Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Toàn cầu hoá và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.66 KB, 24 trang )



1
mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, trên thế giới có nhiều biến động lớn. Một trong những biến
động đó là toàn cầu hoá đang cuốn hút tất cả các nớc trên thế giới. Đây là một xu thế tất
yếu, khách quan, hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài
nếu không muốn bị tụt hậu. Toàn cầu hoá, một mặt, đem lại cho tất cả các nớc nhất là
các nớc đang phát triển, những cơ hội lớn, mặt khác, nó cũng đặt ra những thách thức
không nhỏ. Một trong những thách thức đáng lo ngại đó là sự phá vỡ những giá trị truyền
thống vốn có từ lâu đời của các dân tộc, làm cho dân tộc này có thể bị hoà tan hay trở
thành cái bóng của một dân tộc khác, tức là làm đánh mất bản thân mình và đánh mất sức
mạnh vốn có của chính dân tộc mình.
Cũng nh tất cả các nớc khác trên thế giới, để tồn tại và tiếp tục phát triển, Việt
Nam không thể đứng ngoài dòng chảy toàn cầu hoá. Trong những năm vừa qua, chúng ta
đã và đang từng bớc chủ động hội nhập với khu vực và thế giới. Kết quả của quá trình
mở cửa, hội nhập đã làm thay đổi diện mạo nền kinh tế đất nớc. Nhờ tăng trởng kinh tế
liên tục ở mức độ cao mà đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, vị thế của Việt Nam
trên trờng quốc tế đợc nâng lên. Điều đó chứng tỏ con đờng hội nhập của chúng ta là
hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, sự hội nhập quốc tế cũng chứa
đựng nguy cơ đe doạ những giá trị tinh thần truyền thống vốn có từ bao đời nay của dân
tộc. Không ít những sản phẩm văn hoá, những t tởng, lối sống ngoại lai đang có nguy
cơ làm băng hoại những gì làm nên tinh hoa, cốt cách và bản lĩnh con ngời Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế trong
điều kiện toàn cầu hoá, chúng ta không những không đánh mất những giá trị truyền thống
của dân tộc mà còn có thể giữ gìn, kế thừa, phát huy và đổi mới những giá trị đó, biến
chúng thành sức mạnh đa đất nớc lên một tầm cao mới, đủ sức nắm bắt những cơ hội
mới do chính quá trình toàn cầu hoá đem lại. Mặt khác, cần chủ động tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tinh hoa của nhân loại phù hợp với xu thế chung của thời đại. Vì vậy, việc
nghiên cứu toàn cầu hoá và kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn


cầu hoá thật sự là vấn đề cấp bách cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Toàn cầu hoá và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế- xã hội là một vấn đề
lớn và mang tính thời sự, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài n
ớc
tập trung nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình sau đây:
Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp của
tác giả Chu Tuấn Cáp (chủ biên), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002). Trên cơ sở
phân tích lý luận và thực tiễn quá trình phát triển của toàn cầu hoá cùng những tác động


2
của nó, các tác giả đã trình bày quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, nêu lên
những thành công bớc đầu, những hạn chế và bài học kinh nghiệm của nớc ta; Toàn
cầu hoá - những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Lê Hữu Nghĩa - Lê Ngọc Tòng
(đồng chủ biên), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004). Đây là kết quả nghiên cứu của
đề tài KX. 08. 01 về Xu thế toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI gồm có 27
chuyên luận tập trung làm rõ các vấn đề về đặc điểm, bản chất của toàn cầu hoá, tính chất
hai mặt của toàn cầu hoá đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia và sự tác động của
toàn cầu hoá đến các mặt chính trị - xã hội, văn hoá của các nớc. Đồng thời, từ kinh
nghiệm của các quốc gia trên thế giới để thấy đợc những thời cơ và thách thức đối với
Việt Nam khi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia toàn cầu hoá kinh tế.
Công trình Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức đối với các nớc đang phát
triển của tác giả Đờng Vinh Sờng, (Nxb Thế giới, 2004) là công trình nghiên cứu
đợc thực hiện trên cơ sở phân tích, tổng hợp quá trình phát triển, những đặc trng cơ bản
của toàn cầu hoá kinh tế, những cơ hội và thách thức đặt ra với các nớc đang phát triển,
đồng thời có sự liên hệ với Việt Nam trong quá trình đổi mới. Công trình Toàn cầu hoá,
tăng trởng và nghèo đói, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới do Vũ
Hoàng Linh dịch, (Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 2002), đã đề cập đến những tác
động mang tính hai mặt của toàn cầu hoá. Bên cạnh đó, các công trình do Nguyễn Văn

Thanh (chủ biên) nh: Những mảng tối của toàn cầu hoá, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2003); Bình minh của một toàn cầu hoá khác, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003); Toàn cầu hoá dới những góc nhìn khác nhau, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005); công trình Toàn cầu hoá và những hiện thực mới của tác giả Mahathir
Mohamad (nguyên Thủ tớng Malaixia), (Nxb trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2004) đã phân tích
sự bất bình đẳng trong quá trình toàn cầu hoá, chỉ rõ những áp đặt phi lý từ những nớc t
bản phát triển đối với những n
ớc nghèo và kém phát triển dẫn tới làn sóng đấu tranh
phản đối toàn cầu hoá mạnh mẽ trên thế giới.
Nh vậy, các công trình trên chủ yếu xem xét toàn cầu hoá dới góc độ kinh tế mà
cha nhìn nhận toàn cầu hoá với t cách là một chỉnh thể bao gồm tất cả các mặt: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội luôn tác động qua lại lẫn nhau, trong đó kinh tế giữ vai trò nền
tảng. Hơn nữa, các công trình trên chủ yếu chỉ dừng lại ở sự tác động của toàn cầu hoá đối
với kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc hội nhập
kinh tế quốc tế đối với Việt Nam mà cha chú trọng nhiều đến sự tác động của toàn cầu
hoá đến các giá trị truyền thống của dân tộc và vấn đề kế thừa các giá trị truyền thống đó
trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay nh thế nào. Đây cũng chính là sự gợi mở cho một
hớng nghiên cứu mới mà tác giả sẽ thực hiện trong luận án này.


3
Vấn đề nghiên cứu về giá trị truyền thống của dân tộc, tiêu biểu phải kể đến công
trình nghiên cứu của tác giả Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980). Trong công trình này, tác giả đã đề
cập đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức. Đề tài KX- 07- 02 mang
tên: Các giá trị truyền thống và con ngời Việt Nam hiện nay, do Phan Huy Lê và Vũ
Minh Giang chủ biên, đã nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của các
giá trị truyền thống Việt Nam, phân tích nội dung cấu thành của truyền thống Việt Nam,
đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của di sản truyền thống, đồng thời đa ra những

khuyến nghị về phơng hớng và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống để
giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại.
Công trình nghiên cứu xã hội học do tác giả Phạm Minh Hạc chủ biên Vấn đề
con ngời trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996) đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về truyền thống, cơ sở hình thành cùng
những nội dung cơ bản của truyền thống Việt Nam và phát huy vai trò của truyền thống
trong nhân tố con ngời phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công trình
Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001), do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức,
Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên đã phản ánh rõ những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống
đợc thể hiện trong mối quan hệ giữa văn hoá truyền thống với sự phát triển trong đó nhấn
mạnh vị thế chủ thể của văn hoá nội sinh trong hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực của
Nho giáo Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Khi đất nớc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
sự chuyển đổi và định hớng giá trị trong điều kiện kinh tế thị trờng. Theo hớng nghiên
cứu này, có các công trình nh: Giá trị - định h
ớng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị của các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang, Đề tài KX- 07-
04, (Hà Nội, 1995); Công trình này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về lý luận giá trị,
xu hớng giá trị của con ngời Việt Nam và đề ra những nguyên tắc, nội dung, biện pháp
giáo dục giá trị ở nớc ta hiện nay. Công trình Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay do các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn
Văn Phúc đồng chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) đã đề cập đến những
tác động của kinh tế thị trờng đối với những giá trị đạo đức truyền thống, vai trò của đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trờng và đề xuất một số giải pháp xây dựng đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay. Công trình Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội do tác giả Huỳnh Khái Vinh chủ biên, (Nxb Chính trị



4
Quốc gia, Hà Nội, 2001) đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức, chuẩn
giá trị xã hội; việc kế thừa và phát huy nếp sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội truyền
thống và cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Nh vậy, các công trình trên chủ yếu xem xét quá trình hình thành truyền thống và
giá trị truyền thống, sự chuyển đổi về giá trị trong điều kiện kinh tế thị trờng và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá mà cha chú trọng đến sự biến động của các giá trị truyền thống
trong quá trình toàn cầu hoá từ đó mà cần phải kế thừa những giá trị truyền thống nh thế
nào trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Xu hớng toàn cầu hoá lại đặt giá trị truyền thống trớc những thách thức mới. Do
vậy, những năm gần đây, đã có những cuộc hội thảo quốc tế lớn bàn về vấn đề giữ gìn và
phát huy những giá trị truyền thống của các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Công trình Giá trị truyền thống trớc những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 2002 do các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên
đồng chủ biên, tập hợp những bài viết chọn lọc của một số tác giả đợc trình bày trong
Hội thảo khoa học quốc tế Giá trị truyền thống trớc những thách thức của toàn cầu
hoá đợc tổ chức tại Hà Nội vào tháng 05 năm 2001. Gần đây nhất là cuộc Hội thảo
Quốc tế: "Toàn cầu hoá - Những vấn đề Triết học châu á - Thái Bình Dơng" đợc tổ
chức tại Hà Nội tháng 11/ 2005. Các bài tham luận đều tập trung làm rõ thực chất của
toàn cầu hoá và những thách thức cũng nh cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn
và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đồng thời bớc đầu đề xuất
một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống đó trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay. Tuy nhiên, các công trình đó vẫn cha chỉ ra đợc những giá trị
truyền thống cụ thể nào của dân tộc Việt Nam cần đợc kế thừa, tại sao phải kế thừa và kế
thừa nh thế nào trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Vì vậy, tác giả mong đợc góp
phần bổ sung làm rõ hơn về những vấn đề này.
Ngoài các công trình đã nêu ở trên, còn có nhiều công trình, bài viết khác nghiên
cứu về vấn đề này. Nh
ng do khuôn khổ hoặc do mục đích riêng mà cha có công trình
nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về sự tác động của toàn cầu hoá đối với

những giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc ta và việc kế thừa những giá trị truyền thống
đó trong bối cảnh toàn cầu hoá. Trớc tình hình đó, yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh hơn
nữa sự tập trung nghiên cứu về vấn đề này trong điều kiện hiện nay bởi đây là một vấn đề
hệ trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong xu thế hội nhập toàn cầu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Trên cơ sở làm rõ thực chất, đặc trng và tính hai mặt của toàn cầu hoá cùng với sự
biến động của các giá trị truyền thống trong xu thế toàn cầu hoá, luận án khẳng định sự


5
cần thiết phải kế thừa các giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay và những nội dung cơ bản của sự kế thừa đó.
Để thực hiện đợc mục đích trên, luận án phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ thực chất, đặc trng và tính hai mặt của toàn cầu hoá hoá trong giai đoạn
hiện nay.
- Phân tích những biến động của các giá trị truyền thống dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hoá.
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc kế thừa một số giá trị truyền
thống tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và nội dung cơ bản của
sự kế thừa đó.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án
- Luận án dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; t tởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trờng và trong
bối cảnh toàn cầu hoá cùng với các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trong thời gian
gần đây về vấn đề này.
- Luận án sử dụng các phơng pháp nghiên cứu nh: phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, lôgíc - lịch sử, quy nạp, diễn dịch
5. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án nghiên cứu toàn cầu hoá dới góc độ triết học, tức là tiếp cận toàn cầu

hoá một cách chỉnh thể và khái quát, nhằm làm rõ hơn thực chất cũng nh tính hai mặt
của quá trình này, từ đó xem xét sự tác động của toàn cầu hoá đến các giá trị truyền thống
của dân tộc mà không đi sâu vào giải quyết những vấn đề cụ thể khác liên quan đến toàn
cầu hoá.
- Luận án chỉ lựa chọn một số giá trị truyền thống tiêu biểu của dân tộc cần đợc
kế thừa trong bối cảnh toàn cầu hoá mà không đề cập đến tất cả các giá trị truyền thống.
6. Cái mới của luận án
- Luận án tiếp cận toàn cầu hoá dới góc độ triết học, nhìn nhận toàn cầu hoá với
t cách là một chỉnh thể bao gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố vừa thống nhất, vừa tác động
qua lại với nhau và mang tính hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực.
- Luận án phân tích một cách có hệ thống những biến động của các giá trị truyền
thống dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá.
- Luận án chỉ rõ những đặc trng của việc kế thừa giá trị truyền thống, những vấn
đề đặt ra trong quá trình này, đồng thời chỉ rõ tại sao trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay, chúng ta cần phải kế thừa các giá trị truyền thống, kế thừa những nội dung gì và kế
thừa nh thế nào để đạt hiệu quả cao nhất.


6
7. ý nghĩa của luận án
- Có thể sử dụng luận án làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những vấn đề về toàn cầu hoá, về giá trị truyền thống của dân tộc và sự chuyển đổi của
giá trị truyền thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Luận án cũng có ý nghĩa góp phần giải quyết một vấn đề bức bách mang tính thời
sự nóng hổi của dân tộc, đó là làm thế nào để có thể phát huy nội lực và giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá, từ đó mà góp phần thúc đẩy các nghiên cứu
tiếp theo về vấn đề này.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm có
3 chơng, 6 tiết.


Chơng 1
Ton cầu hoá - nhìn từ góc độ triết học
1.1. Thực chất và những nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá
1.1.1. Thực chất của toàn cầu hoá
Có nhiều cách tiếp cận khác về toàn cầu hoá nhng nhìn chung, cho đến nay, giới
nghiên cứu vẫn cha đạt đến một sự thống nhất hoàn toàn về khái niệm này.
Dới góc độ triết học, chúng tôi nhìn nhận toàn cầu hoá nh là một xu thế vận
động tất yếu của xã hội loài ngời theo quy luật chung từ thấp đến cao. Đó không phải là
một hiện tợng xuất hiện ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ quan của con ngời mà là một
quá trình khách quan bắt nguồn từ hoạt động sản xuất vật chất và thông qua hoạt động sản
xuất vật chất mà hình thành và phát triển. Vậy, toàn cầu hoá không phải là một cái gì
khác mà chính là xu hớng mở rộng các quan hệ giữa con ngời với con ngời trên phạm
vi toàn cầu. Trong "tổng hoà những mối quan hệ" ấy, có những quan hệ kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội Các quan hệ này tồn tại trong một chỉnh thể và tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó, quan hệ về kinh tế giữ vai trò nền tảng.
Với quan điểm đó, theo chúng tôi, toàn cầu hoá là một khái niệm chỉ quá trình vận
động của lịch sử xã hội loài ngời từ những bộ phận, quốc gia riêng lẻ, tách biệt đến hình
thành những mối liên kết chặt chẽ, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau trên tất cả các
mặt ở phạm vi toàn cầu của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội mà
nền tảng là liên kết kinh tế cùng với sự hình thành các tổ chức, các định chế quốc tế nhằm
quản lý và điều chỉnh các hoạt động mang tính toàn cầu đó.
Nh vậy, theo chúng tôi, xuất phát điểm của toàn cầu hoá là toàn cầu hoá trên lĩnh
vực kinh tế. Tuy nhiên, toàn cầu hoá về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi về chính


7
trị, văn hoá, xã hội theo chiều hớng tác động qua lại, ảnh hởng, chi phối và phụ thuộc
lẫn nhau về các lĩnh vực này giữa tất cả các quốc gia trên thế giới.
Từ khi hình thành đến nay, toàn cầu hoá đã trải qua những những giai đoạn với

những đặc trng và mức độ khác nhau. Do chịu sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ cùng những biến đổi lớn về cục
diện chính trị toàn cầu, toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay (đợc tính từ những năm 80
trở lại đây) mang hai đặc trng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, toàn cầu hoá có sự phát triển vợt bậc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,
diễn ra với tốc độ nhanh hơn và không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn có tác
động lớn đến các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hoá làm cho đời sống mọi mặt của các
quốc gia trên toàn thế giới luôn chịu sự tác động qua lại, ảnh hởng, chi phối lẫn nhau
ngày càng mạnh mẽ.
Thứ hai, toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay đang chịu sự chi phối của các nớc
t bản chủ nghĩa phát triển đứng đầu là Mỹ.
1.1.2. Những nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá
Thứ nhất, nhân tố kinh tế: đó là sự phát triển của lực lợng sản xuất và vai trò của
các công ty xuyên quốc gia.
Sự phát triển của lực lợng sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự phân công lao động xã
hội rộng rãi làm cho sự trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng ra trên phạm vi thế giới.
Một trong những kết quả của sự phân công lao động quốc tế là sự hình thành ngày càng
nhiều với vai trò ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia. Có thể nói, sự xuất hiện
của các công ty xuyên quốc gia là sản phẩm vừa là động lực của quá trình toàn cầu hoá.
Thứ hai, nhân tố khoa học - công nghệ: sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ đã tạo ra những điều kiện và phơng tiện vật chất mở đờng cho sự hình thành
và phát triển nhanh chóng của toàn cầu hoá.
Thứ ba, nhân tố chính trị - x hội: đó là chính sách mở cửa, tự do hoá thơng mại
và đầu t của các quốc gia cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều và gay gắt các vấn đề
toàn cầu buộc các quốc gia cần phải phối hợp giải quyết.
Quá trình toàn cầu hoá tr
ớc hết đợc thúc đẩy bởi các nớc t bản phát triển đứng
đầu là Mỹ, cộng với chính sách mở của hội nhập của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, thế giới lại đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu buộc các
quốc gia phải bắt tay, hợp tác cùng giải quyết. Đây là yếu tố mang tính chủ quan nhng

lại đợc hình thành một cách khách quan do nhu cầu phát triển nội tại của các quốc gia.
Nh vậy, toàn cầu hoá tuy là ý tởng của các nhà t bản và cũng là sản phẩm của chủ
nghĩa t bản nhng nó lại là một xu thế tất yếu, khách quan, hợp quy luật dựa trên những
điều kiện khách quan và chủ quan cho phép. Đó là một xu thế cần và có thể của lịch sử


8
xã hội loài ngời. Và chính vì vậy mà chúng ta không nên tìm cách chống lại nó mà chỉ
nên tìm cách thích nghi với nó để mang lại hiệu quả cao hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.2. Tính hai mặt của toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay.
1.2.1. Mặt tích cực của toàn cầu hoá
1.2.1.1. Về lĩnh vực kinh tế
Toàn cầu hoá kinh tế đem đến những cơ hội mà các nớc có thể tận dụng để đẩy
nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế. Đó là: thứ nhất, toàn cầu hoá góp phần thúc đẩy lực
lợng sản xuất và khoa học kỹ thuật phát triển; thứ hai, toàn cầu hoá thúc đẩy phân công
lao động trên phạm vi quốc tế, tạo điều kiện cho các nớc có thể tận dụng đợc thế mạnh
của mình, đồng thời tranh thủ đợc tối đa những nguồn lực từ bên ngoài để tăng trởng và
phát triển kinh tế.
Nh vậy, toàn cầu hoá đem lại nhiều cơ hội thúc đẩy tăng trởng và phát triển kinh
tế cho tất cả các nớc. Tuy nhiên, những cơ hội này là không hoàn toàn nh nhau đối với
các nớc có trình độ phát triển khác nhau.
Đối với các nớc phát triển: Thông qua phân công và hợp tác quốc tế, toàn cầu hoá
tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia của các nớc phát triển có thể khai thác từ
các nớc đang phát triển và chậm phát triển nguồn nhân công dồi dào, nguồn nguyên liệu
phong phú với giá rẻ, thị trờng tiêu thụ rộng lớn đem lại nguồn lợi nhuận cao. Mặt
khác, thông qua quá trình chuyển giao công nghệ, các nớc phát triển có cơ hội đẩy
những máy móc, thiết bị đã lỗi thời, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trờng, công suất thấp
sang cho các nớc khác, tránh hoặc giảm đợc hao mòn vô hình - một sự hao mòn đáng
sợ đối với các nhà sản xuất, đặc biệt là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ đang phát triển nh vũ bão hiện nay.

Đối với các nớc đang phát triển và chậm phát triển: Toàn cầu hoá giúp các nớc
đang phát triển có thể tiếp nhận vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nớc phát
triển để đẩy nhanh lực l
ợng sản xuất phát triển, nâng cao năng lực của nền kinh tế. Toàn
cầu hoá còn tạo điều kiện để các nớc đang phát triển tiếp cận và đa hàng hoá của mình
xâm nhập vào thị trờng thế giới.
1.2.1.2. Về một số lĩnh vực khác
Về lĩnh vực chính trị - xã hội: Toàn cầu hoá gắn kết lợi ích các quốc gia, dân tộc
lại với nhau. Chính vì vậy, trớc hết, để đảm bảo lợi ích kinh tế, trong quan hệ đối ngoại,
xu hớng đối thoại, hợp tác đã gần nh thay thế xu hớng đối đầu trớc đây. Đây là một
nhân tố quan trọng đem lại bầu không khí hoà bình, hợp tác lâu dài trên toàn cầu. Toàn
cầu hoá còn có tác động tích cực đối với vấn đề phát triển con ngời theo các hớng: nâng
cao mức sống vật chất và tinh thần của cá nhân; cải thiện các điều kiện làm việc của con
ngời; nâng cao năng lực hành động của cá nhân.


9
Ngoài ra, toàn cầu hoá còn liên kết các quốc gia trên thế giới nhằm giải quyết có
hiệu quả các vấn đề mang tính toàn cầu khác nh: bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo,
nghèo đói, chống khủng bố và tội phạm quốc tế
1.2.2. Mặt tiêu cực của toàn cầu hoá
1.2.2.1. Về lĩnh vực kinh tế
Toàn cầu hoá không những đem lại nhiều cơ hội mà còn đặt ra không ít thách thức.
Tuy nhiên, những thách thức này là không giống nhau đối với các nớc, các nhóm nớc
có trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Các nớc t bản phát triển là ngời thu đợc
nhiều lợi ích nhất thông qua toàn cầu hoá nhng không có nghĩa là họ không gặp phải
những thách thức và trở ngại trong quá trình này. Vấn đề gay cấn nhất giữa họ chủ yếu là
tranh chấp thị trờng và quyền chế định các luật chơi toàn cầu, quyền khống chế kinh tế
các khu vực và thế giới, thực chất là giành nhau sân chơi và phần lợi nhuận tối đa trong
toàn cầu hoá.

Đối với những nớc nghèo, những nớc chậm phát triển và đang phát triển thì
thách thức và mạo hiểm lại lớn hơn rất nhiều khi họ tham gia vào quá trình toàn cầu hoá.
Thứ nhất, đa số các nớc đang phát triển đều bị động trong việc gia nhập vào quá trình
toàn cầu hoá; thứ hai, sự bất bình đẳng trong cạnh tranh do lợi thế đang thuộc về các nớc
phát triển; thứ ba, toàn cầu hoá chứa đựng nguy cơ khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn
cầu mà các nớc nghèo rất khó chống đỡ.
1.2.2.2. Về các lĩnh vực khác
Về chính trị -xã hội: toàn cầu hoá hiện nay đang mang nặng dấu ấn t bản chủ
nghĩa và thế mạnh hoàn toàn thuộc về các nớc t bản phát triển. Từ chỗ chi phối về kinh
tế dẫn đến thao túng về chính trị là một điều đơng nhiên, đến nỗi ranh giới giữa chúng
hầu nh không còn. Thật sự, ngày nay thế giới đang đứng trớc một sự bất ổn về chính trị
do có sự thao túng, lũng đoạn của các thế lực đế quốc bá quyền hiếu chiến, đứng đầu là
Mỹ. Toàn cầu hoá còn chứa đựng nguy cơ bùng nổ vấn đề dân tộc và tôn giáo trên phạm
vi thế giới.
Bất bình đẳng trong sở hữu và cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đến bất bình đẳng trong
thu nhập. Sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng tăng dẫn đến khoảng cách giàu nghèo
ngày càng doãng ra và với tốc độ ngày càng nhanh. Điều này đợc thể hiện rất rõ trong
từng quốc gia cũng nh trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hoá còn chứa đựng khả năng làm
gia tăng các tệ nạn xã hội, thất nghiệp, bệnh tật hiểm nghèo, tội phạm quốc tế
* * *
Có thể nói, toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, khách quan, không thể đảo ngợc,
là một xu thế "cần và có thể" của lịch sử xã hội loài ngời. Bởi vậy, tất cả các quốc gia


10
cần phải chủ động gia nhập vào quá trình này và phải trở thành một mắt xích của chính nó
nếu không sẽ bị tụt hậu, thậm chí bị nó "cuốn phăng đi".
Toàn cầu hoá hiện nay có sự phát triển vợt bậc cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và
đang chịu sự chi phối của các nớc t bản chủ nghĩa phát triển đứng đầu là Mỹ. Với đặc
trng đó, toàn cầu hoá hiện nay mang tính hai mặt rõ rệt: vừa tích cực vừa tiêu cực; vừa

chứa đựng những thời cơ lớn lại vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho tất cả các
nớc. Những thời cơ và thách thức này luôn tồn tại đan xen, thâm nhập, chuyển hoá lẫn
nhau và cùng vận động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính
trị, văn hoá, xã hội Chính vì vậy, để có thể hội nhập có hiệu quả, các quốc gia cần phải
nhận thức rõ mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá cũng nh những cơ hội và thách
thức mà quá trình này đem lại. Từ đó, chuẩn bị khai thác mọi nguồn lực tận dụng tối đa
thời cơ và sẵn sàng đối mặt để vợt qua những thách thức đa đất nớc phát triển.

Chơng 2
sự biến động của các giá trị truyền thống
trong ton cầu hoá
2.1. Giá trị, truyền thống và giá trị truyền thống
Dới góc độ triết học, theo chúng tôi, giá trị là một phạm trù triết học dùng để chỉ
ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tợng, quá trình, quan hệ (cả vật chất lẫn tinh thần)
đối với một cá nhân, một cộng đồng, một giai cấp, một xã hội hay toàn thể nhân loại
trong một điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó cũng có nghĩa là, các sự vật, hiện tợng, quá
trình, quan hệ có thể đợc coi là có giá trị khi chúng có khả năng thoả mãn những nhu
cầu vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành mạnh của con ngời. Còn truyền thống,
là một khái niệm chỉ phức hợp những t tởng, tình cảm, tập quán, thói quen, phong tục,
lối sống, cách ứng xử, ý chí của một cộng đồng ngời đợc hình thành trong những điều
kiện lịch sử nhất định, và đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giá trị truyền thống tr
ớc hết đó là những truyền thống, nhng không phải mọi
truyền thống đều có giá trị và đều là giá trị truyền thống. Theo chúng tôi, giá trị truyền
thống là những truyền thống có giá trị vững bền, những truyền thống tốt đẹp, tích cực tiêu
biểu cho bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc
đó trong suốt chiều dài lịch sử. Hoặc cũng có thể nói, giá trị truyền thống là những giá trị
nội sinh, cao đẹp và vững bền tiêu biểu cho bản sắc văn hoá dân tộc, có tác động tích cực
thúc đẩy sự phát triển của dân tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử và đợc giữ gìn, kế thừa
từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nh vậy, có thể nói, giá trị truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa
đợc chắt lọc, cô đúc nên từ tất cả di sản truyền thống trong suốt quá trình hình thành, tồn


11
tại và phát triển của dân tộc. Toàn bộ giá trị truyền thống dân tộc là cái thể hiện cô đọng
nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng
nh không thể tách rời giá trị truyền thống với văn hoá dân tộc mà giá trị truyền thống là
một bộ phận của văn hoá, hơn thế là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh nội sinh của
một nền văn hoá.
2.2. Giá trị truyền thống trớc tác động của toàn cầu hoá.
Trong toàn cầu hoá, văn hoá nói chung và các giá trị truyền thống dân tộc nói
riêng cùng một lúc chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều yếu tố, mà trớc hết
là kinh tế. Mặt khác, bản thân văn hoá lại có những quy luật vận động nội tại riêng làm cho
giá trị truyền thống của tất cả các dân tộc trên thế thế giới tác động lẫn nhau. Do vậy, trong
toàn cầu hoá, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc không tránh khỏi sự biến động. Sự biến
động này diễn ra khá phức tạp theo hai chiều hớng chủ yếu vừa tích cực vừa tiêu cực.
Do nhu cầu phát triển kinh tế, các quốc gia buộc phải mở cửa để hội nhập. Và đó
cũng chính là cơ hội để các giá trị truyền thống của những dân tộc khác nhau đợc gặp
gỡ, đợc giao thoa, đợc tiếp xúc với nhau. Vì vậy, có thể nói, trong xu thế toàn cầu hoá,
sự giao lu, tiếp biến về văn hoá, về các giá trị truyền thống giữa các dân tộc cũng là một
vấn đề tất yếu khách quan và cũng là sự cần thiết phải có để mỗi dân tộc có thể hội nhập một
cách có hiệu quả cao nhất. Đây không chỉ là một nhu cầu tự thân của văn hoá hay giá trị
truyền thống, mà còn do sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trờng mang tính toàn cầu hiện nay.
Mặt khác, bản thân các hoạt động giải trí và du lịch, giao lu văn hoá, văn nghệ,
trao đổi thông tin qua mạng lại là con đờng ngắn nhất đa những giá trị truyền thống
của một dân tộc này đến với các dân tộc khác trên thế giới. Nh vậy, thông qua toàn cầu
hoá, các nền văn hoá của các dân tộc có cơ hội xích lại gần nhau, tạo cơ hội để các dân
tộc có thể gần gũi, thông hiểu nhau hơn. Thông qua đó, mọi dân tộc đều có thể "cho" và
"nhận", có nghĩa là họ có thể học tập, tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhau làm phong

phú cho hệ giá trị truyền thống của chính dân tộc mình. Đây cũng chính là quá trình đấu
tranh giữa hệ giá trị truyền thống của các dân tộc riêng biệt, hình thành nên những chuẩn
giá trị phổ biến phù hợp với yêu cầu của thời đại. Đến lợt mình, khi các giá trị mới đợc
hình thành và đ
ợc chấp nhận, chúng sẽ kết hợp với các giá trị truyền thống, bổ sung và
làm phong phú thêm cho giá trị truyền thống, thậm chí, còn cải tạo cả những yếu tố
không còn phù hợp của giá trị truyền thống làm cho giá trị truyền thống phát triển theo
hớng tích cực.
Tuy nhiên, trong quá trình giao lu văn hoá, u thế đang thuộc về các nớc giàu,
bởi vì, nền văn hoá của các nớc này đang đợc hậu thuẫn bởi một sức mạnh vật chất to
lớn. Chính vì vậy, những giá trị truyền thống dân tộc của các nớc chậm phát triển rất dễ
bị lấn át bởi những giá trị từ bên ngoài tràn vào, rất dễ bị mất đi bản sắc riêng. Không


12
dừng lại ở sự thống trị về kinh tế, các nớc t bản phát triển, đặc biệt là Mỹ, còn mu toan
dùng sức mạnh kinh tế để mở tung cánh cửa văn hoá của các dân tộc và tàn phá những giá
trị truyền thống của các dân tộc khác, từ đó áp đặt một nền văn hoá mới, xa lạ đợc nhào
nặn theo hình ảnh của văn hoá phơng Tây, văn hoá Mỹ. Những sản phẩm tiêu dùng chất
lợng cao, những thành tựu công nghệ hiện đại là kết quả sáng tạo của cả nhân loại,
nhng trong giai đoạn hiện nay, chúng lại đang đợc các thế lực t bản sử dụng nh một
công cụ thống trị thế giới cả về vật chất lẫn tinh thần.
Giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể, vì vậy, một hiện tợng nào đó có
thể có giá trị đối với cộng đồng ngời này mà không có giá trị đối với cộng đồng ngời
khác. Nhng bất chấp điều đó, các giá trị riêng của "thế giới ngời giàu" vẫn đợc áp đặt
lên "thế giới ngời nghèo", buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác. Mặt khác, không
chỉ có những giá trị không phù hợp mà nguy hiểm hơn, những phản giá trị từ các nớc giàu
cũng đang xâm lấn một cách mạnh mẽ hệ giá trị của các nớc nghèo trên toàn cầu.
Không chỉ bằng con đờng kinh tế, các nớc t bản chủ nghĩa phát triển, nhất là
Mỹ, còn dùng chính con đờng văn hoá để áp đặt hệ giá trị riêng của mình lên toàn thế

giới thông qua mạng thông tin toàn cầu và những sản phẩm văn hoá khác mà các nớc
này đang chiếm u thế. Thực tế trên cho thấy, văn hoá của các giàu đợc giới thiệu nhiều
và thâm nhập sâu vào các nớc nghèo, các nớc đang phát triển, còn văn hoá của các
nớc nghèo thì hầu nh khó và không có khả năng xâm nhập vào các nớc phát triển. Sự
bất bình đẳng này tr
ớc tiên đem lại bất lợi về kinh tế cho các nớc đang phát triển và
quan trọng hơn, nó có nguy cơ đe doạ và làm mất bản sắc văn hoá của các dân tộc.
Việt Nam là một đất nớc có bề dày truyền thống lâu đời với những giá trị tinh
thần độc đáo đợc hun đúc nên từ chính lịch sử đau thơng mà hào hùng của dân tộc.
Trong đó, phải kể đến những giá trị điển hình nh: tinh thần yêu nớc; ý thức coi trọng
gia đình; ý chí tự lực, tự cờng; tinh thần nhân văn, nhân ái; chủ nghĩa anh hùng cách mạng;
tinh thần đoàn kết cộng đồng, tơng thân, tơng ái; đức tính cần cù, tiết kiệm; khả năng sáng
tạo, linh hoạt, thích ứng nhanh, dễ hội nhập; tinh thần hiếu học, ham học hỏi, ham hiểu
biết Trong những giá trị đó, tinh thần yêu nớc là một giá trị chủ đạo, xuyên suốt.
Chúng ta không thể phủ nhận rằng, thông qua toàn cầu hoá, mở cửa hội nhập với
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, văn hoá Việt Nam đã đợc mở rộng và giao
lu với nhiều nền văn hoá trên thế giới. Ngời dân Việt Nam cũng đã có cơ hội tiếp nhận
những giá trị tinh hoa của các nớc khác làm phong phú thêm cho nền văn hoá của dân
tộc mình, đồng thời nền văn hoá Việt Nam với những giá trị truyền thống đặc sắc cũng đã
đợc thế giới biết đến và chiếm đợc không ít cảm tình của bạn bè thế giới. Không ít
những giá trị truyền thống của dân tộc ta đã đợc kế thừa và phát huy cao độ trở thành
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, cũng trong quá
trình toàn cầu hoá hiện nay, nhiều giá trị truyền thống đặc sắc của dân tộc lại đang bị đe


13
doạ. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt đợc trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam lại đang
đứng trớc một thực tế đáng lo ngại, đó là nguy cơ các giá trị truyền thống của dân tộc bị
băng hoại, bản sắc văn hoá phong phú và lâu đời của dân tộc cũng bị phai mờ trong cơn
lốc của hội nhập.

Một thực tế không thể phủ nhận là nhiều giá trị văn hoá đạo đức bị coi thờng thậm
chí bị chế diễu, thuần phong mỹ tục đang có nguy cơ bị chà đạp, đạo đức có nguy cơ bị
băng hoại, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng. Toàn cầu hoá, và cùng với nó là cơ chế thị
trờng, đã kéo theo những tệ nạn, những tiêu cực trong xã hội, làm cho mỗi cá nhân có
thể đánh mất bản chất tốt đẹp của mình, chạy theo dục vọng tầm thờng dẫn tới sự đảo
lộn các chuẩn mực giá trị, làm tha hoá đạo đức, lối sống.
Giữa truyền thống và hiện đại đã bộc lộ một số xu hớng tự phát mang tính cực
đoan. ở thành thị và lớp trẻ, đã bắt đầu trỗi dậy một xu hớng quay lng với truyền thống,
coi thờng di sản văn hoá và bản sắc dân tộc, đua đòi theo lối sống bên ngoài, chạy theo
đồng tiền và lợi nhuận một cách vô điều kiện. Từ đó, xuất hiện t tởng phủ nhận vai trò
của các giá trị truyền thống dân tộc mà muốn thay vào đó một hệ giá trị hoàn toàn mới.
Ngợc lại, ở nông thôn và lớp ngời lớn tuổi lại đang nổi lên xu hớng quay về truyền
thống, tuyệt đối hoá vai trò của truyền thống bằng cách khôi phục các lễ hội, các phong
tục tập quán cổ, các lối sống cổ và qua đó cũng khôi phục cả một số hủ tục, một số truyền
thống lạc hậu kể cả nạn mê tín, cờ bạc, rợu chè, đình đám
Thực trạng trên cho thấy, hơn lúc nào hết, hiện nay chúng ta cần phải định hớng
lại giá trị cho mọi ngời dân nhằm ngăn chặn những xu hớng sai lầm, xác lập những xu
hớng đúng đắn, phát huy những giá trị tinh hoa của dân tộc kết hợp với tiếp thu những
giá trị phổ quát của toàn thể nhân loại để góp phần hình thành nhân cách con ngời Việt
Nam hiện đại phù hợp với yêu cầu của xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
* * *
Toàn cầu hoá, một mặt, tạo cơ hội để các nền văn hoá của các dân tộc đ
ợc gặp gỡ,
tiếp xúc và giao lu với nhau, thông qua đó mà làm phong phú thêm hệ giá trị truyền
thống của mỗi dân tộc, hình thành những giá trị mới phù hợp với sự phát triển chung của
nhân loại. Mặt khác, chính toàn cầu hoá lại chứa đựng nguy cơ dẫn đến sự đồng nhất, sự
nghèo nàn, sự pha tạp hỗn độn của văn hoá. Việt Nam là một đất nớc có bề dày lịch sử
với một hệ giá trị truyền thống phong phú. Những giá trị truyền thống đó đã tạo nên sức
mạnh to lớn cho dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nớc và giữ
nớc. Thông qua toàn cầu hoá, những giá trị truyền thống của dân tộc đã và đang có cơ hội

đợc mở rộng, giao lu và bổ sung, đổi mới. Tuy nhiên, cũng trong quá trình toàn cầu hoá,
nhiều giá trị truyền thống của dân tộc ta đang bị đe doạ, bị xói mòn và do vậy, bản sắc văn
hoá phong phú và lâu đời của dân tộc có nguy cơ bị phai mờ.


14
Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần
khẳng định sức mạnh của những giá trị truyền thống dân tộc, từ đó mà kế thừa, phát huy
những giá trị truyền thống đó kết hợp với việc chủ động tiếp thu những giá trị tinh hoa của
nhân loại, xây dựng một nền tảng tinh thần vững chắc tạo động lực đa đất nớc phát
triển mạnh mẽ và vững chắc hơn.

Chơng 3
kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh ton cầu hoá hiện nay
3.1. Kế thừa giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay -
những vấn đề đặt ra
Kế thừa là một hiện tợng mang tính quy luật, biểu hiện đặc trng của sự phát triển
bất kể đó là sự phát triển trong tự nhiên, trong xã hội hay trong t duy. Tuy nhiên, tính
quy luật của sự kế thừa trong tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn trong lĩnh vực xã hội,
kế thừa mặc dù vẫn mang tính khách quan nhng lại gắn liền với những hoạt động có mục
đích, có ý thức của con ngời.
Kế thừa giá trị truyền thống thực chất là việc giữ lại, bổ sung, phát triển những giá
trị truyền thống của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử mới. Ai là chủ thể của sự kế thừa?
Tại sao phải kế thừa? Kế thừa trong hoàn cảnh nào? Kế thừa cái gì? Kế thừa nh thế nào?
Đó là những vấn đề cần phải lu ý trong quá trình kế thừa giá trị truyền thống.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc cần
phải đợc kế thừa và phát huy cao độ bởi vì:
Thứ nhất, việc kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc là thực sự cần thiết để bảo
vệ bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá.

Thứ hai, việc kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc còn giúp chúng ta khai thác
đợc sức mạnh nội sinh của chính dân tộc mình, đáp ứng những yêu cầu khắt khe của
toàn cầu hoá.
Thứ ba, kế thừa các giá trị truyền thống giúp tạo nên một bản lĩnh dân tộc vững
vàng trong quá trình tiếp xúc và giao lu với các nền văn hoá khác.
Tuy nhiên, kế thừa không phải là bê nguyên xi tất cả những giá trị truyền thống đã
có để đặt vào một hoàn cảnh hoàn toàn mới, mà kế thừa phải luôn gắn liền với lọc bỏ, đổi
mới và phát triển. Chính vì vậy, theo chúng tôi, kế thừa các giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay cần phải thực hiện đồng thời các hoạt động sau đây: thứ nhất,
gạt bỏ mặt hạn chế, tiêu cực và những truyền thống lạc hậu, bảo thủ; thứ hai, kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống cũng nh những mặt tích cực, tiến bộ của truyền
thống; thứ ba, hiện đại hoá các nhân tố truyền thống trong những điều kiện mới để cái


15
truyền thống có thể tồn tại ngang hàng với những gì hiện đại nhất của xã hội hiện đại; thứ
t, chủ động xử lý và tích cực tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại phù hợp với
yêu cầu của xu thế toàn cầu hoá. Bốn hoạt động trên nếu đợc tiến hành đồng thời sẽ có
tác dụng hỗ trợ lẫn nhau làm cho việc kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc đạt hiệu quả
cao hơn.
3.2. Một số giá trị truyền thống dân tộc cần đợc kế thừa trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay.
3.2.1. Giá trị truyền thống yêu nớc.
Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, tinh thần yêu nớc truyền thống rất cần
đợc kế thừa và phát huy cao độ. Bởi vì:
Thứ nhất, yêu nớc vẫn thực sự là một giá trị, đáp ứng những yêu cầu của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Thứ hai, do tác động của toàn cầu hoá cùng với một số yếu tố khác, giá trị yêu
nớc truyền thống đang có những biến động theo những chiều hớng khác nhau dẫn đến
nguy cơ bị suy giảm hoặc biến dạng.

Theo chúng tôi, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, kế thừa giá trị truyền thống
yêu nớc là giữ lại những yếu tố cốt lõi của nó, những yếu tố bất biến qua các giai đoạn
lịch sử. Đó chính là t tởng, tình cảm thể hiện lòng trung thành và sự yêu thơng, gắn bó
của con ngời đối với Tổ quốc, là ý chí và hành động quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do
cho đất nớc và hạnh phúc của nhân dân, đem lại những điều tốt đẹp nhất cho đất nớc,
đặt quyền lợi của quốc gia lên trên lợi ích của cá nhân mình. Trong điều kiện hiện nay,
yêu nớc cũng mang nhiều nội dung và hình thức thể hiện đa dạng, phong phú. Tuy
nhiên, nội dung cơ bản nhất của yêu nớc trong giai đoạn hiện nay là tất cả mọi ngời dân
phải đem hết tài năng, sức lực, trí tuệ và lòng nhiệt huyết của mình để góp phần thúc đẩy
tăng tr
ởng và phát triển kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để phát huy truyền thống yêu nớc trong nhân dân, chúng ta cần lu ý: thứ nhất,
tuyên truyền để ngời dân hiểu vì sao họ cần phải yêu nớc và làm thế nào để thể hiện
lòng yêu nớc; thứ hai, tạo điều kiện, môi trờng thuận lợi cho ngời dân có những hoạt
động cụ thể góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nớc; thứ ba, nâng cao hơn nữa đời
sống nhân dân, thực hiện tốt công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội, đẩy lùi nạn tham
nhũng làm cho ngời dân thêm tin tởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc, tự
nguyện góp phần xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp; thứ t, tăng cờng tuyên truyền,
giáo dục đạo đức truyền thống cho nhân dân, phát động sâu rộng các phong trào thi đua
yêu nớc, nêu gơng những ngời có công với nớc nhằm khơi dậy tinh thần yêu nớc
truyền thống trong mọi tầng lớp nhân dân.


16
3.2.2. Giá trị truyền thống gia đình
Gia đình là một giá trị chung của toàn thể nhân loại, tuy nhiên, ở Việt Nam, giá trị
này luôn đợc u tiên hàng đầu và thực sự trở thành một giá trị truyền thống bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải kế thừa và phát huy giá
trị truyền thống gia đình bởi vì:

Thứ nhất, gia đình vẫn thực sự là một giá trị mà không có bất kỳ một thiết chế, một
tổ chức xã hội hay một phát minh khoa học nào có thể thay thế đợc. Điều đó đợc thể hiện
ở vai trò của gia đình trong việc tái sản xuất và nuôi dỡng, giáo dục thế hệ tơng lai; trong
các hoạt động kinh tế; trong việc thoả mãn những nhu cầu tâm - sinh lý của con ngời Vì
vậy, gia đình vẫn luôn là chỗ dựa cần thiết cho mỗi con ngời trong một thế giới đang
trong quá trình toàn cầu hoá đầy biến động nh hiện nay.
Thứ hai, do tác động của toàn cầu hoá, của cơ chế kinh tế thị trờng, của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ , gia đình Việt Nam hiện nay đang đứng trớc những
thách thức không nhỏ. Điều này biểu hiện ở sự thay đổi cấu trúc gia đình; quan niệm về
hạnh phúc, lối sống, cách giáo dục con cái; mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình theo hớng mất đi tính bền vững vốn có trớc đây.
Kế thừa giá trị truyền thống gia đình của dân tộc trớc hết là tôn trọng, giữ gìn và
phát huy các chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh, cách c xử mang đậm tính
nhân văn giữa các thành viên. Đó là tình nghĩa thuỷ chung giữa vợ với chồng; tình
thơng và trách nhiệm với con cái, lòng hiếu thảo đối với ông, bà, cha, mẹ; lòng biết ơn
và tôn kính tổ tiên và trên hết là sự bền vững của gia đình. Đồng thời, cũng cần loại bỏ
khỏi gia đình những quan niệm lạc hậu lạc hậu đã từng tồn tại trong một thời kỳ dài ở
nớc ta. Chẳng hạn nh: tính gia trởng, trọng nam khinh nữ; lối áp đặt một chiều từ
phía cha mẹ đối với con cái; việc coi nhẹ lợi ích và nhu cầu riêng t của mỗi thành
viên Mặt khác, cũng cần tiếp thu những giá trị văn hoá gia đình hiện đại nh:
sự tôn
trọng quyền con ngời nhất là đối với phụ nữ và trẻ em; tôn trọng lợi ích cá nhân; tinh
thần bình đẳng, dân chủ giữa các thành viên; tôn trọng pháp luật
Để kế thừa có hiệu quả giá trị bền vững của gia đình, cần phải lu ý một số điểm
sau đây:
Thứ nhất, mỗi ngời dân cần phải nhận thức rõ hơn về vai trò to lớn của gia đình
đối với đời sống vật chất và tinh thần của chính mình, để từ đó nhận thấy sự cần thiết
phải giữ gìn sự bền vững của gia đình nh là một nhu cầu tự thân.
Thứ hai, gia đình chỉ thực sự bền vững khi nó đợc chính những thành viên trong
gia đình dày công vun đắp. Các thế hệ trong gia đình nên phát huy hết khả năng và vai

trò của mình trong việc tổ chức, sắp xếp gia đình để gia đình có thể thực hiện một cách
tốt nhất những chức năng hết sức đặc biệt của nó.


17
Thứ ba, về phía nhà nớc và các tổ chức xã hội cũng cần phải có những chính
sách phù hợp và hữu hiệu hơn nữa nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của gia đình
trong thời kỳ hội nhập.
3.2.3. Giá trị truyền thống nhân văn.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giá trị nhân văn truyền thống cần đợc
kế thừa một mặt, do yêu cầu của chính quá trình toàn cầu hoá, mặt khác, do sự tác
động của toàn cầu hoá, của cơ chế kinh tế thị trờng và của một số nhân tố khác, giá
trị nhân văn của dân tộc ta nói riêng, cũng nh của toàn nhân loại nói chung, đang có
nguy cơ bị đe doạ.
Kế thừa giá trị truyền thống nhân văn của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay, trớc hết cần giữ lại và phát huy yếu tố cốt lõi của nó đó là tình yêu thơng đồng
bào, đồng loại; là mong muốn đợc sống trong độc lập, tự do; là sự khoan dung, độ lợng
đối với kẻ thù; là ý thức đề cao vai trò của con ngời trong cuộc sống; là sự phản đối và
chống lại những hành vi bạo ngợc, phi nghĩa, bất nhân hớng tới thực hiện những hiện
những quyền tự do thiêng liêng và cao cả nhất của con ngời.
Để việc kế thừa giá trị truyền thống nhân văn trong bối cảnh toàn cầu hoá đạt hiệu
quả cao, theo chúng tôi, cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, phải gắn tăng trởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội nh xoá
đói, giảm nghèo; hạn chế các tệ nạn xã hội đã, đang và sẽ làm què quặt cả thể xác và tinh
thần của một bộ phận dân c, nhất là thanh thiếu niên; xử lý nghiêm minh những hành vi
vi phạm pháp luật và quyền con ngời.
Thứ hai, cần tiếp tục phát huy giá trị nhân văn truyền thống trong quan hệ đối
ngoại và giải quyết các vấn đề toàn cầu nh: hợp tác với các quốc gia trớc đây vốn là kẻ
thù của dân tộc, tích cực tham gia vào các phong trào chống chiến tranh phi nghĩa, chống
chạy đua vũ trang, chống sử dụng vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, chống áp bức bất

công, bảo vệ môi trờng
3.2.4. Giá trị truyền thống đoàn kết.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đoàn kết vẫn thực sự là một giá trị truyền
thống cần đ
ợc kế thừa trớc hết, để đáp ứng yêu cầu của chính quá trình hội nhập bởi
những thách thức không nhỏ của xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang đòi hỏi một sự nỗ lực
vơn lên, phát huy sức mạnh của tất cả mọi ngời dân Việt Nam. Mặt khác, trong thời kỳ
xây dựng đất nớc hiện nay, tinh thần đoàn kết dân tộc đang có nguy cơ bị biến dạng.
Kế thừa giá trị truyền thống đoàn kết trớc hết, cần giữ lại và phát huy yếu tố cốt
lõi của nó đó là sự đồng tâm, hợp sức của tất cả mọi ngời dân Việt Nam vì lợi ích chung
của dân tộc, vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, cần loại bỏ t


18
tởng bè phái, cục bộ địa phơng núp dới danh nghĩa đoàn kết của một hay một số
nhóm ngời nào đó nhằm phá rối tình hình trật tự trị an trong nớc.
Để kế thừa và phát huy có hiệu quả truyền thống đoàn kết của dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần lu ý:
- Về mặt nhận thức, cần làm rõ, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đoàn kết để
đa đất nớc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; đoàn kết không chỉ những ngời dân trong
nớc mà với cả những ngời Việt Nam đang sinh sống ở nớc ngoài.
- Mặt khác, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách đại đoàn kết dân tộc,
củng cố sự đoàn kết trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, làm cho mọi ngời dân yên
tâm, tin tởng và ủng hộ sự nghiệp cách mạng của đất nớc.
Để có thể phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện
nay không chỉ cần phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, t tởng, đạo đức, càng không
thể đa ra những mệnh lệnh hành chính buộc mọi ngời phải đoàn kết mà đó phải là sự tự
nguyện, là nhu cầu của mọi ngời dân. Một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên một chất
keo dính kết mọi ngời dân lại với nhau đó chính là sự tơng đồng về lợi ích. Chính vì
vậy, cần phải có những chính sách kinh tế - xã hội làm tăng sự ràng buộc lẫn nhau về lợi

ích giữa các thành phần kinh tế, các vùng miền, các tầng lớp dân c khác nhau, các thành
phần kinh tế đều bình đẳng trớc pháp luật. Chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi
tầng lớp nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, khắc phục nguy cơ chênh lệch giàu nghèo
ngày càng lớn. Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính và tích cực hơn nữa trong việc chống
tham nhũng để củng cố niềm tin đối với nhân dân, có nh vậy mới thu hút đợc sự ủng hộ
của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng của đất n
ớc.
3.2.5. Giá trị truyền thống hiếu học.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giá trị truyền thống hiếu học cần phải đợc
kế thừa và phát huy cao độ bởi vì nó vẫn thực sự là một giá trị đáp ứng những đòi hỏi của
sự phát triển đất nớc trong điều kiện nền kinh tế tri thức hiện nay. Tuy nhiên, do ảnh
hởng của lối sống thực dụng cộng hởng với mặt trái của cơ chế kinh tế thị trờng, của
cơ chế quản lí cha phù hợp và của một số nguyên nhân khác, động cơ của lòng ham học
đã có phần lệch lạc đi so với trớc đây, tinh thần hiếu học truyền thống của dân tộc đang
có nguy cơ bị biến dạng hoặc chỉ mang tính hình thức.
Kế thừa giá trị truyền thống hiếu học tức là phát huy tinh thần ham học, thích đợc
học, tự nguyện và khát khao vơn tới tri thức, vợt qua mọi khó khăn để nâng cao
hiểu biết, khám phá thế giới tự nhiên và xã hội của các thế hệ ngời Việt Nam. Để kế
thừa và phát huy có hiệu quả tinh thần hiếu học, theo chúng tôi, cần lu ý một số giải
pháp sau đây:


19
Thứ nhất, cần có quan niệm mới về học tập: học là một quá trình trong đó chủ thể
tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lợm và xử lý thông tin, từ môi
trờng sống xung quanh mình; học không chỉ dừng lại ở việc thoả mãn những nhu cầu
hiểu biết của riêng cá nhân hay để mu sinh mà cao hơn, học là để hoàn thiện mình; học
là để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của quá trình toàn cầu hoá, học là để hội nhập tốt
hơn, học là để tránh bị tụt hậu xa hơn nữa về mọi mặt so với các cá nhân khác, các dân
tộc khác trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, nhà nớc cần phải tạo ra một cơ chế sử dụng lao động, sử dụng cán bộ,
chế độ tiền lơng thật sự công bằng sao cho mọi ngời đều nhận thấy rõ giá trị của tri
thức để việc học tập trở thành nhu cầu tự thân của của mỗi thành viên trong xã hội, trớc
hết vì lợi ích của chính bản thân họ và sau nữa là để khẳng định một giá trị tinh thần,
khẳng định vị trí của mình trong xã hội, một vị trí đợc xã hội tôn vinh.
Thứ ba, nhà nớc cần quan tâm đầu t cho giáo dục nhiều hơn nữa để giáo dục
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo
điều kiện cho ngời nghèo có cơ hội học tập, biến cả xã hội thành một "xã hội học tập".
Thứ t, tiếp tục đổi mới nội dung và phơng pháp giáo dục nhằm nâng cao chất
lợng dạy học trong từng cấp học, phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú cho
ngời học.
Thứ năm, về phía cá nhân, phải xem học tập là một nhu cầu bức thiết của bản thân
không thể không đợc đáp ứng trong điều kiện hiện nay. Mặt khác, còn phải xem học tập
là nhiệm vụ thờng xuyên, suốt đời.
3.2.6. Giá trị truyền thống cần cù, tiết kiệm.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, cần cù vẫn thực sự là một giá trị cần đợc
kế thừa, một mặt, bởi vì, nớc ta vẫn còn là một nớc nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ
công còn chiếm u thế, đời sống của đại đa số ng
ời dân còn khó khăn, nên ngời dân
vẫn rất cần phải cần cù, chịu khó trong lao động. Mặt khác, toàn cầu hoá cũng đem đến
nguy cơ xem nhẹ truyền thống cần cù của dân tộc hay chí ít là cha phát huy đúng mức
truyền thống này.
Kế thừa truyền thống cần cù, là phát huy tinh thần nhiệt tình, kiên nhẫn, chịu khó
trong lao động; lòng say mê, yêu lao động, yêu công việc, yêu nghề nghiệp; tinh thần
trách nhiệm cao nhằm đạt đợc kết quả lao động tốt nhất mà cha ông chúng ta đã từng
phát huy và đã mang lại những thành quả lao động đáng trân trọng.
Để kế thừa có hiệu quả truyền thống cần cù với t cách là một giá trị, chúng ta cần
chú ý giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:



20
Thứ nhất, cần làm cho mọi ngời dân hiểu rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện
nay, cần phải chăm chỉ hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn trong lao động, học tập, công tác
để làm giàu cho bản thân và cho đất nớc.
Thứ hai, cần phải khắc phục t tởng bình quân chủ nghĩa, coi trọng lợi ích chính
đáng của ngời lao động, có chính sách tạo đợc nhiều việc làm. Đồng thời, cần có cơ chế
quản lí sao cho ngời lao động có thể chủ động và phải có trách nhiệm với công việc đợc
giao, tránh thái độ chây lời, ỉ lại trong lao động.
Thứ ba, cần cù phải gắn với sáng tạo và nắm bắt đợc những công nghệ tiên tiến
để áp dụng vào trong sản xuất, cần cù phải đợc kết hợp chặt chẽ với lao động có kỷ luật,
có kỹ thuật và có năng suất cao.
Trong truyền thống của dân tộc ta, cần cù luôn gắn liền với tiết kiệm. Những năm
gần đây, đã và đang xuất hiện xu hớng lao vào hởng thụ, tiêu xài lãng phí, xa hoa cả
trong sinh hoạt cá nhân cũng nh trong sinh hoạt tập thể. Trong khi đó, nớc ta vẫn là một
nớc nghèo, vì vậy, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm, phải khắc phục xu hớng chạy theo
xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa, lãng phí khi điều kiện cha cho phép. Để kế thừa và
phát huy truyền thống tiết kiệm của dân tộc trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần giải
quyết tốt các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần động viên, tuyên truyền, giải thích để ngời dân tự giác thực hành
tiết kiệm trong tiêu dùng, phát huy lối sống giản dị, biết tiêu dùng đúng mức, hạn chế chi
tiêu cho những nhu cầu không hoặc cha cần thiết, biết dành dụm cho tơng lai
Thứ hai, Nhà nớc cần có cơ chế, chính sách phù hợp để buộc các chủ thể kinh tế,
các doanh nghiệp phải tiết kiệm trong sản xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam trên thị trờng khu vực và thế giới.
Thứ ba, cần tiết kiệm hơn nữa trong đầu t và xây dựng cơ bản. Các dự án đầu t
cần phải đợc lựa chọn kỹ càng, đúng hớng, tránh đầu t dàn trải, tràn lan, đầu t vào
những dự án cha thực sự cần thiết hoặc những dự án cần số vốn đầu t cao nhng công
suất sử dụng lại thấp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, cần tiếp tục đẩy mạnh
chống tham nhũng, lãng phí của công hoặc làm thất thoát tiền của của Nhà nớc trong
lĩnh vực này.

Thứ t, cần tiết kiệm thời gian cho mọi hoạt động. Trong bối cảnh toàn cầu hoá
hiện nay, thời gian luôn là một yếu tố vô cùng quan trọng mà chúng ta cần phải tận dụng
để có thể đuổi kịp thế giới nếu không muốn bị tụt lại ngày càng xa.
Thứ năm, thực hiện nghiêm túc Luật chống lãng phí và xử lý nghiêm những cá
nhân, tập thể vi phạm. Thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân c, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các hoạt động nh ma chay, cới
xin, giỗ chạp


21
* * *
Hệ giá trị truyền thống của dân tộc ta rất phong phú và tất cả các giá trị đó đều cần
đợc kế thừa trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, trong đó nổi bật lên các giá trị: yêu
nớc; coi trọng gia đình; nhân văn; đoàn kết; hiếu học; cần cù, tiết kiệm Đó là những
giá trị truyền thống căn bản nhất của dân tộc và cũng là những giá trị có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay, những giá trị đó vẫn thật sự cần thiết để tạo nên một sức mạnh nội sinh cho đất nớc
vợt qua những khó khăn, thử thách của thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, do tác động của xu
thế toàn cầu hoá và một số yếu tố khác, các giá trị truyền thống nói trên đang bị biến đổi
mạnh mẽ theo những xu hớng khác nhau. Chính vì vậy, việc kế thừa những giá trị truyền
thống đó trong giai đoạn hiện nay là thật sự cần thiết.
Quá trình kế thừa luôn gắn với việc lọc bỏ và đổi mới. Chúng ta vừa loại bỏ những
mặt, những nhân tố lạc hậu không còn phù hợp của truyền thống và giá trị truyền thống,
đồng thời lại vừa kế thừa những nhân tố tích cực và biến đổi nó cho phù hợp với yêu cầu
của tình hình mới. Mặt khác, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc cần đợc kết
hợp với việc chủ động tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, vơn tới những giá
trị đích thực của con ngời.

Kết luận chung
Toàn cầu hoá là một khái niệm chỉ quá trình vận động của lịch sử xã hội loài

ngời từ những bộ phận, quốc gia riêng lẻ, tách biệt đến hình thành những mối liên kết
chặt chẽ, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau trên tất cả các mặt ở phạm vi toàn cầu
của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội mà nền tảng là sự liên kết
kinh tế. Xuất phát điểm của toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế, tuy nhiên, toàn cầu
hoá kinh tế tất yếu tác động đến các lĩnh vực khác nh chính trị, văn hoá, xã hội
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, khách quan của lịch sử, đợc thúc đẩy bởi
những nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội nhất định và đang phát triển mạnh mẽ trong
giai đoạn hiện nay lôi cuốn ngày càng nhiều các quốc gia trên thế giới vào vòng xoáy
của nó. Toàn cầu hoá đã phát triển qua những giai đoạn thăng trầm do những điều kiện khác
nhau và vì vậy cũng có những đặc trng rất khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu
hoá mang hai đặc trng cơ bản: thứ nhất, toàn cầu hoá có sự phát triển vợt bậc cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu và diễn ra với tốc độ nhanh hơn; thứ hai, toàn cầu hoá đang chịu sự chi
phối của các nớc t bản chủ nghĩa phát triển đứng đầu là Mỹ.
Với hai đặc tr
ng cơ bản đã nêu ở phần trớc, toàn cầu hoá trong giai đoạn
hiện nay mang tính hai mặt rõ rệt: vừa tích cực vừa tiêu cực; vừa chứa đựng nhiều thời
cơ vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho tất cả các nớc. Những thời cơ và thách


22
thức trong toàn cầu hoá không tồn tại biệt lập mà luôn đan xen lẫn nhau, trong thời cơ
lại chứa đựng thách thức và trong thách thức lại có thể chứa đựng thời cơ. Tính hai
mặt của toàn cầu hoá không chỉ đợc bộc lộ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh
vực khác nh chính trị, xã hội, văn hoá Một hiện tợng nào đó của toàn cầu hoá có
thể là thời cơ trong lĩnh vực này nhng lại là thách thức trong lĩnh vực khác và ngợc
lại. Hơn nữa, trong toàn cầu hoá, thời cơ và thách thức là không hề nh nhau đối với
các nớc có trình độ phát triển khác nhau. Các nớc t bản phát triển là những quốc
gia thu đợc nhiều lợi ích nhất từ toàn cầu hoá, còn các nớc đang phát triển và kém
phát triển thì gặp không ít những bất lợi và thách thức.
Một mặt, toàn cầu hoá tạo điều kiện để tất cả các quốc gia có thể phát triển về

kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội. Mặt khác, toàn cầu hoá cũng đặt nhiều quốc gia, đặc
biệt là các nớc kém phát triển vào tính thế khó khăn. Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế, lệ thuộc về chính trị, mất ổn định về an ninh, quốc phòng đặc biệt là nguy cơ bị "thôn
tính", bị "xâm lăng" về văn hoá. Mỗi dân tộc trên thế giới có một nền văn hoá với những bản
sắc độc đáo riêng biệt mà cốt lõi của nó là một hệ giá trị truyền thống vố có từ lâu đời đã và
đang tạo nên sức mạnh nội sinh của chính dân tộc đó.
Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội để các nền văn hoá đợc giao lu, tiếp biến, qua đó
mà làm phong phú thêm cho nền văn hoá của mỗi dân tộc nói chung và các giá trị
truyền thống nói riêng. Tuy nhiên, cũng chính toàn cầu hoá lại mang đến một nguy cơ
là đồng nhất các giá trị, làm nhạt nhoà và mất đi những nét độc đáo trong văn hoá của
mỗi dân tộc tạo nên một sự nghèo nàn, pha tạp, lai căng về văn hoá, và đơng nhiên
hệ giá trị truyền thống của mỗi dân tộc sẽ có thể bị phá vỡ, các dân tộc sẽ bị "hoà tan"
trong một biển văn hoá chung chung không bản sắc. Thách thức này càng trở nên
nghiêm trọng hơn đối với những quốc gia nghèo về kinh tế nhng lại giàu bản sắc văn
hoá với những giá trị truyền thống phong phú, lâu đời và Việt Nam chúng ta cũng
nằm trong số những quốc gia đó.
Là một đất nớc có điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội rất đặc biệt
và đầy biến động, dân tộc Việt Nam từ xa xa đã hình thành nên một hệ giá trị truyền
thống rất phong phú và độc đáo. Những giá trị truyền thống đó không chỉ có giá trị
khẳng định một nền văn hoá giàu bản sắc mà còn là một nguồn sức mạnh to lớn giúp
dân tộc ta vợt qua những thời khắc cam go của lịch sử.
Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang từng b
ớc chủ động gia nhập vào
quá trình toàn cầu hoá và cũng đã nắm bắt đợc một số cơ hội mà quá trình này đem
lại, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế đa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đang phát
triển vững chắc trở thành một nền kinh tế năng động trong khu vực. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu về kinh tế và một số lĩnh vực khác, Việt Nam cũng đang phải
đối mặt với một thực tế đó là một số giá trị truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ



23
bị mai một dần bởi chúng đang chịu sự tác động mạnh của các nền văn hoá khác.
Thực tế này dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc cũng tức là đánh mất
chính mình cùng với sức mạnh nội sinh của mình trong cơn lốc của toàn cầu hoá.
Chính vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải
kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống của chính dân tộc mình làm cái vốn cho
đất nớc trong quá trình hội nhập. Đây là một yêu cầu bức thiết cần phải đợc đặc
biệt chú trọng. Kế thừa là một hiện tợng khách quan, là một mắt khâu tất yếu của sự
phát triển, bất kể đó là sự phát triển trong tự nhiên, xã hội hay t duy. Kế thừa các giá
trị truyền thống cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, tuy nhiên nó không thể
diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua những hoạt động có chủ đích của con
ngời và cần phải thực hiện những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, cần phải giữ lại những mặt, những truyền thống tích cực, còn giá trị
nhng không phải là bê nguyên xi mà cần phải đổi mới, bổ sung cho phù hợp với yêu
cầu của xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Thứ hai, cùng với việc giữ lại những truyền thống tích cực, có giá trị, cần phải
loại bỏ những truyền thống đã lạc hậu, lỗi thời đang gây cản trở cho sự phát triển của
đất nớc trong xu thế hội nhập.
Thứ ba, kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc phải luôn gắn liến với
việc chủ động tiếp thu những giá trị tinh tuý của nhân loại để làm giàu thêm cho nền
văn hoá của chính dân tộc mình, đồng thời ngăn chặn những phản giá trị từ bên ngoài
có thể làm xói mòn, băng hoại những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc.
Hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam rất đa dạng và có nhiều giá trị
cần đợc kế thừa trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Trong đó, trớc hết phải kể đến
các giá trị nh: yêu nớc, nhân văn, đoàn kết, hiếu học, cần cù, tiết kiệm Đây là
những giá trị truyền thống cơ bản và có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử cũng
nh trong quá trình hội nhập của đất nớc, mặt khác cũng là những giá trị đang chịu
sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc
kế thừa các giá trị truyền thống nói trên là thật sự cần thiết có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự đi lên của dân tộc. Tất nhiên, những giá trị truyền thống đợc kế thừa

trong bối cảnh toàn cầu hoá phải đợc bổ sung những nội dung cần thiết và mang những
hình thức mới.
Yêu nớc ngày nay là phải đem hết sức lực và trí tuệ của mỗi ngời để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần đ
a đất nớc thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu và nâng cao vị thế của nớc ta trong quá trình hội nhập.
Để phát huy sức mạnh của giá trị truyền thống gia đình, trớc hết cần tôn trọng,
giữ gìn và phát huy các chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh, cách c xử mang


24
đậm tính nhân văn truyền thống, đồng thời cần chủ động tiếp thu những giá trị văn hoá
gia đình hiện đại để xây dựng gia đình tự do, bình đẳng, tiến bộ đáp ứng nhu cầu hội nhập
Truyền thống nhân văn cần đợc kế thừa và phát huy hơn nữa trong đời sống
xã hội để xây dựng một xã hội thấm đợm tính nhân văn sâu sắc. Mặt khác, tính nhân
văn truyền thống cần phải đợc thể hiện cả trong quan hệ đối ngoại, trong những nỗ
lực nhằm bảo vệ môi trờng, trong thái độ đối với các vấn đề nh chiến tranh, khủng
bố và những hành động phi nhân tính khác hớng tới bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất của con ngời.
Truyền thống đoàn kết cần đợc kế thừa nhằm huy động sức mạnh tổng hợp
của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống lại những âm mu
chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch. Mặt khác, cũng cần tăng cờng tình đoàn kết
với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Kế thừa truyền thống hiếu học hiện nay là cần làm cho ngời dân có ý thức tự
vơn lên chiếm lĩnh những tri thức mới, những công nghệ tiên tiến, hiện đại, những
kinh nghiệm tổ chức, quản lý tốt thông qua nhiều con đờng khác nhau. Đây là điều
kiện quan trọng để rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nớc ta với các nớc trong khu
vực và quốc tế.
Cần cù trong bối cảnh toàn cầu hoá phải gắn liền với lao động có kỷ luật, có kỹ

thuật và có năng suất cao. Tiết kiệm cần đợc thực hiện cả trong tiêu dùng và trong
sản xuất nhằm nâng cao tích luỹ và giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trờng quốc tế.
Bên cạnh những giá trị truyền thống trên, tất cả các giá trị truyền thống khác
của dân tộc cũng cần đợc kế thừa và phát huy. Cùng với việc kế thừa, giữ gìn và phát
huy những giá trị truyền thống của dân tộc, chúng ta cần phải chủ động tiếp thu
những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại, những giá trị hiện đại thực sự cần
thiết trong nền kinh tế toàn cầu hoá và làm cho chúng trở thành những khởi điểm của
những truyền thống mới tốt đẹp để không những làm giàu thêm cho nền văn hoá dân
tộc mà còn tạo nên một sức mạnh tổng hợp giữa yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại trong con ngời Việt Nam, tiến tới xây dựng một nền văn hoá Việt Nam "tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc" nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".

×