khuyến khích và làm trồi dậy lịng
u nước của những chiến sĩ, nỗi căm hờn giặc từ sâu trong tim cũng như củng cố, chấn chỉnh
quân đội để họ có thêm sự gan dạ, lịng dũng cảm xơng pha chiến trận.
=> Ơng là người tướng lính mạnh mẽ, quyết đoán, dứt khoát trong hành động, cử chỉ lẫn lời nói.
Cho dù ở trong tình huống nào cũng tìm cách giải quyết thật nhanh chóng, gọn gàng và kĩ lưỡng
+ Chuẩn bị sẵn “phương lược đánh tiến” nên có thể hiên ngang, tự hào thơng cáo với các binh
lính rằng sẽ đuổi được người Thanh chỉ trong vòng mươi ngày dù đội quân chỉ vừa mới khởi
chinh, vẫn chưa chiếm được tất đất nào
+ Sớm biết kẻ thù “lớn gấp mười lần nước mình”, nếu đại bại trận này “ắt lấy làm thẹn mà lo
mưu báo thù” tăng nguy cơ của việc binh đao kéo dài triền miên nên Nguyễn Huệ sớm đã chuẩn
bị hoàn tất đường lối ngoại giao giữa hai nước sau chiến thắng, kéo dài thêm thời gian phát triển
đất nước, “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”
+ Biết phân tích thời cuộc, so sánh thế tương quan giữa ta và địch
+ Thấu hiểu lòng quân, biết xét đốn và dùng người, có cách xử trí vừ tình hợp lí đối với các
chiến sĩ tại Tam Điệp
+ Hiểu được nguyên nhân rút quân của Sở và Lân vì sức qn ta có hạn, nếu tiếp tục đánh liều sẽ
khơng thể bảo tồn lực lượng, chính vì thế ơng khơng những khơng trách phạt cịn lấy làm khen
ngợi
+ Ơng trọng dụng Ngơ Thì Nhậm như một vị qn sư đa mưu túc trí, có tài dụng binh
=> Nguyễn Huệ cho thấy ơng là một người có khả năng lãnh đạp đất nước, có mắt nhìn và lựa
chọn người chính xác, biết dùng đúng người đúng việc.
- Năng lực tiên đốn chính xác của nhà qn sự tài ba; vị tướng mưu lược, kì tài trong việc dùng
binh khiển tướng, lãnh đạo tài tình, nhạy bén lường trước được thời cuộc: Quả thật, cuộc hành



quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do vua Quang Trung lãnh đạo đã qua cả trăm năm vẫn
không thơi làm chúng ta kinh ngạc vì sự thần tốc của nó: + 25 tháng Chạp xuất phát từ Phú Xuân
(Huế)
+ 29 tới Nghệ An, vừa tuyển quân vừa bày binh bố trận, sắp xếp đội ngũ, vừa duyệt binh, tất cả
cơng việc được hồn tất chỉ trong một ngày
+ 30 tiếng ra Tam Điệp. Đến đêm đã tức tốc lên đường tiến ra Thăng Long, vốn định mồng 7
tháng Giêng đã đại thắng rồi ăn Tết ở Thăng Long, nhưng kế hoạch không những kết thúc sớm
hai ngày và cịn ít hao tổn binh lực.
+ Mùng 3 chiến thắng Hà Hồi
+ Mùng 5 chiến thắng Ngọc Hồi
+ Trưa mùng 5 tiến vào Thăng Long. Trước khí thế vũ bảo của quân Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị tướng nhà Thanh sợ mất mật mà tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cũng dẫn theo Thái hậu
trốn chạy trong sự nhục nhã, bị khinh bỉ.
 Quang Trung là một vị vua yêu nước, sáng suốt, có tài cầm quân như thần; là người tổ
chức và là linh hồn của chiến cơng vĩ đại. Tuy đồn qn phải hành qn xa nhưng vẫn
chỉnh tề nề nếp, khí thế áp đảo khiến cả qn thù khiếp vía, khơng thể thiếu chính là cơng
lao của người tổ chức qn đội, cũng chính là vua Quang Trung và cả tinh thần một lòng
chung sức, quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm của nhân dân ta.
 Ngài không chỉ đánh trận trên danh nghĩa mà trực tiếp cầm đao xông pha ra trận, thông
qua những việc làm như bày kế sách, chiến lược, tổ chức quân sĩ, bày binh bố trận, đích
thân thống lĩnh một mũi tiến cơng, đốc thúc qn lính đã cho thấy, ơng thật sự là một
tổng chỉ huy chiến dịch thực thụ. Hình ảnh vua một cõi được khắc họa đậm nét với chi
tiết “khói tỏa mù trời, cách gang tấc khơng thấy gì… tấm áo bào đỏ đã sạm đen khói”
* Hình ảnh bọn cướp nước và bọn bán nước:
.) Bọn cướp nước: + Tiến vào Thăng Long như chốn không người
+ Qn lính thỏa sức cướp bóc, uy hiếp nhân dân ta
+ Khi chiến đấu: không nhận được tin báo nên chẳng chút phòng bị, đến mồng 4 nhận được
tin quân Tây Sơn đã tiến vào Thăng Long thì rụng rời, sợ hãi, ai nấy đều xin hàng, có người
lại bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết khiến nước sông Nhị Hà chảy
không được

+ Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn, riêng Tôn Sĩ Nghị leo lên ngựa khơng kịp đóng n, cũng
khơng mặc giáp, cứ nhằm hướng Bắc mà chạy.
=> Những con người hèn nhát, tham sống sợ chết dẫn đến thất bại của quân Thanh


.) Bọn bán nước: + Ra vào chầu với giặc
+ Vua quan đưa thân quyến ra ngoài, cướp cả thuyền của dân, nhịn đói mấy ngày liền mà
chạy bán sống bán chết
+ Đến cửa ải gặp lại Tôn Sĩ Nghị chỉ biết “nhìn nhau than thở, ốn giận chảy nước mắt” đến
mức Tôn Sĩ Nghị cũng chỉ biết xấu hổ.
=> Lê Chiêu Thống đích thị chỉ là kẻ bán nước cầu vinh. Ông vua phản nước “cõng rắn cắn
gà nhà” được miêu tả với góc nhìn tơn trọng lịch sử và ý thức dân tộc của những nhà tri thức
đương thời, và cũng chính điều đó đã góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm
*Sự khác biệt giữa ngòi bút của tác giả khi miêu trả cuộc tháo chạy của quan tướng nhà
Thanh và của vua tôi Lê Chiêu Thống:
- Tuy đều là chi tiết tả thực cụ thể nhưng có sự khác biệt về âm hưởng:
+ Đối với quan tướng nhà Thanh thì nhịp điệu thơ nhanh, hối hả, tuy miêu tả khách quan
nhưng pha lẫn trong đó vẫn có nét hả hê sung sướng của kẻ thắng cuộc trước sự thảm bại của
giặc ngoại xâm.
+ Nhưng đối với vua Lê Chiêu Thống, nhịp điệu như chậm lại, miêu tả chi tiết đến tận giọt
nước mắt của người thổ hào, của vua Lê, phảng phất đâu đó vẫn có chút gì đó ngậm ngùi,
chua xót. Bởi lẽ các tác giả đều là cựu quan triều nhà Lê, không thể khơng có chút ngậm
ngùi, thương xót, buồn lịng vì tình cảm của vua Lê Chiêu Thống. Đây cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến sự khác biệt trong thái độ và cách hành văn giữa hai cuộc tháo chạy.
9) Ghi nhớ: +Nghệ thuật: Lối viết trần thuật đặc sắc, ghi lại tỉ mỉ các cột mốc, sự kiện lịch
sử, bao gồm cả diễn biến gấp gáp, và khẩn trương của các chi tiết. Thành công trong việc
khắc họa vị vua anh hùng dân tộc Quang Trung đậm chất sử thi. Cách kể chuyện lôi cuốn,
hấp dẫn người đọc với những hình thức miêu tả sử dụng so sánh độc lập, tường thuật các sự
kiện lịch sử rành mạch, chân thực, khách quan.
+Nội dung: Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê

nhất thống chí” đã tái hiện chân thực, sinh động nhất có thể thời kì Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại
Bắc Hà cho vua Lê. Đặc biệt hơn hết, nhan đề của tác phẩm tuy mang vẻ đang ca ngợi nhà
Lê, nhưng thực chất nội dung lại đang phơi bày trần trụi, vạch rõ sự mục nát, thối rữa đã
ngấm sâu vào triều đình nhà Lê, đồng thời hết lời ca ngợi hình ảnh người anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, thảm bại của quân tướng nhà
Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

III) CHỊ EM THÚY KIỀU (THẾ KỈ XVIII):


“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.”
*Thơ liên hệ mở rộng làm mở bài nghị luận văn học:
a) “Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”
b) “Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bân khuân nhớ cụ thương thân nàng Kiều.”
(“Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)


“Truyện Kiều” viết bằng chữ Nôm, thể thơ lục bát, dài 3254 câu thơ với tên ban đầu
“Đoạn trường tân thanh”. Tác phẩm gồm 3 phần: Gặp gỡ và Đính ước; Gia biến và lưu
lạc; Đoàn tụ.

1) Tác giả: Nguyễn Du (1765-1820) sinh trưởng trong một gia định đại quý tộc, nhiều đời
làm quan và có truyền thống về văn học, từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc nên
ngòi bút của ơng chủ yếu hướng vào hiện thực. Ơng là người có vốn hiểu biết rộng, am
hiểu sâu sắc nền văn hóa của dân tộc lẫn ngoại quốc, do đã từng tiếp xúc với nhiều mảnh

đời, nhiều con người từ nhiều miền đất trên quê hương, cũng từng được cử đi xứ ở Trung
Quốc nên vốn sống của ông rất phong phú cũng như hình thành cho ơng trái tim giàu
lòng yêu thương.
2) Xuất xứ: “Truyện Kiều” được viết dựa trên tiểu thuyết “Kim Vân Kiều Truyện” của tác
giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Du đã có thêm
nhiều sáng tạo mới, từ nghệ thuật tự sự của riêng ông, kể chuyện bằng thơ, miêu tả thiên
nhiên đến xây dựng hình tượng và tính cách nhân vật. “Truyện Kiều” gồm 3254 câu thơ
lục bát và có tên gọi ban đầu là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới đứt ruột)
3) Vị trí đoạn trích: nằm ở phần đầu tác phẩm “Truyện Kiều”: Gặp gỡ và Đính ước (dịng
15-38) – cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả người của Nguyễn Du
4) Thể loại: thể thơ lục bát
5) Đại ý: Giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, dự cảm về kiếp người “tài hoa bạc
mệnh” của Thúy Kiềunf
6) Bố cục: - Phần 1 (4 dòng thơ đầu): Vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều
-Phần 2 (16 dòng thơ tiếp theo): Vẻ đẹp riêng của Thúy Vân, Thúy Kiều


- Phần 3 (4 dòng thơ cuối): Đức hạnh của hai chị em
6) Luận điểm: - Vẻ đẹp chung của hai chị em: Vóc dáng thanh tao, tâm hồn ngây thơ, trong
sáng, cả hai có nét riêng nhưng đều đẹp hoàn hảo.
- Chân dung Thúy Vân: Thúy Vân xinh đẹp, đoan trang, phúc đức.
- Chân dung Thúy Kiều: + Kiều đẹp lộng lẫy, sắc sảo, có sức cuốn hút mạnh mẽ: một
trang giai nhân tuyệt sắc
+ Kiều rất đa tài, tài nào cũng hoàn hảo.
- Đức hạnh, cuộc sống của hai chị em: Cuộc sống phong lưu, rất mực khuôn phép.
7) Nghệ thuật:
Chị em Thúy Kiều


Vẻ đẹp chung của hai chị em: Vóc dáng thanh tao, tâm hồn ngây thơ, trong sáng, cả hai

có nét riêng nhưng đều đẹp hồn hảo:
Đầu lòng hai a tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vần.
Mai cốt cách tuyềt tinh thần,
Mối người một ve, mười phần vẹn mười.

+ … tố nga (ẩn dụ): lời giới thiệu giải dị, đầy đủ mà súc tích, mang hơi hướng cổ điển, sang
trọng, tượng trưng cho hai người con gái nhà Vương viên ngoại – Thúy Kiều và Thúy Vân rất
xinh đẹp, rất quý phái, họ đều là những cơ gái có nét đẹp lí tưởng khơng chê vào đâu được
+ Mai cốt cách tuyết tinh thần (ẩn dụ, ước lê tượng trưng, liệt kê, tiểu đối, ngắt nhịp 3/3): Để tô
đậm vẻ đẹp của hai nàng giai nhân, tác giả đã sử dụng thành công thủ pháp ước lệ tượng trưng
vốn chẳng còn xa lạ trong văn thơ cổ, nhằm so sánh ngầm thân hình hai chị em mảnh khảnh,
thanh thoát, tao nhã như dáng mai cùng cốt cách, tâm hồn ngây thơ, trong sáng như tuyết trời.
Hình thức bên ngồi lẫn cốt cách bên trong của hai chị em đều tạo nên sự hài hòa, cân đối trong
mắt độc giả
+ Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười (từ ngữ gợi tả, thành ngữ): cả hai đều sở hữu một vẻ
đẹp hồn hảo khơng chút tì vết, dù mỗi người đều có một nét riêng, khác biệt. Điều này cũng đã
được tác giả đề cập trong dòng thơ 162: “Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai”. Hai nàng, một người
như hoa lan mùa xuân, một người như hoa cúc mùa thu, đều là những lồi hoa dịu dàng, đằm
thắm nhưng khơng lu mờ nổi vẻ đẹp
 Khép lại lời giới thiệu, hình ảnh hai trang tuyệt thế giai nhân được vẽ ra thật đáng trân
trọng biết nhường nào, thế mới thấy, Nguyễn Du rất biết cách bày tỏ thái độ ngợi ca


người phụ nữ, khéo léo thể hiện rõ nét ngay từ những câu thơ đầu tiên. Từ đó, sau lời giới
thiệu chung, chúng ta lại theo chân Nguyễn Du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của từng cô gái
một.


Chân dung Thúy Vân: Thúy Vân xinh đẹp, đoan trang, phúc đức:

Vần xem trang trọng khác vời,
Khuốn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mầy thua nước tóc, tuyềt nhường màu da.

+ trang trọng (từ láy); khác vời (tự gợi tả): Vẻ đẹp của Vân sang trọng, quý phái khác biệt, khơng
phải là vẻ đẹp mà người thường có thể so sánh được
+ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang (ẩn dụ, ước lệ tượng trưng, liệt kê, từ láy gợi tả): khn
mặt trịn, đầy đặn, hiền dịu như ánh trăng rằm, chân mày thanh tú, đậm, dày như con ngài. Đó là
đường nét của một người mang vẻ đẹp cao sang, phúc hậu, tươi tắn, rạng ngời, hòa hợp với thiên
nhiên đất trời
+ Hoa cười ngọc thốt đoan trang (ẩn dụ, ước lệ tượng trưng, liệt kê): mỗi khi cười lại tươi như
hoa nở, từng câu chữ trong trẻo đều là lời vàng ý ngọc, ngôn ngữ biểu hiện trí tuệ và tâm hồn của
nàng được thốt ra từ hàm răng trắng ngọc ngà, phong thái cung cách thì dịu dàng, thanh lịch,
đoan trang.
+ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da (ẩn dụ, ước lệ tượng trưng, liệt kê, nói q, nhân
hóa): đến áng mây cũng khơng đọ được với độ bồng bềnh của tóc nàng, làn da còn trắng hơn cả
tuyết. Những sự vật thiên nhiên này đều nhún nhường, nguyện ý nhường lại vẻ đẹp để tơ điểm
thêm cho nàng. Đây cũng chính là điềm báo cho thấy một cuộc đời êm đềm, suôn sẻ, bình lặng
của Thúy Vân
+ Khn trăng…nét ngài; nụ cười…thốt; tóc…da (liệt kê)
 Trong thiên nhiên có biết bao nhiêu cái đẹp, vì lẽ đó tác giả liệt kê hàng loạt các nét đẹp
trên khuôn mặt của Thúy Vân, cụ thể đến từng chi tiết, so sánh với những cái đẹp nhất
của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết, kết hợp với những từ ngữ đặc sắc. Từ đó vẽ
ra bức chân dung của nàng bằng thơ ca với đường nét hài hòa, điêu luyện, cho người đọc
thấy rõ Vân mang vẻ đẹp của một trang quốc sắc thiên hương, vẻ đẹp mang đến thiện
cảm, được lòng thiên nhiên nên được ưu ái nhường lại cho nàng những đường nét kiều
diễm, hài hòa phúc hậu.





Chân dung Thúy Kiều: + Kiều đẹp lộng lẫy, sắc sảo, có sức cuốn hút mạnh mẽ: một
trang giai nhân tuyệt sắc:
Nguyễn Du đã dồn tất cả tài năng, tâm huyết của mình để miêu tả nàng Kiều, ơng đã rất tinh
ý khi để nhân vật chính của chúng ta xuất hiện sau Thúy Vân, sử dụng thủ pháp nghệ thuật
đòn bẩy, cho người đọc thấy rằng tả kĩ, tả đẹp Thúy Vân đến mấy thì tuyệt sắc giai nhân
Thúy Kiều vẫn nổi bật hơn hẳn:
Kiều càng săc sao mặn mà,

+ … sác sảo mặn mà (từ láy gợi tả, liệt kê): Khác với Thúy Vân hiền hậu, dịu dàng, Kiều lại trở
nên khác biệt hơn khi nàng là một cơ gái sắc sảo về hình thức, về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn,
tình cảm, sắc đẹp tuyệt trần thu hút ánh nhìn của người khác ngay lần đầu tiên gặp gỡ
So bề tài săc lại là phần hởn:
+ So bề tài sắc lại là phần hơn (so sánh, từ gợi tả): Thúy Vân vốn đã có vẻ đẹp hoàn hảo, song
Thúy Kiều so với Thúy Vân lại càng vượt trội hơn. Hơn thế, ở Thúy Kiều tác giả cịn miêu tả
thêm phần tài năng mà ở Vân khơng được nhắc đến
Làn thu thuy nét xuần sởn
+ Làn thu thủy nét xuân sơn (ẩn dụ, ước lê tượng trưng, liệt kê): Đôi mắt Thúy Kiều long lanh,
trong trẻo như làn nước hồ thu, đó là đơi mắt của sự tinh anh trong trí tuệ, chân mày lại thanh tao
như dáng núi mùa xuân. Khác với Thúy Vân, khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả chỉ đặc tả riêng đôi
mắt của nàng, cũng chính là cửa sổ tâm hồn của nàng, toàn bộ vẻ đẹp của Thúy Kiều như đọng
lại trong đôi mắt tinh anh khiến bao người xao xuyến ấy
Hoa ghen thua thăm liều hờn kém xanh.
+ Hoa hen thua thắm liễu hờn kém xanh (ẩn dụ, ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hóa, nói quá):
Lạ thay, đến đây vẻ đẹp của nàng không được tả trực tiếp mà lại thông qua sự ghen tị, đố kị.
Thần sắc của Thúy Kiều tươi thắm đến mức hoa cũng phải ghen tị, vóc dáng thanh tao, duyên
dáng, thướt tha yểu điệu đến độ liễu cũng hờn giận. Sắc đẹp của Thúy Kiều vượt quá cả quy
chuẩn của tạo hóa, khiến thiên nhiên cũng phải ghen hờn đố kị nhiều phần hơn là sự ngưỡng mộ,
say mê. Đây cũng chính là điềm báo về một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên, tai ương phía

trước đang chờ đợi nàng mỹ nhân.
 Dùng thủ pháp thậm xưng để ca ngợi vẻ đẹp truyền thần của Kiều. Kiều đẹp lộng lẫy,
kiêu sa, quyến rũ, có khả năng chinh phục và làm đổ gục lịng người. Và đặc sắc nhất ở
Nguyễn Du chính là thủ pháp “vẽ mây lẩy trăng” miêu tả người rồi từ đó dự đốn nên số
phận cuộc đời họ. Vẻ đẹp của Thúy Vân đã hoa nhường nguyệt thẹn, xuất sắc đến thế mà
Thúy Kiều còn nổi trộn hơn hẳn. Phải chăng tất cả những gì kết tinh đẹp nhất, tốt nhất


của phụ nữ trên thế gian này đều được ban hết cho Kiều. Vẻ đẹp của Thúy Vân hịa hợp
hồn toàn với thiên nhiên, nhưng riêng Kiều lại đẹp đến mức làm thiên nhiên đố kị, hờn
ghen. Nhưng đằng sau bức chân dung ấy, tương lai liệu có màu hồng như nét đẹp, như
cuộc sống của nàng những năm tháng bây giờ không
Một hai nghiềng nước nghiềng thành
+ … nghiêng nước nghiêng thành (thành ngữ): Một lần nữa, tác giả lại dùng cách nói sáng tạo –
sử dụng điển cố khẳng định về sắc đẹp của Kiều, sắc đẹp của cực phẩm giai nhân khiến cho bao
người chao đảo, mê mẩn, có đủ sức mạnh để làm khuynh thành đổ nước. Đây có lẽ chính là một
cơ nương tiềm ảnh cả sắc đẹp cao quý lẫn tài nghệ điêu luyện
Săc đành đòi một, tài đành họa hai.
+ … đành đòi … đành họa … (từ gợi tả): Khác với Thúy Vân chỉ có sắc chứ chẳng có tài, đối với
Kiều, nhan sắc của nàng chỉ vỏn vẹn trong ba câu, còn tài năng, tâm hồn lại dùng đến sáu câu để
miêu tả. Nghệ thuật phóng đại khoa trương, như muốn cho người đọc thấy rằng nhan sắc của
nàng chỉ có thể nói là tuyệt thế, chẳng ai sánh kịp, bàn luận về tài năng thì họa may mới có người
thứ hai. Đây cũng có thể nói là điều hiển nhiên của văn học thời trung đại, giai đoạn văn chương
luôn có sự xuất hiện những người phụ nữ tài sắc vẹn tồn
Thống minh vốn săn tính trời,
Pha nghề thi họa, đu mùi ca ngầm.
Cung thưởng làu bậc ngũ ầm,
Nghề riềng ăn đứt hố cầm một trưởng.
+ Thông minh … thi họa … ca ngâm … làu … ăn đứt … (từ gợi tả, liệt kê): Ông trời phải chăng
đã quá bất công với người khác khi ưu ái dành hết mọi tài lẻ cho Kiều. Kiều chẳng những có sắc

đẹp mà cịn có tài năng tuyệt đỉnh. Nàng sở hữu trí tuệ trời phú, đạt đến mức lý tưởng hay thậm
chí là tinh thơng cầm kỳ thi họa – những món nghề lý tưởng cho phụ nữ, thú chơi tao nhã của
bậc nhân văn tài tử theo quan niệm thẩm mỹ của xã hội phong kiến. Nhưng ắt hẳn đàn chính là
sở trường hơn người của nàng, chẳng ai có thể sánh kịp, giỏi nhạc đến mức soạn riêng cho mình
một khúc cũng chỉ là chuyện nhỏ
 Nguyễn Du đã thơng qua các dịng thơ ngắn, gợi người đọc biết tới Thúy Kiều – một nữ
nhân hội tụ đủ các tài năng, mà tài nào cũng đạt mức tuyệt đỉnh.
Khúc nhà tay lựa nền chưởng,
Một thiền Bạc mệnh, lại càng não nhần.


+ … Bạc mệnh … não nhân (từ gợi tả): Khơng chỉ là cầm kỳ thi họa mà Kiều cịn biết sáng tác
soạn riêng cho mình một khúc nhạc, nhưng khúc đàn nàng sáng tác ra khiến ai nấy nghe được
đều não nề, buồn bã. Từ đó, người đọc như hiểu thêm về tính cách của nàng, một người có trái
tim đa sầu đa cảm, mang tính cách ngầm dự báo số phận “bạc mệnh” của nàng trong tương lai
chẳng được êm đề bằng phẳng, trắc trở, hệt như lời người xưa thường hay nói “hồng nhan bạc
phận”. Có lẽ nào chính bản thân Thúy Kiều cũng dự cảm được sự éo le đau khổ của kiếp đời này
nên mới viết nên khúc nhạc đàn kia, khúc nhạc một thiên bạc mệnh vận vào cuộc đời, đi theo số
phận của nàng suốt mười lăm năn liền của quãng đời. Thế mới thấy, vẻ đẹp tâm hồn và tài năng
âm nhạc ln đi song hành với nhau.
 Thúy Kiều đích thị là người con gái hội tụ cả ba yếu cố sắc – tài – tình. Bức chân dung
của nàng như một lời báo trước để người đọc dự cảm về số phận sóng gió, lành ít dữ
nhiều, giống như một lời gợi ý cho cốt truyện phía sau. Khác với em Vân tạo sự hoag
hợp, êm đềm với thiên nhiên, thì quả thật, “tạo hóa đố hồng nhan”, số phận nàng ôi sao
bao trái ngang, khổ đau


Đức hạnh, cuộc sống của hai chị em: Cuộc sống phong lưu, rất
mực khuôn phép: (không quan trọng)
Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

+ … ong bướm (hoán dụ): thể hiện sự tiết hạnh, gia phong, lễ giáo, phẩm
hạnh của hai chị em, đến tuổi “cài tram, búi tóc”
8) Ghi nhớ: - Nghệ thuật: Đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ
điển, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, khéo léo trong việc chọn lọc các
phép ẩn dụ từ ngữ gợi tả cao phối hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, trong trẻo đã khắc họa rõ nét
chân dung của chị em Thúy Kiều.
- Nội dung: Ca ngợi vẻ đẹp tuyệt mỹ, diễm kiều của hai chị em, sáng lên cả tình yêu con người
tha thiết từ tận trong xương tủy của tác giả.. Nổi bật nhất là Thúy Kiều - hình ảnh tiêu biểu điển
hình cho vẻ đẹp lí tưởng của người phụ nữ xã hội phong kiến. Từ đây thấy được sự thành công
với các phương diện nghệ thuật khác nhau, thái độ trân trọng, đề cao, ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp
của những con người cũng như tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du lẫn giá trị hiện thực,
giá trị nhân đạo của tác phẩm, lưu lại mãi trong trái tim của những người yêu thơ


IV. CẢNH NGÀY XUÂN (THẾ KỈ XVIII):
1) Tác giả: Nguyễn Du: sinh trưởng trong một gia định đại quý tộc, nhiều đời làm quan và
có truyền thống về văn học, từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc
2) Vị trí đoạn trích: nằm ở phần đầu tác phẩm “Truyện Kiều”: Gặp gỡ và Đính ước (dịng
39-58)
3) Thể loại: thể thơ lục bát
4) Đại ý: Chị em Thúy Kiều du xuân trong tiết thanh minh
5) Bố cục: - Đoạn 1 (4 dòng thơ đầu): Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân
-Đoạn 2 (8 dòng thơ tiếp theo): Cảnh lễ hội
- Đoạn 3 (6 dòng thơ cuối): Cảnh trở về
6) Luận điểm: - Cảnh thiên nhiên ngày xuân: Khung cảnh thiên nhiên thống đãng, mới mẻ, tinh
khơi, trong trẻo, thanh khiết, hài hòa về màu sắc.

- Cảnh lễ hội: +Cảnh lễ: Viếng mộ người than vào tiết thanh minh. Đây là một
nét đẹp văn hóa truyền thống của người VN ta.
+ Cảnh hội: Khơng khí hội xn đơng vui, náo nhiệt, dập dìu nam
thanh nữ tú
-Cảnh trở về: Khung cảnh tan hội lúc chiều tàn khơng cịn nhộp nhịp, rộn ràng
mà nhạt dần, nhuốm buồn. Tâm trạng con người cũng buồn bã.
7) Nghệ thuật:

Cảnh ngày xuân


Cảnh thiên nhiên ngày xuân: Khung cảnh thiên nhiên thống đãng, mới mẻ, tinh khơi,
trong trẻo, thanh khiết, hài hòa về màu sắc:
Ngày xuần con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mưởi
Co non xanh tận chần trời
Cành lề trăng điềm một vài bống hoa

+ … đưa thoi (ẩn dụ): thời gian trôi thoắt thoi đưa, thoáng chốc đã qua tháng ba, những cánh én
rộn ràng bay rợp trời trong
+ Thiều quang … non xanh tận (từ ngữ gợi tả): màu xanh của bầu trời và của cỏ cây ghép lại tạo
thành một không gian rộng lớn, mênh mông
+ … trắng điểm một vài … (từ ngữ gợi tả): màu sắc hài hòa tuyệt diệu khơi gợi những đặc điểm
của mùa xuân: tươi mới, thoáng đãng, rinh khôi, thắm thiết, đầy sức sống, nhẹ nhàng, tinh khiết,


từ “điểm” làm điểm nhấn nổi bật, tạo cảm giác hài hòa cho bức tranh thiên nhiên thêm sinh động,
đỡ nhàm chán



Cảnh lễ hội: +Cảnh lễ: Viếng mộ người than vào tiết thanh minh. Đây là một nét đẹp
văn hóa truyền thống của người VN ta:
Thanh minh trong tiềt tháng ba
Lề là tao mộ hội là đạp thanh
Gần xa nố nức yền anh
Chị em săm sưa bộ hành chởi xuần
Dập dìu tài tư giai nhần
Ngựa xe như nước áo quần như nềm
Ngốn ngang gị đống kéo lền
Thoi vàng vó răc tro tiền giầy bay

+ Lễ là tảo mộ … Ngổn ngang gị đống kéo lên; Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay (liệt kê, từ gợi
tả): viếng mộ, quét tước, sử sang mộ phần người thân, đốt giầy tiền vàng mã



Cảnh lễ hội + Cảnh hội: Khơng khí hội xn đơng vui, náo nhiệt, dập dìu nam thanh nữ
tú:

+ hội là đạp thanh (liệt kê) *Nối ý với liệt kê ở phần “Cảnh lễ” : đi chơi xuân ở đồng quê
+ Gần xa nô nức yến anh; Chị em sắm sửa … dập dìu tài tử giai nhân; Ngựa xe như nước áo
quần như nêm (từ gợi tả, ẩn dụ, liệt kê, so sánh): Các từ ngữ mang giá trị biểu cảm cao, thể hiện
rõ nét sự rộn ràng, náo nhiệt, đông đúc trong tâm trạng của người đi hội
 Phác họa về các lễ hội, tập tục cổ xưa dịp tiết Thanh minh


Cảnh trở về: Khung cảnh tan hội lúc chiều tàn khơng cịn nhộp nhịp, rộn ràng mà nhạt
dần, nhuốm buồn. Tâm trạng con người cũng buồn bã:
Tà tà bóng nga về tầy
Chị em thở thần dang tay ra về

Bước dần theo ngọn tiều khề
Lần xem phong canh có bề thanh thanh
Nao nao dịng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nho cuối ghềnh băc ngang


+ Tà tà…thanh thanh…nao nao dòng nước… nho nhỏ (từ gợi tả, nhân hóa): lúc chiều tan,
hồng hơn dần bng xuống, khơng khí khơng cịn nhộn nhịp mà trở nên yên ắng dần
+ thơ thẩn (từ gợi tả): tâm trạng bân khuân, thơ thẩn, lưu luyến chưa muốn về
 Đặc tả sắc thái cảnh vật lúc ấy cũng giống như tâm trạng của con người
 Dự báo điều sắp xảy ra (tiếp theo là phân cảnh Thúy Kiều gặp mộ phần của Đạm Tiên,
người sau này cũng ứng lên chính cuộc đời của nàng và gặp gỡ Kim Trọng)
9) Ghi nhớ: - Nghệ thuật: Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” là bức tranh thiên nhiên, lễ hội
mùa xuân tươi đẹp, trong sáng nhưng ẩn chứa mầm mống của bi ai, lấy bối cảnh Thúy
Kiều, Kim Trọng gặp gỡ nhau, báo trước về mối tình chẳng trọn vẹn, cuộc đời đầy bất
hạnh những tháng năm sau của Kiều
- Nội dung: Gợi lên qua kết cấu hợp lí, ngơn ngữ tạo hình, bút pháp miêu tả giàu chất tạo
hình của Nguyễn Du: kết cấu đoạn thơ hợp lí, ngơn ngữ tạo hình, tả với gợi hình tạo điểm
nhấn, chấm phá đặc biệt

V. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (THẾ KỈ XVIII):
1) Tác giả: Nguyễn Du (1765-1820) sinh trưởng trong một gia định đại quý tộc, nhiều đời làm
quan và có truyền thống về văn học, từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc.
2) Vị trí đoạn trích: nằm ở phần thứ hai tác phẩm “Truyện Kiều”: Gia biến và lưu lạc. Sau
khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều vẫn không thể chấp
nhận thực tại trở thành gái lầu xanh. Đau xót, phẫn uất, nàng toan tự vẫn, Tú Bà sợ mất
cả chì lẫn chài bèn lựa lời khuyên lơn để nàng ra lầu Ngưng Bích ở, bà sẽ chăm lo thuốc
thang, khi nào bình phục sẽ tìm người tử tế để gả nàng nhưng thực ra là để giam lỏng, vì
trong lịng Tú Bà vẫn đang âm mưu một kế hoạch mới tàn bạo, đê tiện hơn.
3) Thể loại: thể thơ lục bát

4) Đại ý: Tâm trạng cơ dơn, buồn tủi và tấm lịng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều khi
bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
5) Bố cục: - Đoạn 1 (6 dịng đầu): Cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích gợi tâm trạng
Thúy Kiều
-Đoạn 2 (8 dòng tiếp theo): Nỗi nhớ của Thúy Kiều về người thân
-Đoạn 3 (còn lại): Nỗi buồn của Thúy Kiều khi nghĩ về thực tại
6) Luận điểm: - Tình cảnh của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích: đáng thương, tội nghiệp
- Nỗi nhớ của Thúy Kiều: + Nhớ người yêu: Kiều là người con gái thủy chung,
son sắt, nặng ân tình


+ Nỗi nhớ cha mẹ: Kiều thủy chung, hiếu thảo, có tấm
lịng vị tha sâu sắc
-Nỗi buồn của Thúy Kiều trong hồn cảnh thực tại: Sự trơng đợi vơ vọng, nỗi sầu
buồn mênh mang, nỗi buồn dâng lên lớp lớp trong lịng Kiều tưởng khơng bao giờ dứt (điệp khúc
của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng)
7) Nghệ thuật:

Kiều ở lầu Ngưng Bích


Tình cảnh của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích: đáng thương, tội nghiệp:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuần,
Ve non xa tầm trăng gần ở chung.

+ … khóa xn (ẩn dụ): tượng trưng cho lầu Ngưng Bích khóa chặt lấy tuổi thanh xuân của Thúy
Kiều, cảnh ngộ trớ trêu, bất hạnh. Tâm trạng nàng chứa đựng bao đau đớn, dằn vặt, tương lai mù
mờ chẳng biết hiểm nguy sẽ ập đến lúc nào
+ Vẻ non xa tấm trăng gần… (liệt kê, đối ngữ): Thiên nhiên trong mắt đa số chúng ta có lẽ lúc
nào cũng mang một vẻ đẹp mĩ miều, cái vẻ đẹp làm ta thấy thoải mái, thư giãn và yên bình.

Nhưng ở đây thiên nhiên lại chính là yếu tố gợi nên sự đau buồn của Thúy Kiều, gợi nên cạnh
tưởng một tòa lầu Ngưng Bích tuy hoa lệ nhưng lại trơ trọi giữa không gian mênh mông. Tuy từ
lầu cao ngắm ra, vầng trăng và núi non ở cùng một vòm trời, cùng trong một bức tranh. Nhưng
nhìn xuống chỉ có trăng soi bóng xuống mắt nước dưới chân nàng tưởng chừng như cạnh kề, cịn
núi non chỉ nhìn thấy nhưng lại mờ nhạt ở tít phía xa, khơng cách nào chạm đến được
Bốn bề bát ngát xa trống,
Cát vàng cốn nọ, bụi hống dặm kia.
+ Bốn bế bát ngát xa trông (từ láy gợi tả, đảo ngữ): khung cảnh tuy mênh mông, rộng lớn trải
dàinhưng lại yên ắn đến rợn người
+ Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (liệt kê): một bên là bãi cát vàng nhấp nhơ gợn sóng, một
bên là bụi hồng trải dài hăm thẳm phía xa kia, quanh cảnh trơng thật hữu tình nhưng mọi thứ
dường như đều cách rất xa so với tình cảnh của nàng
 Cảnh vật bốn bề bao la, bát ngát lại hoang vắng, xa lạ và cách biệt, rợn ngợp, thiếu bóng
dáng của sự sống, không sự giao lưu giữa người với người. Khung cảnh từ lầu Ngưng
Bích nhìn ra chỉ mang đến nỗi buồn, lòng nhiều tâm trạng.
Bẽ bàng mầy sớm đèn khuya,
Nưa tình, nưa canh như chia tầm lịng.


+ Bẽ bàng mây sớm đèn khuya (từ láy, thành ngữ): Nghĩ đến thân phận của bản thân, ắt Thúy
Kiều chỉ có thể hình dung bằng hai từ “bẽ bàng” soi vào thiên nhiên, nàng chỉ thấy rõ tâm trạng
cô đơn, buồn tủi, đau đớn, xót xa, cay đắng với ngày tháng như vịng tuần hồn khép kín vơ hạn,
ngày qua ngày cứ quẩn quanh không dứt. Dù cho là lúc ngắm “mây sớm” hay ngồi dưới ngọn
“đèn khuya”, nàng đều khao khát sự bầu bạn nhưng rồi lại tìm chẳng nổi một ai có thể cùng nàng
chia sẻ, trút bầu tâm sự trong vô vọng. Không gian, thời gian ngày càng khắc sâu hơn vào nỗi cô
đơn tầng tầng lớp lớp của Kiều
+ Nửa tình nửa cảnh… (nghệ thuật tả cảnh ngụ tình): Thúy Kiều thui thủi một mình, rơi vào
hồn cảnh cơ đơn tuyệt đối, nàng bị sự cơ đơn bao vây lấy, dày vị suốt những ngày tháng của
hiện tại khiến lòng chất chứa bao nỗi niềm chua xót đến nỗi như bị xé rách làm đơi. Nhưng đã
làm sao chứ, dù cho có ý thức được, nàng cũng khơng có cách nào để thốt khỏi tình cảnh hiện

tại…
 Con người như bị nhỏ bé lại vạn phần so với thiên nhiên, nhưng đây cũng là bút chấm
phá đặc sắc của đoạn thơ, lấy thiên nhiên rộng lớn, tiêu điều làm nền từ đó bộc lộ tâm
tình của Thúy Kiều


Nỗi nhớ của Thúy Kiều: + Nhớ người yêu: Kiều là người con gái thủy chung, son sắt,
nặng ân tình
Tưởng người dưới nguyệt chén đống,
Tin sưởng luống những rày trống mai chờ.

+ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng (hình ảnh thơ gợi tả): Ở nơi đất khách quê người không ai
nương tựa, nỗi buồn của Thúy Kiều dần dần chuyển thành nỗi nhớ, tủi thân. Nàng nhớ nhung da
diết về ngày tháng cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Một mối tình chỉ vừa
đính ước trăm năm đã phải cắt đứt đột ngột rồi chia xa. Ở đây, tác giả đã không dùng từ ‘nhớ”
mà lại chọn từ “tưởng”, “tưởng” là vừa nhớ, vừa hình dung, vừa tưởng tượng đến vị ý trung nhân
của mình đang ở ngay trước mắt, một niềm ước ao tuy nhỏ bé nhưng lại quá đỗi xa vời với nàng
trong tình cảnh hiện tại. Và liệu trong chúng ta có phải sẽ có người thắc mắc, vì sao Thúy Kiều
lại nhớ đến người u trước cha mẹ mình? Có lẽ vì trong cơn gia biến, nàng đã tự nguyện bán
thân mình để chuộc cha, cũng xem như đã làm trịn chữ hiếu cho cha mẹ già. Nhưng cũng chính
vì lần bán mình ấy, nàng đã trót thất lời hứa với chàng Kim, đơn phương chấm dứt mối tính đầu
đẹp đẽ của thời thiếu nữ. Ắt trong lịng Kiều vẫn ln cảm thấy áy náy, thấy có lỗi, thấy như bản
thân đã mắc nợ vì phụ tấm lịng của Kim Trọng, khiến tâm can nàng cứ giày xéo mãi, chẳng thể
thôi nghĩ đến.


+ Tin sương luống những rày trông mai chờ: Trong tâm thức của bản thân, nàng không thể lo âu
không lo âu mà tự hỏi, phải chăng chàng Kịm vẫn chưa biết tin nàng phải bán mình vào lầu
xanh, phải chăng chàng vẫn ngày ngày đau đáu hướng về phương trời của nơi xa kia mà mong
ngóng tin tức cúa nàng từ sáng tinh tươm

Bền trời góc bề bở vở,
Tầm son gột rưa bao giờ cho phai.
+ … bơ vơ (từ láy gợi tả): mơ mộng, trơng ngóng, tin vào những hy vọng mỏng manh ấy, nhưng
chỉ trong chốc lát, nàng lại nhận thức được thân phận trôi nổi, đơn cơi của mình
+ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai: Tuy bản thân đã trở nên ô uế nhưng tấm lòng nàng vẫn một
lòng son sắt, nhớ thương Kim Trọng vẫn chưa và sẽ chẳng bao giờ phai nhạt dù cho sắp tới có
phải trải qua bao nhiêu gian khổ trên đường đời cay nghiệt này. Hay có lẽ, lời độc thoại này của
Kiều cịn có một ý nghĩa khác: tấm thân, cao quý trong trắng từng được bao người mến mộ,
mong muốn chiếm đoạt cũng chẳng có được của nàng, chẳng biết vì cơ mang gì mà giờ đây lại bị
những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh lấy ra làm thú vui, làm của vật rao bán, dập vùi nàng không
thương tiếc. Những vết hoen ố, dơ bẩn ấy chẳng biết bao giờ mới có thể gột rửa sạch sẽ được
đây…
 Thúy Kiều nhớ đến người yêu trước là nỗi nhớ hợp lý, phù hợp với quy luật tâm lý và
bộc lộ cảm hứng nhân văn, nhân đạo.


Nỗi nhớ của Thúy Kiều: Nỗi nhớ cha mẹ: Kiều thủy chung, hiếu thảo, có tấm lịng vị
tha sâu sắc:
Xót người tựa cưa hốm mai,
Quạt nống ầp lạnh, những ai đó giờ?

+ Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? (câu hỏi tu từ):Dù có yêu thương Kim Trọng đến thế nào
thì ly cách cha mẹ, Kiều vẫn khơng kiềm được nỗi nhớ. Chăc hẳn cha mẹ bây giờ tuy đã song
thân gầy yếu vẫn đều đặn sáng sớm mo, chiều hơm mong ngóng, “tựa cửa” chờ đợi tin vui về
nàng. Nghĩ đến cảnh tượng ấy, lòng nàng cứ day dứt nỗi xót xa, con cái tuy đã lớn nhưng chẳng
thể để cha mẹ n lịng, nhưng điều Kiều có thểm làm bây giờ chỉ là đau đớn, xót thương cho hai
đấng sinh thành của mình… và có ai sẽ thay nàng chăm sóc, đỡ đần, thay nàng lo lắng cho
những ngày trái gió trở trời, phụng dưỡng báo hiếu cho cha mẹ đã già hay không. Cái tâm trạng
nhớ thương, quan tâm, mong ngày đồn tụ với gia đình và cả tấm lòng hiến thảo của nàng cứ
dâng lên mà rạo rực trong lịng

Sần Lai cách mầy năng mưa,
Có khi gốc tư đã vừa người ốm?



×