Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tản văn Việt Nam thế kỷ XX (từ cái nhìn thể loại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.35 KB, 27 trang )

Bộ Giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội


Lê trà my



Tản văn việt nam thế kỷ xx
(từ cái nhìn thể loại)

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số : 62.22.32.01




tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn




Hà Nội - 2008


Công trình đợc hoàn thành tại
Khoa Ngữ văn trờng đại học s phạm hà nội



Ngời hớng dẫn khoa học:


GS.TS Trần Đình Sử


Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:



Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà
nớc họp tại Trờng Đại học S phạm Hà Nội
vào hồi giờ ngày tháng năm


Có thể tìm hiểu luận án tại Th viện Quốc gia
và Th viện Trờng Đại học S phạm Hà Nội.




Danh mục một số công trình của tác giả
liên quan đến luận án




1. Lê Trà My (2007), Tản văn và cái tôi nghệ sỹ Hoàng Phủ Ngọc
Tờng, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam (144), Hà Nội, tr 29-31.


2. Lê Trà My (2006), "Tản văn Việt Nam thời kỳ đổi mới", Văn học
Việt Nam sau 1975- những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr 285-292.

3. Lê Trà My (2006), Tản văn một thể loại của văn xuôi hiện đại,
Tạp chí Nghiên cứu văn học (3), tr 51-60.

4. Lê Trà My (2006), Nghĩ về vai trò của yếu tố kỳ ảo trong thể loại
tản văn, Hội thảo khoa học Văn học kỳ ảo, khoa Ngữ văn Đại học
S phạm Hà Nội.

5. Lê Trà My (2006), Tản Đà - ngời đi đầu trong sáng tác tản văn
hiện đại, Tạp chí Khoa học, trờng Đại học S phạm Hà Nội (6), tr
126-132.

6. Lê Trà My (2003), Về việc giảng dạy thể kí và kí Hoàng Phủ
Ngọc Tờng trong chơng trình văn THPT, Tạp chí Giáo dục (1), tr
28-29.

7. Lê Trà My (2003), Một dòng chảy của tản văn đơng đại, Diễn
đàn văn nghệ Việt Nam (số Xuân), tr 26-29.


Mở đầu

1.Mục đích nghiên cứu
Tản văn là một thể loại văn học, đợc khai sinh từ những thập kỷ đầu
thế kỷ XX. Tuy nhiên, lâu nay hầu nh ngời ta cha mấy để tâm đến thể
loại này. Có nhiều lý do nhng có lẽ chính sự tồn tại mờ nhạt của tản văn

bên cạnh những thể loại khác đã khiến nhiều ngời coi nó nh một thể loại
đi ngoài lề đời sống văn học, một thứ văn không có diện mạo, không có
tiếng nói, không đợc định danh một cách nhất quán.
Ngót một thế kỷ qua, tản văn đã có những bớc đi ghi dấu sự tồn tại
và phát triển của nó trong đời sống thể loại văn học Việt Nam. Song, đối
với giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam, dờng nh tản văn cha bao giờ
đợc quan tâm thực sự. ở Việt Nam cho đến nay cha có một công trình
nghiên cứu nào về tản văn trên cả phơng diện lý thuyết và văn học sử có
qui mô, xứng đáng với tầm ý nghĩa thể loại của nó.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là khái quát những vấn đề lý luận
của thể loại tản văn, trên những nét lớn có thể chỉ ra những quy luật tồn tại
của nó trong đời sống văn học nói chung, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển của t duy lý thuyết, bổ khuyết một mảng lý thuyết còn bỏ ngỏ, đồng
thời tác động đến thực tiễn sáng tác, thúc đẩy sáng tác tản văn ở Việt Nam
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu tản văn ở nớc ngoài
Tản văn là một thể loại văn xuôi hiện đại. Nó gần gũi với thể essay
của phơng Tây. Đáng chú ý là nó có mối liên hệ đặc biệt với tản văn hiện
đại Trung Quốc. Chính vì vậy, khi nhìn vào lịch sử nghiên cứu thể loại tản


2

2

văn, chúng tôi có xem xét tình hình nghiên cứu tản văn ở Trung Quốc, coi
đó nh một sự đối sánh cần thiết để tìm kiếm con đờng nghiên cứu tản
văn Việt Nam.
Nhìn chung, tản văn đợc hiểu trên ba cấp độ. Một là: tản văn là văn

xuôi, một loại lớn, đối lập với văn vần. Hai là: tản văn là một loại hình thể
loại bao gồm những tác phẩm ngoài truyện, thơ và kịch. Ba là: tản văn là
một thể loại văn học độc lập. Coi tản văn là tất cả các tác phẩm văn học
ngoài tiểu thuyết, thơ ca, hý kịch có các quan điểm của Diệp Thánh Đào,
Du Nguyên Quế, Trịnh Minh Lợi, Nam Phàm Coi tản văn là một thể loại
văn học độc lập, xây dựng đợc một phong cách riêng, không nhập làm
một với văn chơng nói chung là ý kiến của một số nhà nghiên cứu nh
Chu Tự Thanh, Thẩm Nghĩa Trinh, Lu An Hải, Tôn Văn Hiến Xu hớng
coi tản văn là một thể loại văn học độc lập đợc nhiều sự đồng thuận ở
Trung Quốc, đồng thời nó cũng đi sát với thực tiễn sáng tác của nhiều cây
bút lớn nh Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân, Băng Tâm, Thẩm Tùng Văn, Lơng
Thực Thu, Uông Tăng Kỳ, D Thu Vũ, Giả Bình Ao
2.2. Tình hình nghiên cứu tản văn ở Việt Nam
ở Việt Nam, tản văn có lịch sử trên dới một trăm năm nhng lịch sử
nghiên cứu về nó thì hầu nh cha đợc bắt đầu. Thực ra không phải ở Việt
Nam cha có một ý kiến nào xác lập sự tồn tại của tản văn, song những
công trình nghiên cứu tơng đối hoàn bị và hệ thống về tản văn và các vấn
đề của nó thì cha xuất hiện.
Vào những năm 40, trong cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan,
thể loại này bắt đầu có những nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên công trình này
cha đề cập đến khái niệm thể loại. Đến giữa những năm 90 mới xuất hiện
một số ít công trình bàn tới tản văn với t cách nh là một thể loại văn học.


3

3

Có thể kể đến ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến trong Năm bài giảng về thể loại
(Nxb Giáo dục - 1998) cho tản văn là một tiểu loại của kí, nó có một số đặc

điểm nh: lối thể hiện đời sống mang tính chấm phá; có thể trữ tình, tự sự,
nghị luận; chạm vào những hiện tợng đợc tái hiện ở những khía cạnh cốt
yếu, bất ngờ; mang đậm dấu ấn, cách cảm nhận và cảm nghĩ rất riêng của
tác giả Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ
điển thuật ngữ văn học (Nxb Giáo dục - 2004) cũng xác định t cách độc
lập của tản văn, coi nó là một loại hình ngang hàng với thơ, kịch và tiểu
thuyết.
Ngoài ra, chúng tôi cũng chú ý đến một số bài phê bình các tác
phẩm cụ thể đợc đăng trên báo chí, trong lời tựa sách của các tác giả
nh Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Hiến Lê, Trần Đình Sử, Vũ Tú Nam, Chu
Văn Sơn, Trần Lê Văn, Lơng Thị Mỹ Hà, Kim Quyên Chính vì khái
niệm tản văn còn cha đợc minh định nên hầu hết tác giả các bài viết này
cha có ý thức hoặc ý thức cha đầy đủ về thể loại tản văn, chủ yếu là đi
phân tích các tác phẩm cụ thể trên các phơng diện nội dung, hình thức
chứ cha khai thác theo đặc trng hoặc khái quát những đặc điểm về thể
loại.
3. Đối tợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý thuyết cấu trúc và
lý thuyết lịch sử của thể loại tản văn; diện mạo đặc thù của tản văn Việt
Nam trong môi trờng sinh thái văn hóa thế kỷ XX.
Phạm vi nghiên cứu đợc giới hạn ở những tác phẩm tản văn thế kỷ
XX, những tác phẩm công bố dăm năm gần đây chúng tôi coi nh quán
tính của chặng đờng cuối thế kỷ XX, cho nên vẫn nằm trong diện khảo


4

4

sát. Ngoài ra còn có những tài liệu, sách lý luận có liên quan đến thể loại

tản văn ở trong nớc và nớc ngoài.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là xác lập khái niệm tản văn hiện
đại trên cơ sở khái quát những tác phẩm tản văn điển hình của thế kỷ XX;
su tầm, tập hợp, khôi phục lịch sử và diện mạo của thể loại để làm nền
cho những khái quát lý thuyết.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Ngoài các phơng pháp thờng đợc sử dụng trong nghiên cứu khoa
học nói chung nh phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê luận án chú
trọng một số phơng pháp nh phơng pháp loại hình, phơng pháp hệ
thống, phơng pháp nghiên cứu phê bình sinh thái học.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án lần đầu tiên đa ra một mô hình lý thuyết cho thể loại tản
văn hiện đại cùng các vấn đề liên quan. Luận án nghiên cứu tản văn từ góc
độ lý thuyết thể loại dựa trên những kết luận có cơ sở thực chứng từ thực
tiễn sáng tác, và nh vậy, đi đôi với sự nghiên cứu này, luận án đã hình
thành diện mạo tản văn Việt Nam thế kỷ XX.
Xét trong nội bộ thể loại, luận án đã khái quát và phân loại những
loại hình tiêu biểu của tản văn, cho thấy sự đa dạng, phong phú trong cấu
trúc loại hình của thể loại này.
Từ những đánh giá tổng quan, luận án đã phân tích và chỉ ra đợc
những đặc điểm của thể loại tản văn trong mỗi môi trờng sinh thái văn
hóa cụ thể, từ đó thấy đợc quy luật cộng sinh đặc thù của tản văn với các
thể loại khác và với đời sống văn hóa nói chung.


5

5

Su tầm số lợng tác phẩm tơng đối lớn, có mặt hầu hết sáng tác

của các tác giả lớn, luận án còn có những đóng góp về mặt t liệu (216 tác
phẩm và tuyển tập).
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án đợc triển khai thành 3
chơng:
Chơng 1: Tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại
Chơng 2: Một số loại hình tản văn hiện đại
Chơng 3: Tản văn trong diễn tiến môi trờng sinh thái văn hóa
thế kỷ XX

chơng 1
tản văn - một thể loại của văn xuôi hiện đại
1.1. Tên gọi tản văn
Chúng tôi chọn "tản văn" để định danh cho một thể loại văn xuôi văn
học có những đặc trng loại hình nhất định là xuất phát từ hai căn cứ. Một
là ở Việt Nam hiện nay từ tản văn hầu nh không còn đợc hiểu theo nghĩa
là văn xuôi nh trớc mà đã đợc dùng để chỉ một thể loại văn học xác
định. Hai là trong thực tiễn sáng tác, nhiều nhà văn đã dùng từ tản văn để
định danh thể loại cho sáng tác của mình.
1.2. Sự hình thành thể loại tản văn
Tản văn đợc hình thành vào khoảng thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX
với sáng tác của Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bá Trác, Đạm
Phơng Đây là một thể loại văn xuôi mới viết bằng chữ quốc ngữ, ban
đầu chủ yếu đăng trên báo chí. Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam


6

6


đầu thế kỷ XX, tản văn là một trong những thể văn xuôi xuất hiện sớm, ra
đời do nhu cầu và những biến động của thời đại.
1.2.1. Những yếu tính của thời đại và sự hình thành tản văn
a) Phong trào cổ vũ văn xuôi quốc ngữ
Trong buổi đầu của văn học quốc ngữ, văn xuôi là thể loại rất đợc
khuyến khích. Nhiều thể loại văn xuôi đã xuất hiện trong đó tản văn. Trong
buổi ban đầu, những bài văn xuôi nhỏ ghi lại những cảm xúc, những ý
tởng cá nhân, hoặc bàn luận về các vấn đề xã hội đợc đăng trên các báo
có ý nghĩa vừa nh một sự thể nghiệm lại vừa nh là những bài tập dợt
để dần hình thành một lối văn mới.
b) Đời sống báo chí đầu thế kỷ XX
Báo chí lúc này có vai trò nh một cơ quan luyện tập văn mới đầu
tiên; báo là nơi tập họp, tuyển lựa những ngời cầm bút, là chỗ luyện văn
và là nơi công bố những tác phẩm mới. Những tác phẩm tản văn đầu tiên
của Tản Đà và nhiều cây bút khác đều đăng trên Đông Dơng tạp chí, Nam
Phong tạp chí Tản văn nhỏ gọn nên dễ đăng, dễ đến với công chúng bằng
con đờng báo chí. Tính chất tự do, dễ thích ứng của thể loại tỏ ra phù hợp
với những yêu cầu của độc giả báo.
c) ý thức về cái "tôi" cá nhân
Đầu thế kỷ XX văn học chuyển sang phạm trù hiện đại do sự tác
động của nhiều yếu tố trong đó có một yếu tố quan trọng là sự ý thức sâu
sắc về cái tôi cá nhân. Đây là một điều kiện thuận lợi, khuyến khích sự nảy
nở và phát triển của các thể loại có tính tự do, ít chịu ràng buộc bởi những
phép tắc và lề lối, biểu hiện và in dấu đậm nét cá tính của cái tôi nghệ sỹ
nh thể loại tản văn.



7


7

1.2.2. Quy luật văn học buổi giao thời và sự ra đời của tản văn
Xem xét đời sống thể loại nửa đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu
nhắc tới một quy luật: đó là sự pha trộn, ảnh hởng, thâm nhập lẫn nhau
giữa các loại thể. Tản văn trong thời điểm mà nó ra đời, là một sự kết hợp
của nhiều yếu tố (Đông, Tây, Trung đại, hiện đại) để tạo ra hiệu quả giao
tiếp tốt nhất khi nhà văn tự biểu lộ bản thân mình.
1.2.3. Ngời đi tiên phong trong sáng tác tản văn - Tản Đà
Tản Đà đợc coi là ngời đi đầu trong sáng tác tản văn, ngời đặt nền
móng cho tản văn hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông có một số phơng
diện định hình thể loại nh sau: biểu hiện trực tiếp cái tôi bản thể, cá thể,
duy nhất của chủ thể sáng tạo; lối viết hớng tới tính hình tợng, tính nghệ
thuật, nghiêng về văn chơng thẩm mỹ, xa rời thứ văn học chức năng; mở
rộng đề tài tới những cái thờng ngày, nói về những vấn đề cụ thể, bình
thờng của chính bản thân mình và cuộc sống xung quanh; sự đan xen ba
yếu tố luận, trữ tình, tự sự cho phép nhà văn nới rộng khả năng biểu hiện
của ngòi bút, vừa có thể phân tích, bàn luận vấn đề vừa mô tả hiện thực, tái
hiện kí ức, vừa bộc bạch tâm tình.
Những hạt nhân ban đầu có trong tản văn Tản Đà về cơ bản đợc kế
tục, hoặc nhấn mạnh hớng này, nhấn mạnh hớng kia, đồng thời cũng đợc
biến cải ở những cây bút tản văn những chặng sau của văn học hiện đại.
1.3. Đặc trng của thể loại tản văn
1.3.1. Tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc,
không có cốt truyện.
Tản văn là những tác phẩm văn xuôi có dung lợng không lớn, phổ
biến là những bài văn ngắn gọn, hàm súc Tính chất ngắn gọn của tản văn
tùng thuộc các yếu tố: có cấu tứ dựa trên một tín hiệu trung tâm (một hình



8

8

ảnh, một chi tiết, một tình huống, một nhân vật ) và xoay quanh một ý
tởng trọng tâm; sự biểu ý đặc thù- mỗi tác phẩm thờng chỉ tập trung biểu
hiện một ý tởng nhất định. Sự tập trung cao độ ở tản văn khiến nó khó có
thể dung nạp cùng một lúc nhiều sắc thái tình cảm khác nhau hoặc tái hiện
những quá trình tâm lý phức tạp, nhiều biến động. Toàn bộ tổ chức tác
phẩm hớng tới việc làm nổi bật một chủ âm cơ bản, xuyên suốt, có vai trò
nh một trụ cột làm nên thần thái của tác phẩm.
Chủ yếu chú trọng chi tiết, tản văn là thể loại không đòi hỏi phải có
một cốt truyện hay phải sáng tạo những nhân vật hoàn chỉnh. Đây là một
thể văn xuôi không có cốt truyện. Bản chất thể loại không phải tái hiện một
bức tranh đời sống, xây dựng một thế giới tạo hình xác định tự phát triển
theo những quy luật riêng giống nh các thể tự sự. Ngời viết tản văn có
thể tạo dựng sự kiện, tình huống hay nhân vật; sự có mặt của sự kiện, tình
huống, nhân vật trong tản văn chỉ là điểm tựa để chủ thể bộc lộ ý kiến
riêng.
1.3.2. Tản văn biểu hiện rõ nét cái tôi tác giả
Đặc điểm nổi bật nhất của tản văn so với các thể loại khác là nó bộc
lộ rõ nét cái tôi tác giả. Chủ thể lời nói nghệ thuật đợc cảm nhận nh một
hình tợng nhân vật, hình tợng nhân vật này rất gần gũi với tác giả, mang
bóng dáng của tác giả, là một phiên bản của tác giả. Toàn bộ tác phẩm
đợc viết dới ý thức và giọng điệu của nhân vật này. Sự gián cách giữa
nhà văn và nhân vật này ở tản văn, so với một số thể loại khác nh tiểu
thuyết hay thơ trữ tình, không quá lớn, hầu nh khó nhận thấy, khiến cho
ngời đọc cảm thấy nh đang đợc đối diện trực tiếp với bản thân ngời
viết.



9

9

1.3.3. Cấu trúc của tản văn chủ yếu dựa trên mối tơng liên giữa
hình ảnh, chi tiết và sự luận giải của cá nhân ngời cầm bút
Cấu trúc của tản văn không dựa trên sự tổ chức hệ thống nhân vật hay
sự kiện mà chủ yếu thiết lập mối liên hệ giữa các hình ảnh và sự luận giải
hay giãi bày trực tiếp của tác giả. Tính nghệ thuật của tản văn đợc toát lên
từ kết cấu đặc thù mà hạt nhân là cấu tứ dựa trên một hệ thống hình ảnh
đầy gợi mở, hàm súc, có chiều sâu và có khả năng đem lại khoái cảm thẩm
mỹ cho ngời đọc. Hệ thống hình ảnh này đợc nâng đỡ bằng lý lẽ trực
tiếp của chủ thể, có khi đợc kết hợp với những cứ liệu xác thực mang tính
t liệu tạo nên tính khuynh hớng và sự thuyết phục trí tuệ cho tác phẩm.
1.3.4. Tản văn có cách thức biểu hiện tự do
Tản văn cho phép ngời viết có thể giải phóng t tởng một cách tận
độ bằng nhiều con đờng. Tính chất tự do khiến cho tản văn có thể kết hợp
nhiều kiểu loại chi tiết trong chỉnh thể của nó (chi tiết xác thực, chi tiết h
cấu, chi tiết kỳ ảo, hoang đờng ). Ngời viết tản văn cũng có thể vận
dụng thoải mái các thủ pháp của các thể loại, loại hình nghệ thuật khác nh
đối thoại trong kịch, ám dụ trong ngụ ngôn, lập thể trong hội hoạ v.v Tản
văn có thể sử dụng kết hợp các thao tác tự sự, trữ tình, nghị luận. Tính chất
tự do trong cách thức biểu hiện một mặt đem lại cho ngời viết nhiều cơ
hội phá cách cho ngòi bút, mặt khác tạo cho bản thân thể loại một sức cuốn
hút do có độ co giãn, dễ thích ứng và giàu khả năng tạo ra cái mới.
1.4. Tản văn trong hệ thống thể loại văn học
Nghiên cứu tản văn cần đặt nó trong tơng quan với các thể loại khác
để nhận ra những tơng đồng và khác biệt, cho nó một chỗ đứng trong gia
đình văn học. Trong phạm vi luận án, chúng tôi chỉ tiến hành mô tả, khái

quát đặc điểm của thể loại tản văn, có những so sánh cần thiết với một số


10

10
thể loại khác để minh định tính chất thể loại của nó. Còn vấn đề định vị tản
văn trong hệ thống thể loại văn học hiện đại chúng tôi cha có những kết
luận bởi điều này liên quan đến sự phân loại văn học, một vấn đề lớn, ngoài
phạm vi luận án.
1.4.1. Tản văn và các tiểu loại kí
Các tiểu loại điển hình của kí về cơ bản là những thể văn tự sự, ít
nhiều coi trọng việc xây dựng tính cách, cốt truyện. Tản văn chủ yếu bộc lộ
cái tinh thần bên trong của ngời viết; cũng có yếu tố tự sự, song dùng tình
để điều khiển văn liệu nên những lôgic khách quan thờng bị phá vỡ, các
mảng mảnh chuyển hóa thành những tợng trng mang sức nặng của tâm
hồn. Đối với các thể kí, mô hình nghệ thuật, kênh giao tiếp đặc thù đều lấy
cái xác thực làm nền tảng; tôn trọng khách quan vừa là yêu cầu vừa là một
trong những sức mạnh tạo nên tính thuyết phục của kí. Với tản văn, tính
xác thực của thông tin không phải là một yêu cầu có tính chất bắt buộc.
Tản văn và các tiểu loại kí còn khác nhau ở phơng diện vai trò của
hình tợng tác giả. Nếu nh trong hồi kí tác giả trở thành đối tợng miêu tả
trung tâm của tác phẩm, thì ở tản văn, ngời viết là một chủ thể biểu hiện,
đối tợng mô tả không nhất thiết là đời sống cá thể của bản thân mà có thể
vơn rộng ra những vấn đề của toàn thế giới. Con ngời trong hồi kí là con
ngời của sự kiện, con ngời lịch sử; còn trong tản văn lại là con ngời của
những suy t, cảm xúc, ngẫm ngợi, con ngời của những khoảnh khắc. Nếu
kí sự, phóng sự thiên về trình bày những điều nhà văn trực tiếp tham gia,
chứng kiến, điều tra, quan sát đợc, phần trữ tình, bộc lộ cảm xúc nhẹ đi,
thì tản văn nổi lên ở bình diện thứ nhất là yếu tố chủ quan của ngời viết

với những suy t, chiêm nghiệm từ những gì thâu lợm đợc ngoài cuộc
sống.


11

11
Cũng có những tiểu loại kí rất khó xác định đờng biên giữa chúng
và tản văn nh tuỳ bút, bút kí do các thể loại này có nhiều điểm tơng
đồng. Điều này gợi ý chúng tôi một hớng suy nghĩ về đờng biên của tản
văn. Phải chăng, tuỳ bút, bút kí cùng với những thể khác nh tựa, bạt, nhàn
đàm, tiểu phẩm, tạp bút, chân dung, giới thiệu tác phẩm đều có thể tham
gia vào gia đình tản văn! Tuy nhiên, khẳng định đợc điều này cần phải có
những nghiên cứu rộng và sâu hơn vấn đề luận án đang thực hiện.
1.4.2. Tản văn và một số thể loại truyện
Tản văn có quy mô gần với truyện ngắn, truyện cực ngắn. Ngoài sự
phân biệt tính chất về loại đã hiển nhiên của tản văn và thể loại truyện, có
thể thấy tản văn là sự biểu lộ không che dấu chính kiến của nhà văn, còn ở
truyện quan điểm ngời sáng tác ẩn vào một thế giới tạo hình xác định
đợc xây dựng theo những quy luật riêng.
Tản văn cũng có những tác phẩm mang dáng dấp của truyện ngụ
ngôn, hình tợng của nó đầy ẩn ý. Song ngụ ngôn và tản văn khác nhau cơ
bản ở chỗ ngụ ngôn luôn hớng tới những bài học đạo đức, nhân sinh, còn
tản văn là sự luận bàn, đàm đạo, nêu ý kiến không phải là sự chỉ dạy,
khuyên bảo.

Chơng 2
một số loại hình tản văn hiện đại
2.1. Phân loại tản văn
Dựa trên đối tợng và cách thức biểu hiện có thể phân chia thành: tản

văn tự sự, tản văn trữ tình, tản văn nghị luận. Dựa trên phơng diện đề tài,
có thể chia thành: tản văn phong tục tập quán; tản văn sản vật, địa danh;
tản văn sinh hoạt, thế sự; tản văn chân dung; tản văn triết học; tản văn về


12

12
các vấn đề văn học nghệ thuật Dựa vào nội dung t duy thẩm mỹ có thể
chia: tản văn triết luận; tản văn hồi tởng; tản văn cảm thời. Chính nội
dung t duy thẩm mỹ đã quy định cách thức tổ chức tác phẩm, tạo thành
những điểm tơng đồng trong cấu trúc của nhiều tác phẩm cùng dạng.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi lựa chọn và trình bày cụ thể cách
phân loại thứ ba, có căn cứ từ hai phơng diện quan trọng là nội dung t
duy thẩm mỹ và cấu trúc tác phẩm.
2.2. Tản văn triết luận
2.2.1. Khái quát về tản văn triết luận
Loại hình triết luận nổi bật yếu tố luận, u dùng một số cách thức của
văn nghị luận. Nó mợn lối lập luận của nghị luận để trình bày những cảm
nhận và hình dung của nhà văn về thế giới. Nhà văn tổ chức các hình ảnh,
chi tiết theo nguyên tắc và lôgic của lập luận; đa ra những lời bàn hoặc tổ
chức những đối thoại, thờng là chỉ nêu ý kiến, ít đa ra những kết luận
cuối cùng, cũng không có ý định thuyết phục độc giả. Dạng tản văn này, so
với các dạng khác, trong bố cục có nhiều đoạn bàn luận, bình giá, triết lý
hơn. Trong tản văn triết luận lại có thể chia ra nhiều dạng nhỏ: triết luận
triết học, phiếm luận, nhàn đàm
2.2.2. Kết cấu dựa trên vấn đề bàn luận
Tản văn dạng này lý lẽ là một yếu tố nổi trội và phổ biến, tính chất
thuyết minh thâm nhập, chi phối cách lựa chọn hình ảnh. Các hình ảnh, chi
tiết đợc bố cục dựa theo lôgíc lập luận nhằm nêu bật vấn đề bàn luận. Các

thành phần văn bản tác phẩm đợc sắp sếp theo cách nhà văn trình bày ý
kiến về vấn đề đợc nêu ra trong tác phẩm. Có thể mô tả một số cách thức
phổ biến: trình bày các khía cạnh khác nhau để phân tích, chứng minh vấn


13

13
đề; trình bày các ý kiến khác nhau về vấn đề; từ vấn đề chính phát triển ra
các vấn đề khác.
2.2.3. Chủ thể đối thoại
Về cơ bản, chủ thể lời văn của tản văn dạng này là chủ thể đối thoại.
Ngời viết tản văn triết luận bao giờ cũng viết bằng một ý thức tranh luận
với một hoặc nhiều ý kiến khác, do đó vấn đề nói tới đợc đào sâu, lật đi
lật lại, mổ xẻ, phân tích ở nhiều góc độ, đi tới phản bác, phủ định, hoặc
khẳng định. Chính ý thức đối thoại này khiến cho chủ thể khi bàn luận vấn
đề dễ thoát khỏi tình thế áp đặt, tính gia trởng của kẻ thống trị t tởng,
viết nh một sự nêu ý kiến cá nhân, một thử nghiệm, một lối chơi văn
trong cuộc giao lu với cuộc đời.
2.3. Tản văn hồi tởng
2.3.1. Khái quát về tản văn hồi tởng
Tản văn hồi tởng là dạng tơng đối phổ biến, xuất hiện khá nhiều và
khá thờng xuyên trong các giai đoạn lịch sử tản văn hiện đại. Chất liệu
đời sống trong tản văn hồi tởng có mối liên hệ chặt chẽ với cuộc đời
ngời viết, thờng là hình bóng của chính cuộc sống thực của tác giả. Đó là
bộ mặt tâm hồn, là lịch sử cuộc đời của nhà văn. Tản văn hồi tởng có màu
sắc trữ tình, hoài niệm, giàu chất thơ, yếu tố cảm xúc chi phối cách nhìn,
giọng điệu, lời văn. Đề tài nổi bật của tản văn dạng này là các vấn đề văn
hoá, nhất là văn hoá sinh hoạt (ăn uống, mặc, ở, chơi, những phép ứng
xử ), văn hoá bản địa (phong tục hội hè, lễ tết ).

2.3.2. Điểm tựa của cấu tứ
a) Cấu tứ dựa trên một hình ảnh trung tâm
Phần lớn dạng tản văn này thờng đợc thao tác dựa trên một hình
ảnh trung tâm, hình ảnh mang ý nghĩa trọng tâm của toàn tác phẩm. Hình


14

14
ảnh trung tâm tạo ra một trờng lực thu hút những chi tiết khác vào chủ đề
chung của tác phẩm. Cũng có khi hình ảnh trung tâm không phải một mà là
một tập hợp các hình ảnh cùng loại. Giá trị t tởng, khuynh hớng chủ đề,
tính nghệ thuật của tác phẩm tập trung, dồn chứa ở hình ảnh này.
b) Cấu tứ dựa trên tình huống, khung cảnh
Nhiều tác phẩm lại đợc tổ chức xoay quanh một tình huống. Dạng
này giàu tính tự sự, chủ thể là ngời kể chuyện, mọi chi tiết đợc tái hiện
thông qua cái nhìn và tâm trạng của chủ thể. Các tình huống đợc miêu tả
luôn thuộc về thời quá khứ, thờng có độ lùi về thời gian, đủ để bao phủ
một lớp sơng của hoài vọng. Chính vì vậy, không gian đợc xây dựng
cũng là một không gian khác với thực tại, một không gian xa cũ đã đợc
đóng khung, đã đợc ảo hóa do sự đậm nhạt của kí ức.
2.3.3. Điểm nhìn thời gian
a) Điểm nhìn quá khứ
Chủ thể hầu nh hoàn toàn đặt mình vào thời điểm xảy ra sự việc.
Điểm nhìn của cái tôi - hiện tại (có vai trò nh ngời kể chuyện toàn năng,
biết hết) đợc chuyển sang điểm nhìn của cái tôi - quá khứ, phần lớn tác
phẩm đợc viết theo cảm quan của cái tôi - quá khứ này.
b) Điểm nhìn hiện tại
Nhiều tản văn dạng này dùng điểm nhìn hiện tại để soi về quá khứ,
viết về cái đã qua bằng những suy tởng của thời điểm hiện tại. Có sự

chênh lệch thời gian giữa thời điểm nảy sinh và thời điểm đánh giá sự việc,
nên sự việc thờng có những thớc đo giá trị mới. Nhìn quá khứ từ điểm
nhìn hiện tại thờng tạo nên kiểu kết cấu đối lập mà phổ biến nhất là cặp
phân cực xa - nay, còn - mất. Sự đối sánh xa - nay trở thành một cơ chế
liên tởng điển hình.


15

15
2.4. Tản văn cảm thời
2.4.1. Khái quát về tản văn cảm thời
Tản văn cảm thời bày tỏ suy ngẫm về những vấn đề của thời cuộc, có
màu sắc thế sự ; ghi dấu những phản ứng tinh thần của nhà văn trớc hiện
trạng đời sống cá nhân hoặc xã hội, thờng là những vấn đề của thực tại mà
họ đang đối mặt. Nhãn quan của chủ thể thờng là nhãn quan của ngời
đang trực tiếp tiếp xúc với thực tại hiện hữu, thực tại đang diễn ra; vì thế
dạng tản văn này thờng phản ảnh những màu sắc, những âm vang của
cuộc sống đơng thời; dấu vết của từ trờng sinh thái văn hóa mỗi thời
trùm phủ lên cách nghĩ, cách cảm, cách dùng từ ngữ, cách liên tởng đặc
biệt của mỗi nhà văn ở thời điểm sáng tác. Đặc điểm tơng đối nổi bật của
tản văn dạng này là tính chất ngẫu hứng.
2.4.2. Cấu tứ dựa trên sự tơng liên của các hình ảnh, chi tiết
Nhà văn đã thiết lập mối liên kết kết buộc các chi tiết vốn tản mạn
trong đời sống. Bản thân các chi tiết nhiều khi không quan trọng bằng quan
hệ giữa chúng. Trên chính những quan hệ này nhà văn tạo những thông tin
tinh thần. Liên tởng là cơ chế hình thành tổ chức tác phẩm. Đó là cơ sở để
mở rộng các quan hệ, dẫn dắt các hình ảnh và chi tiết, tạo những tơng
quan bất ngờ giữa các sự vật hiện tợng.
2.4.3. Sự khởi phát và vận động của dòng suy cảm

ở tản văn cảm thời, dòng suy t, cảm xúc dấy lên từ những sự vật
hiện tợng đợc nhận thức bằng một lối t duy riêng của ngời viết. Cơ sở
của những suy t và cảm xúc đó chính là những quan hệ nhà văn thiết lập
đợc giữa các chi tiết đợc chọn lựa. Sự tơng liên giữa các hình ảnh, chi
tiết trong tác phẩm vừa là kết quả của quá trình t duy, nhận thức cuộc
sống, vừa là điểm tựa làm nảy sinh nguồn suy cảm. Suy t thờng đi liền


16

16
với những cảm xúc chân thành. Trong chiều dài tác phẩm, những suy t
thờng có sự vận động theo những biến đổi của các quan hệ liên tởng.


chơng 3
tản văn trong diễn tiến của môi trờng sinh
thái văn hóa thế kỷ XX
3.1. Sinh thái văn hóa với đời sống thể loại văn học
3.1.1. Khái niệm sinh thái văn hóa
Hớng nghiên cứu sinh thái văn hóa có cơ sở lý thuyết từ sinh thái
học - một khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa các sinh thể và môi
trờng sống bao quanh chúng. Có thể lấy sinh thái văn hóa để chỉ hình thái
xuất hiện có liên quan với nhau giữa các yếu tố cấu thành văn hóa thời đại,
hình thành một kết cấu văn hóa mang tính đặc trng. Các nhân tố văn hóa
tác động lẫn nhau, đan chéo nhau tạo thành trờng lực, thực chất trờng
văn hóa này chính là sinh thái văn hóa. Xét về mặt cấu trúc, sinh thái văn
hóa gồm các nhân tố cấu thành và sự tơng tác giữa chúng. Những nhân tố
có vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì một dạng sinh thái
văn hóa nhất định phải kể đến trình độ kinh tế, không khí chính trị, tinh

thần nhân văn, trình độ và sự phát triển ngôn ngữ Các nhân tố văn hóa có
sự liên quan mật thiết theo các quan hệ tác động, chi phối, chế ớc, thích
ứng, và theo các quy luật cạnh tranh, sinh trởng, biến đổi hoặc tiêu vong.
3.1.2. Thể loại văn học trong môi trờng sinh thái văn hóa của thời
đại
Môi trờng sinh thái văn hóa là yếu tố kiến tạo nên những quan niệm
về con ngời, những kiểu nhà văn, những phạm trù thi pháp nghệ thuật,


17

17
những hình thức thể loại thích ứng Lịch sử văn học gắn liền với diễn tiến
môi trờng sinh thái văn hóa các thời đại, đồng thời ghi nhận sự hình
thành, biến đổi (có khi bị diệt vong) của các thể loại nh một yếu tố chịu
tác động trực tiếp của các yếu tố môi sinh đó. Mỗi thể loại bị chi phối bởi
các yếu tố sinh thái văn hóa, trong đó có cả mối tơng tác giữa các thể loại.
Sự phát sinh và sức sống của mỗi thể loại phụ thuộc vào những tơng quan
này; trong quá trình sinh trởng các thể loại có những tác động, trao đổi,
phụ thuộc, chế ớc lẫn nhau để duy trì sự cân bằng tơng đối cho đời sống
thể loại trong mỗi sinh thái văn hóa.
3.2. Tản văn thời đại tiếp xúc văn hóa phơng tây (Từ đầu thế
kỷ XX đến 1945)
3.2.1. Môi trờng sinh thái văn hóa thời đại tiếp xúc văn hóa phơng
Tây
Nửa đầu thế kỷ XX, tiếp xúc với văn hóa phơng Tây, tiếp nhận
những luồng gió mới cha từng đợc biết đến trong một xã hội nông
nghiệp thuần túy với một nền văn hóa nông nghiệp chịu ảnh hởng sâu sắc
của văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam có những biến đổi nhanh chóng
theo hớng hiện đại, hòa nhập với thế giới. Đó là một sinh quyển mới với

nhiều yếu tố thuận lợi cho sự hình thành nhiều thể loại văn học mới trong
đó có tản văn (sự thay đổi nhu cầu, thị hiếu công chúng; ý thức cá nhân; t
tởng dân chủ và quyền dân chủ nhất định cho văn nghệ sĩ ).
3.2.2. Sự vận động của tản văn
Trong những sáng tác sơ khởi của các nhà cựu học, tuy chất Hán học
vẫn cha mất hẳn nhng đã thấy một con mắt nhìn, một quan niệm, một
tâm thế sáng tạo mới. Theo một hớng khác, một số trí thức Tây học lúc
này cũng đã cho ra đời những bài văn nhỏ, viết một cách phóng khoáng về


18

18
các vấn đề xã hội - con ngời, văn phong chặt chẽ, lôgic, gọn gàng, lối bàn
luận thiên về lý trí, suy xét vấn đề khoa học, có hơi hớng của những tiểu
luận xã hội từng rất thịnh hành ở phơng Tây từ thế kỷ XVII - XVIII.
Cùng các thể loại khác, tản văn cũng có những bớc vận động theo
hớng hiện đại, song sau những thử nghiệm ban đầu lại hầu nh không
nhập đợc vào với nhịp độ chung của văn học dân tộc. Sự phát triển nhanh
và sức lấn át của các thể loại khác đã đẩy tản văn xuống hàng thứ yếu trên
văn đàn. Tuy vậy, trong thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hớng
tản văn và có đợc một số cây bút nổi bật có phong cách riêng.
3.2.3. Sự đa dạng các khuynh hớng tản văn.
- Khuynh hớng tả thực: Gồm những sáng tác tái hiện chân thực
những tình tiết, con ngời, cảnh sắc, sự việc, sự vật mà nhà văn đã từng
chứng kiến. Đây là những tác phẩm nghiêng về tôn trọng sự thực, lấy sự
chính xác làm điểm tựa, những chi tiết trong tác phẩm có thể có ngoài thực
tế, có tính t liệu, có thể kiểm chứng.
- Khuynh hớng lng mạn: Gồm những sáng tác tản văn thoát ly hẳn
việc sao chép thực tại, không bị chế ngự bởi các thuộc tính khách quan của

dữ liệu, tạo dựng một thế giới nghệ thuật chủ yếu là sự phóng chiếu nội
tâm, tuân thủ những quy luật của đời sống tâm hồn.
- Khuynh hớng học thuật : Gồm những sáng tác ít nhiều có tính
chất học thuật ở chỗ nó bàn về các vấn đề văn chơng nh phân tích, giới
thiệu tác phẩm, tác giả. Tuy vậy đây không phải những bài khảo, luận
thông thờng, thuần túy khoa học mà là những tác phẩm đợc sáng tạo đầy
ngẫu hứng, xây dựng đợc nhiều hình ảnh, chi tiết ấn tợng, bày tỏ đợc
những cảm nhận chủ quan của ngời viết.



19

19
3.2.4. Sự đa dạng phong cách cá nhân
- Chế Lan Viên: giàu chất suy tởng và triết lý
- Xuân Diệu: khát khao tình yêu, khát khao sự sống, ngòi bút tinh tế,
nồng nàn, đợm chất thơ
- Lãng Nhân Phùng Tất Đắc: một ngòi bút phiếm luận độc đáo, giàu
chất umua.
3.3. Tản văn trong thời đại chiến tranh và hậu chiến (1945-1986)
3.3.1. Môi trờng văn hóa sinh thái thời đại chiến tranh và hậu chiến
Từ 1945 đến 1986 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt: một thời gian dài
đất nớc chìm trong khói lửa chiến tranh, im tiếng súng lại đối mặt với bao
bộn bề thời hậu chiến. Nhìn chung, hoàn cảnh chiến tranh đã tạo nên
những nét đặc thù về văn hóa mà nổi bật nhất là sự nhất thể hoá về mặt t
tởng và đờng lối văn nghệ. Đặc biệt còn bởi vì trong những năm này có
tới hơn một nửa thời gian đất nớc bị chia làm hai miền, hình thành hai
vùng sinh thái văn hoá khác nhau. Sự phân chia này tạo ra những màu sắc
khác nhau trong quá trình vận động của tản văn nói riêng và văn học dân

tộc nói chung. Sau 1975, những biến đổi về chính trị trở thành nền tảng
thúc đẩy sự hợp nhất về văn hoá. Tuy vậy, về cơ bản mời năm hậu chiến
vẫn là quán tính của chặng đờng trớc đó nên văn học nói riêng, văn hoá
nói chung cha có những chuyển biến lớn.
3.3.2. Xu hớng sử thi hoá
Phần lớn tản văn giai đoạn này có xu hớng sử thi hoá, phát huy cao
độ tính trữ tình - tập thể, hớng tới những tình cảm lớn, những suy tởng
mang tầm dân tộc, thời đại, tạo một âm hởng chung khó có thể tìm thấy ở
những giai đoạn khác. Có một dàn đồng ca hòa phối nhiều tiếng nói cá
nhân, mỗi cá nhân đó lại nhịp làm một với cái ta cộng đồng, dân tộc, cái cá


20

20
nhân có ý nghĩa nh một thành viên của khối quần chúng lớn đồng dạng,
thuần nhất. Bộ phận tản văn theo xu hớng này chủ yếu tập trung ở những
cây bút miền Bắc.
3.3.3. Xu hớng phi sử thi
Xu hớng này bao gồm các tác phẩm biểu hiện cái nhìn mang tính cá
nhân, đề cập những vấn đề sinh hoạt thờng nhật, những thú vui của cuộc
sống hàng ngày, bày tỏ những ý tởng độc đáo, những phát hiện sắc sảo,
hoặc thể hiện những tâm trạng, cảm xúc riêng t của con ngời Đây là
một dấu hiệu tồn sinh dẫu tha thớt nhng hết sức đáng quý bởi trên một
phơng diện nào đó nó thừa tiếp đặc điểm tản văn giai đoạn trớc 1945,
nối vào tản văn giai đoạn đổi mới, tạo thành những đặc thù của tản văn
Việt Nam. Bộ phận tản văn đợc sáng tác trong lòng đô thị miền Nam
những năm trớc 1975 là những sáng tác khá tiêu biểu cho xu hớng này.
Ngoài ra cũng phải kể đến một số sáng tác của các cây bút miền Bắc, đặc
biệt là của Nguyễn Tuân.

3.4. Tản văn trong thời đại đa chiều, rộng mở về văn hóa (thời
đổi mới)
3.4.1. Môi trờng sinh thái văn hóa thời đại đa chiều, rộng mở
về văn hóa
Đây là thời kỳ đổi mới một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, đất
nớc tiến lên con đờng phát triển và hội nhập quốc tế. Sự chuyển đổi mô
hình kinh tế xã hội, mở rộng giao lu với nớc ngoài, đổi mới t duy đã
tác động không nhỏ đến bộ mặt văn hóa xã hội nói chung trong đó có văn
học, tạo ra một sinh thái văn hóa phong phú, cởi mở, tơng đối dân chủ
hơn so với thời kì trớc. Một bộ phận sinh thái văn hóa là đời sống thể loại
văn học đã có những biến đổi tạo ra những tơng quan mới. Nhiều thể loại


21

21
văn học đợc khuyến khích phát triển, mỗi thể loại đáp ứng một nhu cầu
của công chúng. Riêng tản văn đáp ứng nh cầu thởng ngoạn cuộc sống,
tản văn là sự bổ sung, làm đầy, tạo sự cân bằng cho diện mạo văn học nói
riêng và sinh thái văn hóa thời đại nói chung.
3.4.2. Tản văn khởi sắc
Sự khởi sắc của tản văn thể hiện ở: số lợng sáng tác lớn; mở rộng đề
tài, đào sâu, khái quát các chủ đề t tởng; sự tìm tòi các cách thức biểu
hiện Hầu nh những đờng hớng chính đợc khơi nguồn từ đầu thế kỷ
XX đều đợc triển khai trên một mức độ rộng ở tản văn thời kì này. Khả
năng phản ánh và biểu hiện rộng lớn đã đem đến cho tản văn một diện
mạo mới.
3.4.3. Sự mở rộng trên phơng diện đề tài và cách thức biểu hiện
a) Phơng diện đề tài
Việc thức tỉnh ý thức cá nhân nh một đối cực với ý thức cộng đồng ở

giai đoạn trớc đã phá vỡ những khung khổ hạn định ngòi bút, rộng đờng
cho nhà văn tự do đặt lên trang sách tất cả các hình thái đời sống, đặc biệt
là những cảm xúc riêng, chính kiến riêng, không ngại khơi vào những vấn
đề phức tạp, những ngang trái của sự thật hoặc những miền riêng t sâu kín
của tiềm thức mà trớc đây ngời ta vẫn né tránh. Có một số đề tài nổi bật
sau đây: cảnh sắc, hơng vị của quê hơng xứ sở, những nét đẹp trong đời
sống sinh hoạt cộng đồng, những phong tục tập quán, những truyền thống
văn hóa, những phép ứng xử của con ngời trong đời sống; các vấn đề của
đời sống văn nghệ và tác phẩm, xây dựng chân dung các nghệ sỹ, các danh
nhân; những vấn đề có tính thời sự cấp bách hoặc nổi cộm trong cuộc sống
hiện đại



22

22
b) Cách thức biểu hiện
Cách biểu hiện trong tản văn không có những phá cách, những thử
nghiệm mang tính đột phá, sự tìm tòi về hình thức biểu hiện cha có gì nổi
bật. Tuy nhiên, so với giai đoạn trớc, tản văn bớc đầu đã có những nỗ lực
bứt mình ra khỏi những công thức sáo mòn để đa dạng hoá cách thức biểu
hiện.
Tản văn thời đổi mới vẫn sử dụng những thủ pháp nghệ thuật quen
thuộc nh lối tơng phản, so sánh, nhân hoá nhẹ nhàng giàu chất thơ, tạo
lập những hình ảnh biểu tợng đẹp, gợi cảm Tản văn thời kỳ này bắt đầu
có những dấu hiệu về sự đa dạng của giọng điệu (giọng tha thiết, ngọt
ngào; giọng ngậm ngùi, trách cứ; giọng châm biếm ). ở một số tác phẩm
đã có sự kết hợp các phơng thức và thủ pháp nghệ thuật của các loại hình
nh âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ

đặc biệt.
3.4.4. Xu thế phát triển của thể loại
Môi trờng sinh thái văn hóa đơng đại rất thuận lợi để phát triển
những thể loại có dung lợng ngắn nh tản văn. Những gì tản văn đã đạt tới
trong giai đoạn sau 1986 là một động lực, một thứ bánh đà đã khởi động,
tạo quán tính cho những chặng đờng tiếp theo. Tuy vậy, quyết định cho
tơng lai của tản văn, theo chúng tôi lại nằm chính trong ý thức và quan
niệm sáng tạo, hay nói cách khác là cách ứng xử của ngời cầm bút đối với
thể loại này.



×