Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.7 KB, 6 trang )
Điều hòa hoạt động gen ở
sinh vật nhân sơ
Cơ chế điều hòa biểu hiện của gen ở sinh vật nhân sơ đã được F.Jacôp và
J.Mono phát hiện lần đầu tiên ở vi khuẩn E.coli năm 1961. Hai tác giả này
đưa ra mô hình opêrôn Lac, trong đó đề cập thành phần và vai trò của các gen
điều hòa (regulator : R), gen vận hành (operator: O), vùng khởi động
(promoter: P) và nhóm gen cấu trúc (structural genes). Nhóm gen cấu trúc ở
đây khi được phiên mã tạo ra policistronic (đa cistron - đa gen), gồm 3 gen Z,
Y, A trong đó gen Z mã hóa enzim β galactosidaza có vai trò thủy phân
đường lactozơ thành galactozơ và glucozơ, đồng thời còn có vai trò chuyển
hóa lactozơ thành allolactozơ là phân tử bất hoạt prôtêin ức chế.
1. Điều hòa âm tính (negetive control)
Đối với operon Lac thì tín hiệu điều hòa ở đây là đường lactozơ. Khi không
có lactozơ, gen Z không được biểu hiện, còn khi trong môi trường tế bào có
lactozơ thì gen Z mới biểu hiện, nghĩa là được phiên mã để tổng hợp enzim
cần cho sự phân hủy lactozơ. Sự điều hòa biểu hiện của gen diễn ra hoàn toàn
ở mức độ phiên mã.
Cơ chế điều hòa dựa vào tương tác của prôtêin điều hòa với gen O (vận
hành). Prôtêin điều hòa được gọi là yếu tố kìm hãm hay ức chế (repressor)
được gen điều hòa (R) tổng hợp. Mối tương tác giữa chất ức chế và gen O
được thể hiện ở hai trường hợp:
- Khi môi trườn không có lactozơ, chất ức chế gắn vào O, ngăn cản sự phiên
mã của nhóm gen cấu trúc, vì enzim phiên mã không hoạt động được.
- Khi trong môi trường có lactozơ, được gọi là nhân tố cảm ứng của operon
Lac, tác nhân này sẽ gắn vào chất ức chế làm thay đổi cấu hình không gian
của chất ức chế, do đó nó không gắn vào gen O được. Nhờ đó enzim phiên
mã mARN polimeraza mới thực hiện được quá trình phiên mã ở nhóm gen
cấu trúc để tổng hợp enzim chuyển hóa lactozơ.