Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Lạm phát từ lý thuyết đến thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.02 KB, 66 trang )

Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Đề tài:
LẠM PHÁT- TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008, thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể
từ cuộc Đại suy thoái 1929-1933. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính
ở Mỹ, thế giới chứng kiển sự sụp đổ của những định chế tài chính khổng
lồ. Lý do sâu xa của nó là sự mất cân bằng quốc tế của các khu vực kinh
tế trụ cột trên thế giới và những vấn đề nội tại của hệ thống ngân hàng
Mỹ và Châu Âu. Cho đến thời điểm này, hàng loạt ngân hàng tên tuổi đã
phải tuyên bố phá sản hoặc nhờ chính phủ cứu trợ. Thị trường tài chính
nhiều nước gần như đóng băng, kéo theo là nền kinh tế thực sự suy
thoái.Nạn thất nghiệp tăng đến mức báo động, nhất là trong tầng lớp dân
nghèo ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển Thương mại
quốc tế giảm mạnh, sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa có
dấu hiệu ngừng lại, lạm phát xảy ra ở khắp nơi. Mặc dù nhiều nước đã
đưa ra những gói kích cầu lớn, với tổng số tiền cơng bố tồn cầu xấp xỉ
2000 tỉ USD, những dự báo lạc quan nhất cũng chỉ hy vọng thế giới sẽ
bắt đầu phục hồi vào đầu năm 2010.
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi vịng xốy đó. 2008 là năm nền
kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những vấn đề phức tạp trong nước
cũng như những tác động khó lường từ tình hình thế giới. Đặc biệt là nạn
lạm phát tăng cao khiến nền kinh tế nước ta khơng tránh khỏi rơi vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng, ngân sách Chính phủ thâm hụt, đời
sống người dân gặp nhiều khó khăn.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

1




Đề án mơn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Chính vì thế, lạm phát hiện nay đã trở thành vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội. Ổn định lạm phát là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ
lạm phát là một trong những chỉ tiêu vĩ mô quan trọng đánh giá “tình
hình sức khỏe” của một nền kinh tế bên cạnh các chỉ tiêu tăng trưởng và
thất nghiệp.Bên cạnh đó, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động
tổng hợp từ các yếu tố kinh tế khác nhau, và rất khó nhận ra đâu là
nguyên nhân chủ yếu, nên việc kiềm chế lạm phát thường gặp rất nhiều
khó khăn.
Theo báo cáo, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực
châu Á vì GDP của Việt Nam chỉ chiếm xấp xỉ 1% so với toàn khu vực,
trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tưởng bởi tốc
độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác
động từ chính thành cơng q lớn và q nhanh chóng của mình. Đặc
biệt, đối với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường
chưa lâu, cuộc khủng hoảng kinh tế lần này có thể làm xói mịn niềm tin
vào thị trường, nhất là khi vai trò của Nhà Nước đã được nhấn mạnh trở
lại ngay cả ở Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai
lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục con đường đang đi. Nên coi cuộc
khủng hoảng lần này như một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế
giới đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam cần lựa chọn cho mình một chiến
lược phát triển khôn ngoan và bền vững.

SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1


2


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

PHẦN I
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm:
1.1 Định nghĩa:
Trong kinh tế học, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng
tiền. Trong một nền kinh tế, điều này đồng nghĩa với “vật giá leo thang”,
giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền,
người tiêu dùng mua được ít hàng hóa hơn, hay phải trả một giá cao hơn
để hưởng cùng một loại dịch vụ. Cần chú ý là sự tăng giá của một vài
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

3


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngồi thị trường khơng có nghĩa
là đã xảy ra lạm phát.
Khi so sánh với một nền kinh tế khác thì lạm phát là sự “phá giá
tiền tệ” của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. . Thông thường

theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong
phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, cịn theo nghĩa thứ hai thì người ta
hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền lưu hành trong
dân chúng tăng lên do Nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu
cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách…). Trong khi
đó, số lượng hàng hóa khơng tăng thêm khiến dân chúng cầm trong tay
quá nhiều tiền sẽ dẫn đến tranh mua, điều này làm cho giá cả tăng vọt, có
khi cịn dẫn đến siêu lạm phát. Những ví dụ điển hình của siêu lạm phát
đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920, khi tỉ lệ lạm phát
lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đơi mỗi 49 tiếng
đồng hồ, hoặc tại Hungary sau Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19
x 1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
Một khái niệm cũng rất hay được đề cập trong kinh tế là tỉ lệ lạm
phát cơ bản. Lạm phát cơ bản chính là lạm phát thể hiện việc thay đổi
mức giá mang tính chất lâu dài, loại bỏ những biến động giá mang tính
chất tạm thời trong chỉ số giá tiêu dùng. Lạm phát cơ bản là một chỉ báo
quan trọng đối với xu hướng lạm phát hiện hành và trong tương lai. Chỉ
số này giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thể nhận biết được sự
biến động giá tiêu dùng chỉ xảy ra trong thời gian ngắn hạn hay đó là xu
thế lâu dài. Vì vậy, lạm phát cơ bản là thông tin đầu vào quan trọng trong
việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Phân loại:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

4


Đề án môn học


GVHD: Phùng Nam Phương

Một phương pháp thông thường là phân loại lạm phát dựa trên mức
độ:
a. Thiểu phát: trong kinh tế học được hiểu là lạm phát ở tỉ lệ rất
thấp.
b. Lạm phát thấp: mức lạm phát tương ứng với mức độ tăng giá từ
3%- 7% một năm.
c. Lạm phát cao (lạm phát phi mã): mức lạm phát tương ứng với
tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.
Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã
trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung, lạm phát phi mã nếu duy trì trong thời gian dài sẽ gây
ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền
sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa
đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng
hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ
mạnh để làm phương tiện thanh tốn cho các giao dịch có giá trị lớn và
tích lũy của cải.
d. Siêu lạm phát: là lạm phát “mất kiểm sốt” , tình trạng giá cả
tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Khơng có định nghĩa chính xác
về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một cách hiểu đơn giản là chỉ
số lạm phát hằng tháng từ 50% trở lên ( cứ 31 ngày giá cả tăng gấp đơi).
Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu
lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước
Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào
tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm
sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1


5


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc
siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó
thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ
nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các
hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định.
Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian
sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân
sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng
hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trị quan trọng trong việc gây
ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Theo tiêu chuẩn Kế tốn quốc tế, có bốn chỉ tiêu để xác định siêu
lạm phát:
- Người dân không muốn giữ tài sản của mình dưới dạng tiền.
- Giá cả hàng hóa trong nước khơng cịn được tính bằng nội tệ mà
tính bằng một ngoại tệ ổn định.
- Các khoản tín dụng sẽ tính cả khoản mất giá cho dù thời gian tín
dụng là rất ngắn.
- Lãi suất, tiền cơng và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỉ lệ lạm
phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100%

SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1


6


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Tỉ lệ lạm phát của các nước trên thế giới
2. Các chỉ số đo lường lạm phát:
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá
cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế
(thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước,
mặc dù các Liên đoàn lao động và tạp chí kinh doanh cũng làm việc
này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để
đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập
hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm
hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời
điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

7


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Khơng tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì

giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi
hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế
mà nó được thực hiện. Các nhà kinh tế thường dùng hai chỉ tiêu để đánh
giá mức độ lạm phát của một nền kinh tế: chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ
số giảm phát tổng sản phẩm trong nước GDP deflator.
2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index):
Chỉ số giá tiêu dùng thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia,
phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá theo thời gian của các mặt
hàng trong “rổ” hàng hóa và dịch vụ đại diện.
Rổ hàng hóa và dịch vụ đại diện để tính chỉ số giá tiêu dùng là một
danh mục gồm các loại hàng hóa và dịch vụ phổ biến, đại diện cho tiêu
dùng của dân cư.
CPI đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi “người tiêu dùng
thơng thường” một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp,
những sự thay đổi theo phần trăm hằng năm trong các chỉ số này là tỉ lệ
lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được
sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong
muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỉ lệ
tăng của CPI. Đơi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh
giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên
theo sự tăng của CPI, thông thường với một tốc độ chậm hơn so với tỉ lệ
lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
CPI nhằm theo dõi mức tăng giảm giá của hàng hóa tiêu dùng, các
nhóm hàng quan trọng nhất có ảnh hưởng đến đời sống cũng như tâm lý
của dân chúng.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

8



Đề án mơn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử
dụng trọng số cố định trong tính tốn. Mức độ bao phủ của chỉ số này chỉ
giới hạn đối với một số hàng hóa tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào
tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hóa cơ bản của người dân thành thị
mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản
ánh giá cả sinh hoạt là:
Không phản ảnh biến động của giá hàng hóa tư bản.
Khơng phản ảnh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu dùng cũng
như sự thay đổi trong phân bố chi tiêu của người tiêu dùng cho những
hàng hóa khác nhau theo thời gian.
2.2 Chỉ số giảm phát GDP ( Gross Domestic Product deflactor):
Chỉ số giảm phát GDP, còn gọi là chỉ số điều chỉnh GDP là chỉ số
tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các loại hàng hóa,
dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị
GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm
so với mức giá của năm cơ sở.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính tốn của tổng sản phẩm
quốc nội. Hay nói cách khác, nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP thực tế
(GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác
định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh, hay GDP thực. Nó là phép
đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính tốn
tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số này không phản ánh
trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động
của tỷ giá hối đối. Nhược điểm chính của chỉ số này là không thể hiện
được sự thay đổi của chất lượng hàng hóa khi tính tốn tỷ lệ lạm phát và

chỉ số không thể hiện được sự biến động giá cả trong từng tháng.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

9


Đề án mơn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = GDP danh nghĩa
100 x
GDP thực tế
So sánh CPI và chỉ số giảm phát GDP:
- CPI có thể đo lường hằng tháng, không như chỉ số giảm phát
GDP có tính tổng hợp hơn nên chỉ có thể đo lường hằng quý ở mức tin
cậy hạn chế và muốn đạt được độ tin cậy ở mức độ cao thì phải là chỉ số
hằng năm vì lúc đó thống kê mới thu thập chỉ số đầy đủ.
- Khác với Chỉ số giá tiêu dùng CPI, DGDP được tính trên giỏ
hàng hố thay đổi do vậy nó phản ánh được sự thay thế giữa các hàng
hoá, dịch vụ với nhau. Mặc dù vậy nó lại khơng phản ánh được sự giảm
sút phúc lợi của người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn
một loại hàng nào đó. Ví dụ: do sau dịch cúm gà, giá gà trở nên quá đắt
so với giá thịt lợn nên người tiêu dùng sẽ mua ít thịt gà hơn và mua
nhiều thịt lợn hơn. Phúc lợi của người tiêu dùng đã giảm xuống do họ
phải tiêu dùng thịt gà ít hơn nhưng DGDP khơng phản ánh được điều
này cho dù nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt lợn.
- CPI chỉ phản ánh mức giá của hàng tiêu dùng còn DGDP phản
ánh giá của cả hàng hoá do doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế DGDP

được coi là phản ánh đúng hơn mức giá chung.
- DGDP chỉ phản ánh mức giá của những hàng hố sản xuất trong
nước (vì GDP chỉ tính sản phẩm trong nước) cịn CPI phản ánh mức giá
của cả hàng hố nhập khẩu. Ví dụ: khi giá một chiếc xe ơ tơ Toyota nhập
khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI nhưng khơng được phản ánh ở
DGDP.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

10


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

- CPI không phải là chỉ số áp dụng cho GDP. Nhưng vì tiêu dùng
cuối cùng ở nhiều nước lên tới 50-90% GDP, nên CPI và chỉ số giảm
phát cho GDP thường không khác nhau nhiều, kể cả ở những nước mà
tiêu dùng cuối cùng chỉ ở khoảng 50-60%.
Ngoài ra, tùy điều kiện và quy mơ nền kinh tế, người ta cịn dùng
một vài chỉ số sau đây để đo lường lạm phát:
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt
của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau
là có hay khơng việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự
tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI
có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những
khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực
(chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận

được khơng tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó
khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều
là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là khơng bằng với những gì
người tiêu dùng đã thanh tốn. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình
giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI.
Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có
khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày
"hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong
những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
Chỉ số giá bán buôn: đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán
bn (thơng thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ
số này rất giống với PPI.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

11


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Chỉ số giá hàng hóa: đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa
một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy
nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì
chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo
chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo
Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market
Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về
lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí

tiêu dùng cá nhân".
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, nhưng xét về bản chất, có
thể chia ra làm bốn nhóm chính: lạm phát do chính sách, lạm phát do
cầu, lạm phát do cung, và lạm phát do quán tính.
3.1 Lạm phát do chính sách:
Thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở rộng, phản ánh thâm
hụt thu chi ngân sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng tiền tệ, thường là
cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ kinh điển đó là những trận siêu lạm
phát ở áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái quá.
3.2 Lạm phát do cầu: (demand-pull inflaction)
Lạm phát do cầu, còn được gọi là lạm phát cầu kéo (demand-pull
inflation), xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung khơng đổi hoặc
tổng
cung
tăng
chậm
hơn
tổng
cầu.
Có nhiều ngun nhân làm tăng tổng cầu:

SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

12


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương


- Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh
nghiệp. Khi đó, có một lượng tiền lớn được tung ra mua hàng hoá và
dịch vụ gây ra sự thừa tiền trong lưu thông, dẫn đến việc đồng tiền bị
mất giá.
- Do tăng cán cân thương mại, khiến cho nước ngồi tăng mua
hàng trong nước, cịn người trong nước giảm mua hàng nước ngồi.
- Do Chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế. Nếu chính phủ tăng
chi tiêu của mình dành cho hàng hố và dịch vụ, lượng tiền mà chính
phủ chi mua hàng hố và dịch vụ sẽ được đưa trực tiếp vào nền kinh tế,
làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ giảm thuế hoặc tăng chi chuyển
nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của
hộ gia đình, tức là tăng cầu. Hiện nay, nguyên nhân tăng chi tiêu của
Chính phủ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng
lạm phát cao.
- Do việc kiểm sốt lượng cung tiền của ngân hàng trung ương còn
hạn chế. Ngân hàng trung ương khơng kiểm sốt được lượng cung tiền
hợp lí, cung tiền tăng làm tăng lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân
làm tăng cầu.
3.3 Lạm phát do cung: (cost-push inflation)
Lạm phát do cung, còn được gọi là lạm phát chi phí đẩy (cost-push
inflattion), xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc năng lực sản xuất
của quốc gia bị giảm sút, trong cả hai trường hợp đều tạo ra áp lực tăng
giá.
Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng
tiền lương danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,... Do chi phí sản
xuất tăng nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm
lợi nhuận, cuối cùng, thị trường cân bằng tại mức giá cao hơn ban đầu.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1


13


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có thể do các nguyên nhân
như: giảm sút nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên,
do sự biến động chính trị, chiến tranh, thiên tai,... Do năng lực sản xuất
suy giảm nên khả năng đáp ứng nhu cầu giảm, gây khan hiếm hàng hoá
và tăng giá cả.
Cả hai trường hợp nêu trên tuy có cơ chế tác động khác nhau
nhưng cùng có một kết quả sau cùng: nền kinh tế vừa bị lạm phát vừa
giảm sản lượng.
3.4 Lạm phát do quán tính: (inertial inflation)
Lạm phát do quán tính (inertial inflation) hay lạm phát dự kiến
(expected inflation) là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến nó sẽ
tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này được đưa vào các hợp đồng kinh tế,
các kế hoạch hay các loại thoả thuận khác. Và, chính vì mọi người đều
đưa tỷ lệ lạm phát dự kiến này vào mọi hoạt động của mình nên cuối
cùng nó trở thành hiện thực.
Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền
kinh tế bị lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng
tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hằng ngày, họ đem tiền đổi lấy các đồng
tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hố để tích trữ giá trị, làm tăng
lượng tiền lưu thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng
lạm phát.
4. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế:
4.1 Ảnh hướng tích cực:

Lạm phát khó có thể là một điều tốt lành cho nền kinh tế trừ trường
hợp ở mức độ nhẹ và trong tầm kiểm sốt của chính phủ. Ví dụ, hàng
năm chính phủ có thể phát hành thêm một lượng tiền mới để tiêu xài cho
những chương trình cơng cộng hoặc giải quyết thiếu hụt ngân sách khiến
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

14


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

đồng tiền được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy cao tổng sản
lượng quốc dân GDP (Gross Domestic Product) lên thêm một mức. Dĩ
nhiên nếu quá đà sẽ có nguy cơ gây ra lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát
và làm các hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt.
Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn
cho phép của nền kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính
phủ sử dụng khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hi vọng sang
năm kinh tế tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn.
Một chút lạm phát cũng khiến doanh nghiệp kiếm thêm lợi nhuận
vì thơng thường từ khâu nhập ngun liệu (giá trước lạm phát) đến lúc
hoàn thành sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho doanh vụ.
Tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải cũng tùy thuộc vào tình hình
phát triển kinh tế của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng quốc
gia khác nhau. Theo lẽ thơng thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở
mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó, các quốc gia
đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh (tỉ lệ phát triển xấp xỉ 10%) có thể chấp
nhận một tỉ lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ phát triển

dưới 5%).
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát
(tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế.
Ơng dùng từ "dầu bơi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát.
Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải
chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản
xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp
sẽ giảm.
4.2 Ảnh hưởng tiêu cực:
4.2.1 Đối với lạm phát có thể dự kiến được:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

15


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Trong trường hợp nền kinh tế có khả năng dự báo trước việc
xảy ra lạm phát, các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động
ứng phó với nó, tuy nhiên những hậu quả mà nó đem lại ít nhiều là
khơng thể tránh khỏi.
Chi phí mịn giày: là một giả thuyết của trường phái kinh tế học
Keynes mới nhằm khẳng định rằng giá cả cứng nhắc trong ngắn hạn là
do có sự tồn tại của chi phí điều chỉnh giá cả.
Giả thuyết xuất phát từ thuật ngữ kinh tế “chi phí mịn giày”, mượn
hình ảnh khi giá cả tăng lên, người ta phải đến ngân hàng thường xuyên
hơn để rút tiền về tiêu, và việc đi lại nhiều hơn này làm cho giày chóng
bị rách hơn.

Lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm
phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Các nhà kinh
tế đã dùng thuật ngữ này để chỉ những tổn thất phát sinh do những bất
tiện cùng với thời gian tiêu tốn mà người ta hứng chịu so với trước khi
có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát ln dẫn đến việc giá cả tăng lên. Trong
ngắn hạn, có thể mức giá tăng lên là không lớn nhưng việc sửa lại (in ấn,
phân phát lại…) các thực đơn, các báo giá để phản ánh việc tăng giá cả
nhỏ nói trên là khơng nhỏ. Các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn
lợi ích mà họ thu được nếu tăng giá bán sản phẩm của mình. Vì vậy, các
doanh nghiệp có xu hướng trong ngắn hạn sẽ khơng thay đổi giá cả. Và
vì vậy, họ cũng sẽ không thay đổi mức tiền công trả cho lao động, cũng
không thay đổi số lao động trong doanh nghiệp của mình.
Thế có nghĩa là, trong ngắn hạn, thị trường hàng hóa có thể xảy ra
hiện tượng mất cân bằng. Tổn thất xã hội và tổn thất cá nhân (doanh
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

16


Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

nghiệp) sẽ xảy ra, song tổn thất cá nhân nhỏ hơn tổn thất xã hội. Đây là
một loại thất bại thị trường, và vì thế, cần có sự can thiệp của Nhà nước
vào nền kinh tế.
Giả thuyết này dựa trên một số giả định quan trọng đó là: (1)
Doanh nghiệp phải là doanh nghiệp giữ khả năng chi phối thị trường, và

các doanh nghiệp khác sẽ ngại tăng giá sản phẩm của mình khi thấy
doanh nghiệp chi phối thị trường không tăng giá. (2) Doanh nghiệp duy
lý và dự tính được lạm phát. (3) Mức thay đổi giá trong ngắn hạn là nhỏ
và chỉ sau một thời gian dài, mức thay đổi giá gộp lại mới lớn.
Ảo giác tiền tệ: giả dụ giảm tiền công danh nghĩa đi 2% trong điều
kiện vật giá chung khơng đổi, thì người lao động sẽ nhận ra ngay. Nhưng
nếu tăng tiền công thêm 2% trong điều kiện mức giá chung tăng tới 4%
thì người lao động lại khơng nhận thấy là tiền cơng thực tế của mình bị
giảm. Mặt khác, tăng tiền công danh nghĩa với một tỷ lệ bằng tỷ lệ lạm
phát, nghĩa là tiền công thực tế khơng đổi, thì người lao động sẽ cho rằng
thu nhập của mình tăng lên và có thể tiêu dùng nhiều hơn.
Ảo giác tiền tệ khiến cho quyết định của các chủ thể kinh tế trở nên
khơng chính xác và hành vi kinh tế của họ bị làm méo mó. Giá cả, do đó,
khơng linh hoạt. Từ đó dẫn đến nền kinh tế có thể ở trạng thái mất cân
bằng và thiếu hiệu quả.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong
trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát
sinh chi phí thực đơn) cịn doanh nghiệp khác lại khơng tăng giá do
khơng muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ
nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền
kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát
đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mơ.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

17


Đề án mơn học

GVHD: Phùng Nam Phương


Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân
trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế khơng tính đến
ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá
nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá
nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh
nghĩa và thu nhập thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để
làm thước đo trong tính tốn các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái
thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các
quyết định của mình.
4.2.2 Đối với lạm phát khơng thể dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại
của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín
dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự
kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm
phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi cịn người đi vay chịu
thiệt hại. Lạm phát khơng dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát
nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác
động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất
do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ
lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh,
tác động xã hội của nó thơng qua việc phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả
các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
5. Các giải pháp kiềm chế lạm phát:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

18



Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

Ổn định lạm phát là một hành vi của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
Nước điều trị cho một nền kinh tế khi có lạm phát xảy ra. Muốn bình ổn
hiệu quả thì phải tìm ra những nguyên nhân của lạm phát và từ đó có
những giải pháp thích hợp. Khi biết được đích xác nguồn gốc của lạm
phát thì việc chữa trị nó là điều khả thi. . Điều cần lưu ý ở đây là khơng
có giải pháp nào là hồn hảo, mọi biện pháp bình ổn lạm phát đều có cái
giá phải trả của nó, khơng có giải pháp nào là hồn toàn hoàn chỉnh và lý
tưởng cả.
Theo các nhà kinh tế học, có 8 nhóm để kiềm chế lạm phát, đó là:
- Thắt chặt tiền tệ.
- Cắt giảm đầu tư, chi phí khơng cần thiết.
- Đẩy mạnh sản xuất.
- Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu,
chống nhập siêu.
- Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
- Quản lý thị trường, chống đầu cơ.
- Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội.
- Đồng tâm hiệp lực để ổn định tình hình kinh tế, xã hội.

SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

19



Đề án môn học

GVHD: Phùng Nam Phương

PHẦN II
THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. Sơ bộ kinh tế Việt Nam từ trước đến nay:
1.1 Bối cảnh chung của nền kinh tế:
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay,
nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn
20 năm qua (trong 5 năm 2003-2007 GDP tăng bình quân trên 8%/năm).
Đời sống nhân dân được tăng lên, thu nhập GDP bình quân đầu người từ
402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 2007, và hơn 1000 USD năm
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1

20



×