Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên tỉnh vĩnh long trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.81 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Thùy Trang

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Thùy Trang

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Nội
dung trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo tính trung
thực; nội dung nghiên cứu khách quan và chưa được cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Trang


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến quý thầy cô của
Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long, Học viện Khoa học xã hội đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi tham gia tốt khóa học và đặc biệt là cơ giáo - TS. Nguyễn Thị
Lan Hương - người đã hướng dẫn tận tình cho tơi trong suốt q trình nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và hồn thành đề tài khoa
học này nhưng khơng thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong
muốn được sự nhận xét, góp ý của quý thầy cô và các bạn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Trang



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ......................................................................... 8

1.1 Một số khái niệm cơ bản ...................................................................................8
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên ...............15
1.3. Nội dung của GD ĐĐMT cho thanh niên Việt Nam ......................................21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY .......... 35

2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Long ............35
2.2. Những thành tựu trong giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên tỉnh
Vĩnh Long hiện nay ...............................................................................................37
2.3. Một số hạn chế trong công tác GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long
trong tình hình hiện nay .........................................................................................47
2.4. Một số giải pháp thúc đẩy việc GD ĐĐMT cho thanh niên trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long ..............................................................................................................58
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BVMT

: Bảo vệ môi trường

2. ĐĐMT


: Đạo đức mơi trường

3. ĐVTN

: Đồn viên thanh niên

4. GDĐĐ

: Giáo dục đạo đức

5. GD ĐĐMT

: Giáo dục đạo đức môi trường

6. HS

: Học sinh

7. HSSV

: Học sinh sinh viên

8. SV

: Sinh viên

9. TN – MT

: Tài nguyên và môi trường


10. UBND

: Ủy Ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ của sự
bùng nổ thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay.
Những thành tựu đó đã thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người và làm thay đổi
cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một
nước nơng nghiệp đang có những bước phát triển nhanh về kinh tế. Dưới tác động
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại Việt Nam đang từng ngày, từng
giờ thay đổi diện mạo của mình.
Song, bên cạnh sự phát triển trên thì ơ nhiễm mơi trường của Việt Nam đã và
đang trở thành vấn đề nóng bỏng, cấp bách. Vì thế, BVMT trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là yêu cầu cấp thiết đối với cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân. Nhận thức rõ tầm
quan trọng của vấn đề này, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách về BVMT, điển hình là Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về BVMT trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; chỉ thị 29 – CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban
Bí thư và thơng tư thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị; Luật bảo
vệ mơi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật
BVMT. Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống đã bước
đầu tạo nên những chuyển biến tích cực trong hoạt động BVMT.
Tuy nhiên, trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính
trị (khóa IX) về BVMT trong thời kỳ cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cũng
đã nhận định: “Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc

đã đến mức báo động… các thảm họa do thiên tai và những diễn biến xấu về khí
hậu tồn cầu đang tăng, gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi trường, đặt công tác
BVMT trước những thách thức gay gắt” [19, tr.1]. Sở dĩ, thực trạng môi trường như

1


vậy là do chúng ta còn chưa nhận thức một cách đúng đắn về tầm quan trọng của
công tác bảo vệ, phát triển và gìn giữ mơi trường; chưa biến nhận thức, trách nhiệm
của bản thân đối với việc BVMT thành hành động cụ thể; chưa đảm bảo được sự
hài hịa giữa phát triển kinh tế và BVMT,…
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh GD ĐĐMT cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt
là lực lượng thanh niên, “rường cột” của nước nhà là vơ cùng cần thiết.
Trước tình hình trên, Vĩnh Long là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu
Long - vùng trọng điểm nông nghiệp và an ninh lương thực của cả nước. Vĩnh Long
nằm giữa vùng ảnh hưởng của hai trung tâm kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh
và thành phố Cần Thơ, là tỉnh có mật độ dân số cao, với 70% dân số sống ở nông
thôn và chủ yếu làm nông nghiệp. Nông nghiệp tạo ra hơn 1/2 GDP và chiếm gần
90% giá trị xuất khẩu, cho nên nơng nghiệp ln đóng vai trị quan trọng trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Tuy nhiên, những năm qua tỉnh cũng
phải đối mặt với những hệ lụy của môi trường như: ơ nhiễm khơng khí do khói bụi
và tiếng ồn, ơ nhiễm khơng khí ở những làng nghề sản xuất gạch ngói và gốm, một
số nơi dư lượng của các chế phẩm hóa học làm cho đất bị chai cứng, nứt nẻ, giảm
khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, tăng hàm lượng các độc tố. Nguồn rác đến từ
rác thải sinh hoạt từ các khu dân cư, rác thải từ các chợ, rác thải từ các cơ sở sản
xuất công nghiệp, các làng nghề, rác thải trong xây dựng, rác thải y tế… cũng ngày
càng quá tải. Đặc biệt, tình trạng bị hạn và xâm ngập mặn hiện nay của đồng bằng
sơng Cửu Long trong đó có Vĩnh Long là một trong những thách thức lớn.
Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc tái sản xuất của tỉnh đạt hiệu quả cao, vấn
đề GD ĐĐMT là rất cần thiết, nhất là GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long.

Bởi lẽ, “Thanh niên chính là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20, tr.3]. Với Vĩnh Long, vai
trò của thanh niên trong xây dựng đất nước nói chung và trong BVMT có một tầm
quan trọng đặt biệt.
2


Nhận thức được tầm quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp BVMT và để
thực hiện được sứ mệnh này nhất thiết phải chú trọng việc GD ĐĐMT cho thanh
niên của tỉnh, chính vì thế tác giả chọn “Giáo dục đạo đức môi trường cho thanh
niên tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại nước ta, trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết
về ĐĐMT và GD ĐĐMT, điển hình là một số cơng trình như sau:
Đạo đức mơi trường - Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, Báo
cáo đề tài cấp bộ, do PGS.TS Nguyễn Văn Phúc chủ nhiệm, Hà Nội, 2010. Trong
cơng trình này tác giả đã nêu lên những quan điểm khác nhau về ĐĐMT, những
chuẩn mực chung và căn bản nhất về ĐĐMT như sau: Phải biết tôn trọng và bảo vệ
sự hài hòa của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên; cần sử dụng tài nguyên tiết
kiệm và có hiệu quả; tự giác và tự nguyện nâng các yêu cầu BVMT trong các hoạt
động sản xuất, khai thác, y tế, du lịch… được thể chế hóa trong các cam kết quốc tế
hoặc luật môi trường trong các quốc gia; nâng cao tinh thần tương trợ và phối hợp
hành động giải quyết các sự cố môi trường; giữ gìn mơi trường sống xanh, sạch, đẹp
trong đời sống thường nhật; thực hành lối sống văn hóa, thể hiện quan hệ hài hòa
giữa mức sống và ý nghĩa cuộc sống. Đồng thời qua sự phân tích kinh nghiệm
BVMT trên thế giới tác giả đã đưa ra một số giải pháp xây dựng ĐĐMT ở nước ta
hiện nay.

Đạo đức môi trường ở nước ta - Lý luận và thực tiễn (GS.TS Vũ Dũng; Viện
Tâm lý học; nhà xuất bản Từ điển bách khoa; 2011). Cơng trình này đã đề cập đến
một số nội dung chính như sau:
Trong phần “Một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức môi trường” tác giả
trình bày một số khái niệm và vấn đề cơ bản như: đạo đức, ĐĐMT, các tiêu chí
đánh giá ĐĐMT, sự xuất hiện và những khuynh hướng cơ bản của ĐĐMT, các chức
năng cơ bản của ĐĐMT.

3


Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung phân tích kinh nghiệm BVMT một
số nước nhìn từ góc độ ĐĐMT, chỉ ra những khía cạnh đạo đức của hoạt động
BVMT. Đây là những kinh nghiệm quý đối với Việt Nam chúng ta.
Từ góc độ của ĐĐMT, tác giả cũng chỉ ra thực trạng hành vi ĐĐMT ở nước
ta. Tác giả cho rằng vẫn còn tồn tại nhiều hành vi mang tính phi ĐĐMT xảy ra ở
nhiều nơi từ thành thị, nông thôn đến miền núi. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới sự ô nhiễm môi trường và việc BVMT chưa bền vững ở nước ta
hiện nay. Điều đáng lo ngại là nhiều khi chúng ta đã ý thức được hậu quả của hành
vi của mình, song vẫn thực hiện hành vi đó.
Trong cuốn Bảo vệ mơi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam (2003),
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã trình bày: mục tiêu của phát triển bền
vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên…
Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2004) đã cho xuất bản cuốn “Chiến lược bảo
vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Nêu lên thực
trạng môi trường ở nước ta và những thách thức đặt ra, quan điểm, mục tiêu và các
nội dung cơ bản BVMT, các giải pháp thực hiện chiến lược và việc tổ chức thực
hiện chiến lược BVMT ở nước ta.
Ngày 29.11.2005, Quốc Hội nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã

thơng qua Luật bảo vệ môi trường để thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993.
Luật quy định những chuẩn mực hàng đầu để BVMT, thực hiện các chuẩn mực này
cũng là thực hiện các hành vi ĐĐMT.
Bên cạnh đó cịn có một số cơng trình nghiên cứu chun sâu trên. Có thể kể
đến một số cơng trình có liên quan như: Hà Huy Thành (chủ biên), Một số vấn đề xã
hội, nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Đức
Khiển – Nguyễn Kim Hồng, Đạo đức mơi trường, nhà xuất bản Truyền thông –
thông tin. Hà Nội, 2011; Hồ Sỹ Quý (chủ biên), Mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; Trần

4


Lê Bảo (chủ biên), Văn hóa sinh thái nhân văn, nhà xuất bản Văn hóa - thơng tin,
Hà Nội, 2001; Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Quản lý Nhà nước đối với tài
ngun và mơi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Phạm Thị Ngọc Trầm (2005), Đạo
đức sinh thái trong hoạt động khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ mơi trường vì sự phát triển bền vững, Tạp chí Triết học, số 12; Phạm Thị
Ngọc Trầm Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường,
Triết học, số 3/2002; Hồ Sỹ Quý, Về đạo đức môi trường, Triết học, số 9/2005;
Trần Đắc Hiến (2009), Ơ nhiễm mơi trường ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải
pháp, Tạp chí Triết học, số 11; Nguyễn Thị Lan Hương (2010), Đạo đức môi
trường và truyền thống mục đích luận, Tạp chí Triết học, số 12 và Trách nhiệm môi
trường – một phương diện của trách nhiệm xã hội, Tạp chí Triết học, số 8/2009…
Các cơng trình trên đã phân tích mối quan hệ giữa con người và mơi trường.
Trong đó mơi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của
xã hội. Con người tác động vào môi trường nhằm phục vụ cho nhu cầu của mình, sự
tác động đó một mặt giúp con người tận dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên, con

người từ chỗ lệ thuộc vào tự nhiên đến cải tạo chinh phục tự nhiên. Tuy nhiên, dưới
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, môi trường tự nhiên đang bị ô nhiễm, con
người luôn phải sống trong cảnh lo âu về thiên tai, dịch bệnh… Do vậy, BVMT tự
nhiên đang trở thành một yêu cầu cấp bách. Trong đó, giáo dục là một trong những
giải pháp hàng đầu đối với BVMT. Bởi lẽ, thơng qua giáo dục sẽ hình thành nên ý
thức trách nhiệm, nghĩa vụ và định hướng hành vi BVMT ở con người.
Cơng trình Giáo dục đạo đức mơi trường cho học sinh trung học cơ sở (TS.
Dương Quang Ngọc chủ nhiệm, Bộ Giáo dục và đào tạo - Viện khoa học giáo dục
Việt Nam, Hà Nội, 2009). Cơng trình này được thực hiện nhằm giải quyết các mục
tiêu như sau: Làm sáng tỏ các khái niệm về ĐĐMT, giá trị ĐĐMT và đưa ra một số
giá trị đạo đức cơ bản cần giáo dục cho học sinh trung học cơ sở. Đồng thời, tác giả
còn đưa ra một số định hướng mang tính giải pháp để thực hiện GD ĐĐMT cho học
sinh trung học cơ sở có hiệu quả.

5


Cơng trình Vấn đề giáo dục sinh thái cho sinh viên Việt Nam hiện nay đề tài
luận án tiến sĩ của Phan Thị Hồng Duyên, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử, được bảo vệ năm 2012; Giáo dục bảo vệ môi trường cho sinh viên trường
đại học sư phạm Đồng Tháp, Lê Hiển Dương (2013), Luận văn Thạc sĩ môi trường
học, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học quốc gia Hà Nội...
Các cơng trình nhằm cung cấp cho sinh viên các chuẩn mực ứng xử với môi trường
sinh thái đồng thời hình thành cho sinh viên những tình cảm, niềm tin, tri thức và
thói quen và từ đó biến thành những động cơ, nhu cầu và hành vi đạo đức sinh thái
bên trong mỗi cá nhân sinh viên.
Nhìn chung, tất cả các cơng trình nghiên cứu điển hình trên đã tập trung
nghiên cứu ĐĐMT và GD ĐĐMT với nhiều góc độ khác nhau. Song những cơng
trình trực tiếp bàn về GD ĐĐMT cho thanh niên cả nước nói chung và thanh niên

tại tỉnh Vĩnh Long nói riêng chưa được đề cập một cách cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn của GD ĐĐMT cho thanh niên nói
chung, luận văn tập trung phân tích thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên tại tỉnh
Vĩnh Long hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả GD ĐĐMT cho thanh niên tại tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận của GD ĐĐMT và tầm quan trọng của GD ĐĐMT
cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long hiện nay,
từ đó đánh giá ưu điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GD ĐĐMT cho
thanh niên tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
GD ĐĐMT cho thanh niên nói chung và ở địa bàn tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
6


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo cứu thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2015.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVMT
đồng thời kế thừa các cơng trình nghiên cứu, bài viết trước đó có liên quan đến đề
tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lịch sử và logic, phân tích và tổng
hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GD
ĐĐMT cho thanh niên nói chung và thanh niên tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các đề tài nghiên cứu về ĐĐMT và vấn đề GD ĐĐMT cho thanh niên, phục vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy, những vấn đề liên quan đến GD ĐĐMT cho thanh
niên hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết.

7


Chƣơng 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
* Đạo đức: Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề
thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa), còn “luân lý” thường
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Ethicos nghĩa là lề thói;
tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi nói đến đạo đức cũng là nói đến những lề
thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao
tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi,
về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên.

Đạo cịn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Những nhà duy vật trước Mác, tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo
đức trong mối quan hệ giữa người với người. Song, quan niệm về con người trong
ông chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp,
dân tộc và thời đại. Tuy nhiên, đóng góp của ơng là ở chỗ coi trọng những phẩm
chất người, đặc biệt là những phẩm chất đạo đức.
C.Mác_Ph. Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời
sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Đạo đức chính là sản phẩm của lao
động, của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [37, tr.137]. Và đạo đức chính “là một sản
phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [38, tr.43]
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi nhất trí với quan niệm đạo đức như
sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp qui tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp
8


với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân –
cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội” [12, tr.55].
Theo đó, đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội. Đạo đức hình thành rất
sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi
thời đại quan tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội cho thấy sự tiến triển giá trị của
con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất và thông qua sự đấu tranh, gạn lọc,
kế thừa các giá trị. Nội dung cũng như hình thức biểu hiện đạo đức ngày càng
phong phú và hoàn thiện. Về mặt cấu trúc, đạo đức bao gồm ý thức, tình cảm và
hành động thực tiễn. Ba yếu tố đó thống nhất với nhau tạo nên nhân cách của một
con người. Vì vậy, GDĐĐ phải chú ý đến ba mặt trên.
* Đạo đức môi trường: Nếu như đạo đức điều chỉnh mối quan hệ giữa người
và người, giữa cá nhân và xã hội thì ĐĐMT với tư cách là một bộ phận của đạo đức

lại là cơ sở cho điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Có rất nhiều
quan niệm khác nhau về ĐĐMT, trong đó phải kể đến các quan niệm cơ bản sau:
Thứ nhất là quan niệm lấy con người là trung tâm (anthropocentric). Quan
niệm này cho rằng: Con người là trung tâm và quan trọng nhất trên hành tinh. “Tất
cả mọi trách nhiệm về mặt môi trường đều xuất phát từ lợi ích của con người mà
thơi. Ở đây người ta cho rằng chỉ có con người là những sinh vật mới đáng kể về
mặt đạo đức. Vì mơi trường vơ cùng hệ trọng cho sự an vui và sự sống cịn của con
người nên chúng ta phải có bổn phận đối với môi trường, một bổn phận xuất phát từ
lợi ích của con người” [dẫn theo 30, tr.139]. Quan niệm này tuy có quan tâm đến
mơi trường nhưng cơ bản chỉ quan tâm đến lợi ích con người, đề cao quyền con
người hơn hết thảy quyền của các sinh vật khác. Từ đó, quan niệm này cho rằng,
con người có toàn quyền trong việc khai thác và sử dụng tự nhiên, mà không quan
tâm nhiều lắm đến việc cần phải tơn trọng tự nhiên. Đó cũng chính là ngun nhân
sâu xa của tình trạng ngày càng xấu đi của mơi trường.
Thứ hai là quan niệm đạo đức học duy sinh vật (biocentric). Quan niệm này
cho rằng “tất cả một hình thức của sự sống đều đương nhiên có quyền tồn tại” [30,
tr.150]. Mọi sinh thể, mọi vật thể đều có giá trị nội tại. Đại diện cho quan niệm này

9


là P.Taylor, theo ông, mỗi một sự vật, một thực thể bất kỳ đều có hai giá trị: “Giá trị
thực dụng: là giá trị của nó đối với con người, là khả năng đáp ứng nhu cầu nào đó
của con người; Và giá trị nội tại là giá trị vốn có của nó với tư cách là một thực thể
tương ứng và bình đẳng với các thực thể khác. Vì, con người thường chỉ thấy được
giá trị thực dụng mà không thấy được giá trị nội tại của sự vật cho nên con người
cho mình cái quyền tự do khai thác, hủy hoại tự nhiên nhằm phục vụ cho nhu cầu
ích kỷ của mình” [47, tr.48 - 49]. Theo quan niệm này thì tự nhiên là bình đẳng về
mặt giá trị với con người. Vì thế con người phải tơn trọng tự nhiên, có trách nhiệm
bảo vệ tự nhiên, BVMT.

Thứ ba là quan niệm đạo đức học duy sinh thái (ecocentrism). Quan niệm
này cho rằng: “Môi trường đáng được quan tâm về mặt đạo đức chứ khơng phải
quan tâm vì những lợi ích của con người (hay của các động vật)” và “Mơi trường có
những quyền rõ ràng, nó có tư cách như là con người về mặt đạo đức, nó đáng được
chăm sóc, nó có giá trị tự thân. Mơi trường tự nó được xem là một giá trị đạo đức
ngang với con người” [dẫn theo 30, tr.140]. Quan niệm này cũng đòi hỏi con người
cư xử với tự nhiên một cách “có đạo đức”. Đại diện cho quan niệm này là Aldo
Leopold. Ông cho rằng tất cả các loài, kể cả con người, là sản phẩm của một q
trình tiến hóa lâu dài trong q trình sống của họ. A.Leopold đề xuất một quy luật
đạo đức phổ quát nhằm định hướng và đánh giá hành động của con người như sau:
“Một hành động được coi là đúng khi nó nhằm bảo vệ sự tồn vẹn, sự ổn định và vẻ
đẹp của cộng đồng sinh vật, nếu ngược lại thì đó là một hành động sai” [dẫn theo
12, tr.98]. Tư tưởng của A.Leopold về việc xây dựng một thái độ, một quan hệ mới,
bình đẳng giữa con người và tự nhiên đã được nhiều học giả tiếp thu, phát triển và
mở rộng để xây dựng một nền đạo đức mới - ĐĐMT.
Bên cạnh những quan điểm điển hình trên, có thể kể đến một số khái niệm
ĐĐMT như sau:
Từ điển Bách khoa thư xuất bản tại Mỹ cho rằng: ĐĐMT là một bộ phận của
triết học môi trường nghiên cứu mối quan hệ đạo đức giữa con người với mơi
trường tự nhiên. Cịn trong Bách khoa thư triết học Stanford thì khẳng định: ĐĐMT

10


là lĩnh vực nghiên cứu mối quan hệ đạo đức của con người với các giá trị và chuẩn
mực đạo đức đối với môi trường.
Trong cuốn sách Giới thiệu về đạo đức môi trường của Ernest Partridge,
Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008) cho rằng: ĐĐMT thể hiện trách
nhiệm của con người đối với việc tôn trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật
không phải là con người.

Theo Baird Callicort (2008) thì: ĐĐMT là lĩnh vực nghiên cứu những phạm
trù, những quan điểm đạo đức liên quan đến sự phát triển dân số, sự tiêu dùng tài
nguyên, đảm bảo các quyền của động vật, sinh vật sống… [12, tr.59 - 60].
Ở Việt Nam, ĐĐMT đơi khi cịn được gọi là đạo đức sinh thái. Trong bài viết
“Xây dựng đạo đức sinh thái, một trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”,
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm cho rằng: Đạo đức sinh thái bao gồm những quan điểm,
quan niệm, tư tưởng, tình cảm, những nguyên tắc, chuẩn mực, quy định, điều chỉnh
hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự nhiên nhằm phục vụ cho sự
sống của con người, cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội trong những
điều kiện tự nhiên - xã hội nhất định [xem 58]. Trong cơng trình nghiên cứu “Văn hóa
sinh thái nhân văn” do Trần Lê Bảo chủ biên, các tác giả đã sử dụng thuật ngữ đạo đức
sinh thái để chỉ ĐĐMT và định nghĩa: “Đạo đức sinh thái là quan niệm và cách ứng xử
của con người và xã hội loài người đối với giới tự nhiên nhằm đảm bảo sự cùng tồn tại
và phát triển của tự nhiên và xã hội” [4, tr.161].
Tác giả Hồ Sỹ Quý thì cho rằng: ĐĐMT là những chuẩn mực tự nhiên, bình
thường ngấm sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi
người và mỗi cộng đồng. Con người BVMT, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng
trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, khơng vì mục đích vụ lợi
nào khác; ĐĐMT biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người, mỗi cộng đồng.
Trình độ cao của ĐĐMT biểu hiện ở ý thức và kỹ năng xử lý những vấn đề mơi
trường; ĐĐMT, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên của con người - con
người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường sống quanh họ [xem 49].

11


Đáng chú ý nhất trong các định nghĩa về ĐĐMT cho đến nay, theo chúng tôi
là hai định nghĩa sau:
Trong giáo trình “Đạo đức mơi trường”, tác giả Nguyễn Văn Phúc định
nghĩa: “Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh

quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [47, tr.73].
Cịn theo tác giả Vũ Dũng thì: “Đạo đức môi trường là tổng hợp các qui tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình với
mơi trường sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã
hội và với sự phát triển môi trường một cách bền vững, thể hiện sự tôn trọng của
con người đối với môi trường” [12, tr.60].
Dù nhấn mạnh phương diện này hay phương diện khác của ĐĐMT thì các
định nghĩa trên đều cho thấy những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, coi ĐĐMT là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh
và đánh giá hành vi, cách ứng xử của con người đối với môi trường.
Thứ hai, nhấn mạnh tính tự giác trong điều chỉnh hành vi của con người với
mơi trường, coi đó là một đặc trưng của đạo đức.
Thứ ba, xem ĐĐMT là lĩnh vực thể hiện mối quan hệ của con người với
môi trường tự nhiên (tài nguyên, đất đai, thực vật, động vật, khơng khí...). Đây
là mối quan hệ đề cao sự tơn trọng và có trách nhiệm của con người đối với
mơi trường.
Như vậy, ĐĐMT thể hiện hành vi của con người đối với mơi trường vừa
mang tính bắt buộc và vừa mang tính tự giác. Do đó, để điều chỉnh hành vi này
phương pháp giáo dục là phương pháp mang lại hiệu quả nhất.
* Giáo dục và giáo dục đạo đức
Khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm hiện nay để chỉ
“Quá trình hình thành, phát triển nhân cách con người, được tổ chức một cách có
mục đích, có kế hoạch thơng qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục và
đối tượng giáo dục nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội mà lồi
người đã tích lũy trong lịch sử. Đó là q trình tác động có mục đích, có tổ chức, có

12


kế hoạch, có phương pháp mà nhà giáo dục tiến hành trong các cơ quan chuyên

biệt” [23, tr.9]. Bản chất của giáo dục là quá trình truyền thụ và tiếp thu, lĩnh hội tri
thức của các thế hệ người nhằm mục tiêu xác định đáp ứng yêu cầu của phát triển
xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đồng thời mục đích cuối cùng là xây
dựng nhân cách con người tồn diện.
Theo đó, giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng của giáo dục
nhằm hình thành ở họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức, đó là
những phẩm chất đạo đức cần thiết theo yêu cầu của xã hội, trong từng giai đoạn
phát triển nhất định.
GDĐĐ với tư cách là phức hợp các hoạt động cũng chính là giải pháp nâng
cao ý thức đạo đức của con người, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức
đối với hành vi của con người, của các thành viên xã hội phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Sự cần thiết GDĐĐ là
do hệ thống giá trị đạo đức xã hội luôn vận động biến đổi theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, GDĐĐ nhằm góp phần định hướng giá trị đạo đức, điều chỉnh hành
vi đạo đức xã hội, xây dựng nhân cách theo nhu cầu phát triển của xã hội.
* Giáo dục ĐĐMT
Giáo dục cũng là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đối với
việc BVMT. Bởi lẽ, thông qua giáo dục hình thành ở các cá nhân, cộng đồng những
nhận thức đúng đắn, thái độ và hành vi BVMT phù hợp. Trong giáo dục BVMT thì
GD ĐĐMT có vai trị quan trọng. Nó hướng tới sự hình thành ở con người ý thức
trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc BVMT, khơi dậy lương tâm, ý thức đối với
vấn đề BVMT.
GD ĐĐMT là một lĩnh vực của GDĐĐ. Cũng như mọi hình thức giáo dục
khác, “GD ĐĐMT là một quá trình giáo dục cho con người những tri thức khoa
học, hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, về sự thích
nghi của con người với những biến đổi của môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo sự
thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên, hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững vì cả giới tự nhiên và con người, giúp con người có được tri thức đúng

13



đắn về giá trị của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống của chính mình. Đồng thời,
giáo dục con người những tình cảm u q, tơn trọng tự nhiên, thân thiện với thiên
nhiên, có thái độ, trách nhiệm và lối sống văn hố đối với tự nhiên, sống hịa thuận
với thiên nhiên” [xem 54].
GD ĐĐMT gắn bó chặt chẽ với giáo dục môi trường mà thực chất là cung
cấp cho con người những nhận thức đúng đắn về môi trường. Bởi lẽ, giáo dục mơi
trường có mục đích “làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức
tạp của môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều
nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận
thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong phịng ngừa và giải quyết các vấn đề mơi trường và quản lý
chất lượng môi trường” [31, tr.178].
Như vậy, GD ĐĐMT là một hoạt động có định hướng, nhằm cung cấp tri
thức ĐĐMT, những chuẩn mực, nguyên tắc trong ứng xử với mơi trường tự nhiên.
ĐĐMT hình thành ở đối tượng được giáo dục những tình cảm, tri thức, niềm tin, ý
chí, thói quen và từ đó biến thành nhu cầu, động cơ và năng lực ĐĐMT bên trong
mỗi cá nhân. ĐĐMT thúc đẩy sự quan tâm đến lợi ích của tự nhiên, của cộng đồng
xã hội, từ đó hình thành con người thái độ, hành vi đạo đức sinh thái đúng, ứng xử
tích cực đối với các vấn đề môi trường cụ thể, khắc phục những hành vi lệch chuẩn
trong ứng xử với tự nhiên, đồng thời xây dựng tình u thiên nhiên, sống thân thiện
với mơi trường thiên nhiên, bồi dưỡng lòng yêu thương con người, đảm bảo sự hài
hòa giữa quyền lợi của cá nhân với quyền lợi của người khác và cộng đồng trong
ứng xử với mơi trường tự nhiên vì sự phát triển bền vững của cả tự nhiên, cả xã hội.
Như vậy, theo chúng tôi thực chất của GD ĐĐMT là xây dựng quan niệm,
thái độ và chuẩn mực nhân văn của con người với tự nhiên, từ đó giúp cho con
người hành động phù hợp với những chuẩn mực nhân văn đó. Những chuẩn mực
ĐĐMT xã hội ln có tính chất mệnh lệnh. Vì thế hành vi ứng xử với tự nhiên được
coi là có đạo đức phải là một hành động tự giác, tự nguyện, xuất phát từ động cơ,

tình cảm, niềm tin đạo đức của con người. Quá trình nội tâm hóa những quy tắc
ĐĐMT thành hành động tự giác cũng chính là bản chất của việc GD ĐĐMT.

14



×