Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích thực trạng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp tại VIỆT NAM đề xuất giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.33 KB, 13 trang )

Chương I. Những nét chung về Hệ thống nông nghiệp Việt Nam
1. Các khái niệm:
• Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi
và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó
còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản
• Khái niệm : Hệ thống kinh tế nông nghiệp là tổng thể quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp, biểu hiện bằng những hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, những hình thức
tiêu dùng các sản phẩm sản xuất ra với những hình thức tổ chức sản xuất, trao
đổi, phân phối và cơ chế quản lý tương ứng của Nhà nước đối với toàn bộ nền
nông nghiệp
2. Đặc điểm và vai trò của nông nghiệp Việt nam:
2.1. Đặc điểm
• Nền nông nghiệp nhiệt đới
- Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên cho phép nước ta phát
triển một nền công nghiệp nhiệt đới
+ Thuận lợi: Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa có sự phân hóa rõ rệt cho phép
đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp, áp dụng các biện pháp thâm canh
tăng vụ, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, địa hình và đất trồng cho phép áp dụng
các hệ thống canh tác khác nhau giữa các vùng
+ Khó khăn: Thiên tai, sâu bệnh, dịch bệnh,
• Nước ta khai thác ngày càng hiệu quả đặc điểm của nền nông nghiệp nhiệt
đới
- Các tập đoàn cây trồng và vật nuôi được phân bố phù hợp với các vùng
sinh thái
- Cơ cầu mùa vụ, giống có nhiều thay đổi
- Tình mùa vụ được khai thác tốt hơn
- Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới
• Phát triển nông nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa góp phần nâng cao hiệu
quả của nông nghiệp nhiệt đới
Nền nông nghiệp nước ta tồn tại song song nền công nghiệp cổ truyền và
nên công nghiệp hàng hóa


• Nền kinh tế nông thôn đang chuyển dịch mạnh mẽ
- Hoạt động nông nghiệp là bộ phận chủ yếu của kinh tế nông thôn
- Kinh tế nông thôn dựa chủ yếu vào nông, lâm ngư nghiệp
- Các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, đóng vai
trò quan trọng ở vùng kinh tế nông thôn
• Kinh tế nông thôn bao gồm nhiều thành phần kinh tế và cơ cấu kinh tế nông
thôn đang từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa và đa
dạng hóa. Đẩy mạnh chuyên môn hóa, kết hợp công nghiệp chế biến và xuất
khẩu
2.2. Vai trò
• Cung cấp lương thực thực phẩm
Nông nghiệp Việt Nam có vai trò cung cấp lương thực thực phẩm cho tiêu
dùng trong nước, tạo nên sự ổn định, đảm bảo an toàn cho phát triển.
• Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
Nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan trọng cho sự phát triển của các
ngành công nghiệp chế biến nông sản.
• Cung cấp ngoại tệ cho nền kinh tế
Việt nam là nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới . Việc xuất khẩu gạo và
nông sản đã thu về một nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Đóng góp một
phần lớn trong GDP của nền kinh tế
• Cung cấp vốn cho các ngành kinh tế khác
Thông qua:
- Dạng trực tiếp: Như nguồn thu từ thuế nông nghiệp, thuế xuất khẩu
nông sản, nhập khẩu tư liệu sản xuất nông nghiệp. Nguồn thu này tập
trung vào ngân sách nhà nước và dùng để đầu tư cho phát triển kinh tế
- Dạng gián tiếp: Với chính sách quản lí giá của nhà nước theo xu hướng
là giá sản phẩm công nghiệp tăng nhanh hơn giá nông sản, tạo điều kiện
cho gia tăng tích lũy công nghiệp từ sự “hy sinh” của nông nghiệp
• Làm phát triển thị trường nội địa
Nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn và sản phẩm chủ yếu trong

nước
Việc tiêu dùng của người nông dân và mạng dân cư nông thôn đối với hàng
hóa công nghiệp, hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa tư liệu sản xuất là tiêu biểu
cho sự đóng góp về mặt thị trường của ngành nông nghiệp đối với quá trình
phát triển kinh tế. Sự đóng góp này bao gồm cả viêc bán lương thực, thực
phẩm nông sản và nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.
3. Đặc trưng hệ thống nông nghiệp Việt Nam
3.1. Hệ thống đa sở hữu: Rất đa dạng với nhiều hình thức sở hữu
• Sở hữu Nhà nước: Vai trò nòng cốt và chỉ đạo, dẫn dắt định hướng phát
triển ngành nông nghiệp.
- Các doanh nghiệp nhà nước nằm trong các vùng trọng yếu, vùng sâu giữ
vai trò hạt nhân phát triển.
- Cổ phần nhà nước trong các doanh nghiệp
• Sở hữu tập thể
- Về giá trị: Vốn thuộc sở hữu tập thể hợp tác xã hay của các hình thức
hợp tác gồm vốn cổ phần sáng lập, cổ phần vốn góp, phần lợi nhuận
kinh doanh trích lập quỹ phát triển sản xuất (nếu có)….
- Về hiện vật: Tài sản thuộc sở hữu tập thể cũng đa dạng gồm công trình
tưới tiêu của tập thể, các trang thiết bị và trụ sở làm việc, các máy móc
hay tài sản cố định mua sắm
• Sở hữu cá thể cá nhân
Hiện nay cả nước chỉ có 5% do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận kinh
doanh số còn lại do dân làm dưới hình thức kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
• Sở hữu liên kết
Đồng sở hữu (cùng đấu thầu diện tích mặt nước, diện tích đất trống đồi trọc
và cùng góp vốn kinh doanh)
- Nền tảng sở hữu Nhà nước (Nhà nước đầu tư cải tạo, khai hoang, xây
dựng cơ sở hạ tầng rồi khoán hoặc cho hộ gia đình, trang trại thuê để kinh
doanh.
- Sở hữu của công ty cổ phần nông nghiệp

- Sở hữu của công ty theo mô hình công ty mẹ, công ty con.
- Sở hữu liên kết theo mô hình tập đoàn kinh tế
3.2. Đa hình thức tổ chức
Gồm: Các DNNNg 100% vốn Nhà nước; các công ty cổ phần; các hợp tác xã; các
hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của nông dân; các hình thức liên kết, liên doanh
tự nguyện
Trong đó: Kinh tế hộ và trang trại là hình thức cơ bản của hệ thống kinh tế
nông nghiệp nhiều thành phần, đơn vị kinh tế cơ sở
3.3. Các chủ thể kinh tế trong hệ thống đều tự do kinh doanh theo pháp luật , có
quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật
- Không phân biệt đối xử với các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần
kinh tế trong nông nghiệp.
- Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau vừa cạnh tranh vừa
liên kết hợp tác và phát triển đạt trình độ xã hội hoá ngày càng cao
3.4. Quản lí vận hành
• Theo cơ chế Thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng XHCN.
• Hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính, đảm bảo nguyên tắc thị
trường; kết hợp với các kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nước.
• Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất và đầu ra của sản phẩm nông nghiệp đều
phải đi vào thị trường.
Chương II. Hệ thống nông nghiệp Việt Nam trước năm 1986.
1. Đặc trưng kinh tế nông nghiệp Việt Nam trước 1986
1.1. Trước 1945
• Kinh tế địa chủ: Chiếm hữu nhiều ruộng đất, phát canh thu tô.
• Kinh tế phú nông: Một phần sp mang bán trên TT, có thuê mướn lđ.
• Trung nông: hộ có ruộng tự cày cấy đủ ăn, không dôi dư
• Kinh tế bần nông: Những nông hộ nghèo, thiếu ruộng làm không đủ ăn.
• Cố nông, những người không có ruộng đi làm thuê để kiếm sống.
• Kinh tế đồn điền của các địa chủ - tư sản Pháp ở Việt Nam (nông nô)

1.2. Thời kì 1946 – 1954
Chuyển dịch cơ cấu theo hướng: Kinh tế địa chủ bị suy yếu, kinh tế phú nông
chững lại, kinh tế trung nông lớn lên cả về số hộ và tiềm lực kinh tế của mỗi hộ;
đời sống của bần nông và cố nông được cải thiện.
1.3. Thời kì 1955 – 1975
• Thực hiện các kế hoạch 3 năm , 5 năm thành công dần dần chuyển dịch lao
động trong NN.
• Thi đua phát triển sản xuất
• Miền nam phát triển KT trang trại, đồn điền
1.4. Thời kì 1976 – 1986
• Nông dân và công nhân nông nghiệp mất quyền người chủ trực tiếp sản
xuất
• Quy mô HTX và nông trường lớn =>bộ máy cồng kềnh, quản lý quan liêu,
lãng phí lớn, tham ô phổ biến, tài sản thất thoát, ruộng đồng bỏ hoang.
• Năng suất và sản lượng nông nghiệp giảm sút liên tục và nghiêm trọng.
Tình trạng nợ lương công nhân trở thành phổ biến và kéo dài liên miên.
• Sản xuất lương thực chỉ tự cấp, tự túc; mức sản lượng lương thực bình
quân đầu người liên tục giảm xuống, lượng gạo nhập khẩu mỗi năm tăng
dần lên và tới trên 1 triệu tấn.
2. Thành tựu và hạn chế
Chương III. Hệ thống nông nghiệp Việt Nam sau 1986
1. Yêu cầu đổi mới của hệ thống nông nghiệp
• Thực tiễn trong quá trình phát triền kinh tế chúng ta mới nhận ra rằng: Quan
hệ sản xuất lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn trình độ lực lượng sản xuất một cách
giả tạo sẽ kìm hãm, hạn chế sự phát triền của lực lượng sản xuất. Như nước ta
từ năm 1975 tới 1986, chúng ta đã kéo dài cơ chế chính sách kế họach hóa tập
trung, quan liêu bao cấp với tư tưởng nôn nóng muốn đưa nước ta tiến nhanh
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Bây giờ chúng ta nhận thức lại là
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể vài chục năm là giải quyết xong
cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội mà phải hàng trăm năm, nhiều thế hệ.

• Do đó, thời kỳ quá độ ở một số nước nông nghiệp lạc hậu tất yếu chúng ta
phải tôn trọng nhiều hình thức sở hữu. Hình thức sở hữu nào còn động lực
chúng ta phải chấp nhận nó, trong đó có cả hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, nên chưa thể xóa bỏ ngay mọi hình thức bóc lột được. Chỉ đến khi
trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao, mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc
cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Do vậy chúng ta phải chấp
nhận đa sở hữu ở thời kỳ quá độ.
• Trong nông nghiệp, nông thôn cũng thế, không chỉ có kinh tế tập thể mà vẫn
phải đa hình thức sở hữu, đa dạng, đa quy mô phù hợp với trình độ quản lý,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nơi đó, phù hợp với cơ chế thị
trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Mô hình nào
tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển thì ta nên ủng hộ.
2. Đặc trưng của hệ thống nông nghiệp Việt Nam sau 1986
2.1. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thay đổi hình thức tổ chức sản xuất, trao
đổi phân phối theo cơ chế quản lí của Nhà nước
Từ sự phân tích trên, chúng ta chấp nhận phải đa hình thức sở hữu, đa mô hình và
đa quy mô mới phù hợp với thời kỳ quá độ hiện nay). Như vậy, tùy từng nơi, từng
vùng, tùy từng trình độ quản lý và trình độ phát triền của lực lượng sản xuất mà áp
dụng 5 mô hình sau:
• Mô hình trang trại.
• Mô hình tổ hợp tác.
• Mô hình hợp tác xã dịch vụ (HTX kiểu mới)
• Mô hình hợp tác xã liên doanh liên kết với doanh nghiệp.
• Mô hình hợp tác xã cổ phần (doanh nghiệp –HTX).
Hai mô hình: Mô hình liên doanh liên kết với các doanh nghiệp và mô hình
hợp tác xã cổ phần (doanh nghiệp –HTX) sẽ đưa sản xuất nông nghiệp nước ta lên sản
xuất lớn, bởi vì:
- Nó tập trung, tích tụ được ruộng đất (không ở tình trạng nhỏ lẻ, manh mún,
“dẫm chân tại chỗ” như hiện nay.

- Sẽ tiến hành hiện đại hóa về nông nghiệp, nông thôn (tiến hành cơ khí hóa
để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, điện khí hóa, thủy
lợi hóa, sinh học hóa, thị trường hóa v.v…).
- Nó tiến hành sản xuất ra khối lượng hàng hóa lớn mới tiêu thụ được các
sản phẩm nông dân làm ra, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập.
- Nông dân không bị mất đất, cái mà nông dân không bao giờ muốn. Đó là
thành quả của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng đã mang lại
cho nông dân.
Trước là các nông trường quốc doanh thuộc sự quản lí của nhà nước và
hiện giờ phát triển theo cơ chế thị trường như: doanh nghiệp trồng và chế biến
chè Mộc Châu, chăn nuôi và chế biến sũa Mộc Châu, Ba Vì…Phát triển chủ yếu ở
khu vực trung du và miền núi của nước ta
• Trước đổi mới:
HTX nông nghiệp quản lí toàn bộ nền sản xuất nông nghiệpở nông thôn từ
lao đông đến phân phối sản phẩm mà khi đó có rất nhiều lĩnh vực đề cập
như văn học điện ảnh đã xây dựng lên rất nhiều tác phẩm phản ánh điều
này và cũng phản ánh sự sai lầm trong chính sách nông nghiệp của VN.
• Nhưng ngày nay thì HTX chỉ đảm nhận một số khâu như thủy nông, giống
cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, vật tư nông nghiệp…
• Thành phần kinh tế hộ gia đình sản xuấ chủ yếu dựa vào nguồn vốn, nguồn
lao động, là thành viên trong gia đình không thuê lao động và sản phẩm
chia điều cho các thành viên trong nhà và chỉ chịu một số thuế cho nhà
nước
• Kinh tế trang trại phát triển với quy mô lớn có thể thuê thêm lao đông, sản
phẩm làm ra đáp ứng nhu cầu của thị trường. Chúng ta có những trang trại
trồng cây công nghiệp lâu năm, cây hàng năm, chăn nuôi nuôi trồng thủy
sản, trang trại kết hợp… Sản xuất chủ yếu theo tính chất hàng hóa trong đó
thì trang traị nuôi trổng thủy hải sản chiếm tỉ trọng cao nhất khoảng trên
30% tổng số trang trại của cả nước tập trung chủ yếu ở khu vực ĐBSCL với
46,2% tổng số trang trại của vùng.

• Kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình vẫn phát triển nhất trong đó thì chủ yếu là hộ nông
nghiệp chiếm 77, 33% tổng số hộ nông thôn
2.2. Phát triển một nền một nền nông nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa góp phần
nâng cao hiệu quả nền nông nghiệp nhiệt đới
Nền nông nghiệp nước ta hiện nay tồn tại song song nền nông nghiệp cổ
truyền và nền nông nghiệp hàng hóa Có rất nhiều nguyên nhân chi phối tới
hình thức tổ chức sản xuất nông nnghiệp nhưng cơ bản vẫn là do:
- Nông nghiệp nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu với tính
chất tự cấp, tự túc và phụ thuộc nhiều vào tự nhiên
- Do đường lối đổi mới của nước ta là chuyển sang nền kinh tế thị trường
sản xuất hàng hóa có sự điều tiết của nhà nước.
- Nước ta có nhiều điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa
hiện đại như: ĐKTN, tài nguyên thiên nhiên phong phú, trình độ chuyên
môn kinh tế ngày càng tăng.
- Nền nông nghiệp cổ truyền thường tồn tại ở khu vực Trung du miền núi
phía bắc hạn chế trong việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất.
- Nền nông nghiệp hiện đại thể hiện ở việc hình thành các vùng chuyên
canh hiệu quả kinh tế tương đối cao tạo nông sản cho xuất khẩu
Từ việc thay đổi trong hình thức sản xuất đã tạo ra sự chuyển dịch trong
nền kinh tế nông thôn và đây cũng là một đặc điêm của nền nông nghiệp
nước ta
2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa và đa dạng
hóa
• Sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp:
- Đẩy mạnh chuyên môn hóa
- Hình thành càc vùng nông nghiệp chuyên môn hóa
- Kết hợp công nghiệp chế biến với hướng ra xuất khẩu.
• Đa dạng hóa nền kinh tế nông thôn:
- Cho phép khai thác tốt các nguồn TNTN

- Đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường
- Giảm tỉ trọng thuần nông trong nông nghiệp
- Vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm như Tây Nguyên, Trung du
miền núi phía bắc
Vùng chuyên canh cây lương thực- thực phẩm như vùng ĐBSH, ĐBSCL
Vùng chăn nuôi thủy hải sản như duyên hải miền trung
 Vùng chuyên môn hóa nông nghiệp
VN có nhiều sản phẩm để xuất khẩu đặc biển là sản phẩm qua chế biến
như: gạo, thủy sản đóng hộp, cà phê…
Ngoài sản xuất hàng hóa thì trong nông nnghiệp còn thực hiện đa dạng
hóa các sản phẩm
2.4. Phát triển thị trường tài chính nông thôn, tạo vốn cho phát triển nông nghiệp
nông thôn
• Chính phủ hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro nông sản cho nông dân: Chính phủ hỗ
trợ cho ngươi nông dân mua bảo hiểm rủi ro giá cả, mất mùa, thiên tai cho các
sản phẩm nông nghiệp, thay vì hỗ trợ người nông dân vay với lãi suất thấp.
• Một thị trường tài chính phát triển, nguồn vốn chỉ có thể phân bổ hợp lý khi
chi phí vốn gắn với cung cầu vốn trên thị trường. Do vậy, cần có lộ trình giảm
dần các khoản lãi suất ưu đãi, xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý trên địa
bàn nông thôn.
• Củng cố, phát triển thị trường tài chính cần dựa trên cơ sở tích tụ và tập trung
vốn của các chủ thể kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một cách tự
nguyện. Do vậy, cần phát triển đa dạng các định chế tài chính, nhất là các định
chế tài chính vi mô. Khuyến khích các NHTM ở rộng các hoạt động tài chính
vi mô để bao phủ toàn bộ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; đưa ra các
sản phẩm huy động vốn phù hợp với tâm lý và đặc điểm kinh tế nông nghiệp
nông thôn.
• Phát triển và từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và hệ thống thông tin, đảm
bảo cho các hoạt động của thị trường tài chính được vận hành thông suốt, đáp
ứng được các yêu cầu về thông tin để quản lý và điều hành có hiệu quả thị

trường tài chính.
• Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và giám sát thị trường, đảm bảo cho
thị trường hoạt động lành mạnh, an toàn có hiệu quả, có chế tài đủ mạnh để
duy trì trật tự hoạt động của thị trường trong khuôn khổ pháp luật, bảo vệ được
các chủ thể tham gia thị trường, tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần
kinh tế tiếp cận như nhau nguồn vốn tín dụng.
• Các định chế tài chính đang hiện hữu tại thị trường nông thôn hiện nay cần có
những đổi mới mạnh mẽ, trong quản trị điều hành, không ngừng cải thiện năng
lực tài chính, năng lực hoạt động, để tạo khả năng tiếp cận nguồn vốn của các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình trên địa
bàn nông thôn.
• Khuyến khích các TCTD mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để có
những tư vấn hướng dẫn cho khách hàng trong việc sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm đảm bảo được hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như
hiệu quả đồng vốn vay của chính TCTD
• Đẩy mạnh việc phát triển các mô hình hoạt động có hiệu quả cũng như các sản
phẩm bảo hiểm phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro cho các chủ thể kinh tế, các
TCTD và các định chế tài chính khác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
2.5. Hợp tác giữa các chủ thể cùng tham gia vào bất kỳ một chuỗi sản xuất - tiêu thụ một
loại sản phẩm nào đó là để mang lại hiệu quả cao cho mỗi chủ thể.
Hiện nay, quy mô sản xuất của mỗi nông hộ, loại hình tổ chức sản xuất phổ
biến trong nông nghiệp còn nhỏ lẻ, thường với 8-10 công đất trồng trọt, vài
trăm con gia cầm hay vài chục con heo, bò, 1-2 héc ta hầm nuôi cá
Nhưng phát triển nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và hiện đại trong
bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, thì sản xuất nông nghiệp nước ta buộc phải
thỏa mãn các nhu cầu cao và khắt khe của thị trường
• Sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực

phẩm cho người tiêu dùng với giá cả cạnh tranh;
• Đảm bảo khối lượng lớn nông sản cung ứng theo lịch trình thời gian
nghiêm ngặt, phù hợp với nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường
tiêu thụ;
• Tổ chức kênh phân phối hợp lý, tiết kiệm và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của
thị trường, của khách hàng. Trong đó, nhiều chủ thể cùng tham gia thực
hiện và phân chia giá trị gia tăng được tạo ra trong mỗi chuỗi ngành hàng,
từ các nhà cung ứng nguồn lực đầu vào, nhà nông, đến thương lái, nhà chế
biến, bảo quản, nhà buôn bán sỉ, bán lẻ và cuối cùng là người tiêu dùng. Các
chủ thể này phải liên kết với nhau vì lợi ích của mình và tôn trọng lợi ích
của các chủ thể khác trong chuỗi ngành hàng.
- Nhà nông và các hợp tác xã
Về phía nhà nông, giải pháp có thể là:
(1) Quy mô canh tác hay chăn nuôi của mỗi nông hộ gia tăng, nhờ tích tụ và tập
trung tư bản và ruộng đất
(2) Các nông hộ nhỏ liên kết trong các hợp tác xã (HTX) để tổ chức lại sản xuất
theo phương châm “liền đồng, khác chủ, cùng trà giống”.
Khi quy mô sản xuất của mỗi nông hộ (tức trang trại gia đình) và các loại
trang trại khác gia tăng thì nhu cầu hợp tác, liên kết trong khâu tiêu thụ nông sản
trở nên bức bách. Mỗi trang trại - xã viên, nên mới có thể thuê những nhà chuyên
môn có trình độ cao về quản lý và kỹ thuật, nhờ trả lương cao theo mặt hàng của
thị trường sức lao động. Vì thế, kinh doanh của HTX và của mỗi trang trại - xã viên,
mới đạt hiệu quả cao. Chỉ lúc đó, HTX đích thực mới ra đời và trở thành một lực
lượng kinh tế quan trọng của nền kinh tế nói chung và của nền nông nghiệp nói
riêng. Từ đó, một xu hướng liên kết khác xuất hiện. Đó là sự liên kết giữa các trang
trại lớn và HTX với các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản, hình thành và
phát triển.
- Nhà nông - hợp tác xã và doanh nghiệp
Cùng với quá trình này, vai trò của những thương lái thu gom sẽ giảm dần
và có thể họ nhập vào các HTX của các chủ trang trại hay trở thành đại lý mua gom

của các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản. Doanh nghiệp đóng vai trò
“nhạc trưởng”, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp của nông dân, thực hiện hiện đại
hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, giải quyết tốt 3 vấn đề mà nhà nông không tự
làm được là
(i) Thương hiệu và thị trường;
(ii) Áp dụng công nghệ mới và
(iii) Vốn kinh doanh.
Các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản không chỉ bảo đảm việc tiêu thụ
nông sản cho nông dân hay HTX, mà cung ứng giống, vật tư nông nghiệp và dịch vụ
khuyến nông (trực tiếp cho các trang trại hay thông qua HTX). Nhờ đó, các doanh
nghiệp này mới có nông sản nguyên liệu để chế biến, vừa bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn thực phẩm, vừa đáp ứng đủ khối lượng và thời gian cung ứng sản phẩm theo
yêu cầu của thị trường (thông qua xuất khẩu hay các siêu thị trong nước).
Sự liên kết giữa nhà nông và nhà doanh thực hiện bằng hợp đồng kinh tế theo luật
pháp hiện hành.
Nhà doanh nghiệp còn phải liên kết, hợp tác với nhà khoa học để giải quyết các
vấn đề công nghệ trong sản xuất nông nghiệp và cả trong chế biến - bảo quản nông
sản, liên kết với các tổ chức tín dụng để giải quyết vấn đề vốn cho nông dân.
Nhờ đó, thương hiệu nông sản gắn với từng doanh nghiệp mới được xác lập trên thị
trường trong và ngoài nước, làm gia tăng giá trị của hàng nông sản.
Ngoài việc tổ chức lại nền sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến - tiêu
thụ nông sản còn phải chủ động bàn bạc với các chủ thể khác, trước hết là với nông
dân, HTX, để phân chia lợi ích một cách hợp lý, hài hòa giữa các chủ thể cùng tham gia
vào chuỗi giá trị ngành hàng.
Sự liên kết của các chủ thể này phải đặt dưới sự quản lý, bảo vệ và khuyến
khích của nhà nước pháp quyền, bằng hệ thống luật pháp rõ ràng, công minh, bằng hệ
thống tư pháp xét xử đúng luật đối với các trục trặc, bất đồng giữa các chủ thể trong
quá trình hợp tác thực hiện chuỗi giá trị ngành hàng.
Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự liên kết trong chuỗi
ngành hàng, như tài trợ kinh phí khuyến nông, giảm thuế cho các doanh nghiệp đứng

ra tổ chức sản xuất nông nghiệp và bao tiêu nông sản cho nông dân, đặc biệt không
nên thu thuế giá trị gia tăng đối với các chủ thể tham gia vào các khâu trung gian của
chuỗi giá trị ngành hàng, chỉ nên thu thuế giá trị gia tăng ở khâu cuối cùng (bán lẻ).
Như vậy, nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao mới có thể hình thành và phát
triển, mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia hợp tác, trước hết là nông dân, nhà chế
biến - tiêu thụ và người dân sử dụng nông sản.
3. Thành tựu và hạn chế
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực nông thôn việt nam đã có
sự thay đổi rõ nét.
3.1. Thành tựu
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát triển mạnh,
hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (khu công nghiệp, trang trại,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả thu hút
nhiều lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm cho nền kinh tế.
Kết cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn có nhiều thay đổi, hệ thống điện, đường
trường trạm, cơ sở y tế, nước sạch, môi trường được quan tâm và đẩy mạnh. Công tác
xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mặc dù việc xây
dựng và thực hiện các chương trình phát triển đối với một số ngành nông nghiệp mới
được tiến hành trong thời gian chưa lâu nhưng kết quả đã cho thấy tốc độ phát triển
nhanh, đạt hiệu quả cao và cùng lúc đạt được nhiều mục tiêu như cải thiện đời sống
nông thôn, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc v.v…
Ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển khá với nhiều thành điểm đáng chú ý
như:
• Mức tăng trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10 năm. Nhiều
lĩnh vực sản xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về sản
lượng như gạo, cà phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa
lớn phục vụ cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ
một nước nhập khẩu gạo Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về
xuất khẩu gạo, sản lượng và giá trị các loại cây trồng, đặc biệt là những cây
tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như tăng mạnh.

• Tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP luôn chiếm trên
30% trong giai đoạn 1986 – 1990 và giảm dần trong các giai đoạn tiếp sau
theo xu hướng tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
• Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá trị
xuất khẩu tăng bình quân trên 10% năm. Cùng với việc mở rộng thị trường
xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia tăng thị phần và chiếm vị thế cao trên
thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu chiếm vị trí thứ nhất, lúa gạo, cà phê
đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng thứ năm và thủy sản đứng thứ bảy
trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này.
• Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu
lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo. Tính đến
cuối năm 2009 có trên 24 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 60% tổng số lao động đang làm việc trong các khu
vực kinh tế của cả nước.
• Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu hình thành.
Diện tích gieo trồng các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho
xuất khẩu hoặc phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên.
Diện tích các cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm 2009 do giá
xuất khẩu một số nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã tạo ra sự hình
thành các vùng chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại cây rau, quả
xuất khẩu như vải, bưởi, sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng với sự hình
thành các mô hình sản xuât hàng hóa nông sản lớn. Bên cạnh đó thì những cây
trồng có định hướng phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến các sản
phẩm chỉ tiêu dùng nội địa thể hiện sự khó khăn, không có năng lực phát triển
như cây mía đường, bông, cây thức ăn gia súc,…
• Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình tổ
chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân
dân, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ.
Tính đến năm 2009, cả nước đã có 135.437 trang trại, trong đó có 39.769 trang
trại trồng cây hàng năm, 23.880 trang trại trông cây lâu năm, 20.809 trang trại

chăn nuôi và 35.489 trang trại nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều nhất ở khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã dịch vụ trong
nông nghiệp cũng là một nét mới đáng ghi nhận trong tổ chức sản xuất nông
nghiệp hiện nay.
3.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cần phải thấy rằng
ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển
dịch từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp hàng hóa.
Vì vậy, vẫn tồn tại nhiều yếu tố bất cập có thể kể đến như:
• Cơ cấu nông nghiệp chậm chuyển dịch, còn tồn tại nhiều yếu tố mất cân đối.
Cơ cấu nông, lâm nghiệp thủy sản năm 2000 lần lượt là 79%, 16% và 5% thì
đến năm 2009, nông nghiệp vẫn chiếm 74%, thủy sản tăng lên 23% và lâm
nghiệp giảm xuống còn 3%. Sự mất cân đối còn thể hiện trong mối quan hệ
giữa nguyên liệu sản xuất và nhà máy chế biến. Như đối với ngành hạt điều, từ
chỗ chỉ có vài chục ngàn ha với sản lượng đáp ứng tiêu dùng nội địa, đến nay
cả nước đã có trên 400.000 ha điều, tuy nhiên công suất của các nhà máy chế
biến đã vượt quá xa khả năng cung ứng nguyên liệu điều thô trong nước. Tình
trạng tương tự cũng xảy ra trong lĩnh vực thủy sản. Trong 3 năm trở lại đây,
năng lực chế biến của các nhà máy chế biến thủy sản tăng tới 20% trong khi
sản lượng khai thác và nuôi trồng chỉ tăng 7,6%.
• Quy mô sản xuất nhỏ, hoạt động sản xuất còn manh mún.
Ví dụ như đối với ngành sản xuất cà phê, cho tới nay, cà phê thuộc các gia
đình nông dân quản lý đã chiếm trên 90% tổng diện tích cà phê cả nước, trong
đó có tới 53% chủ vườn có diện tích cà phê dưới 1 ha và 85% chủ vườn có
diện tích cà phê dưới 2ha. Diện tích cà phê của các nông trường nhà nước đã
ngày càng thu hẹp do chính sách khoán đến hộ công nhân và bán vườn cây của
các nông trường. Do quy mô sản xuất nhỏ, vốn đầu tư ít, điều kiện kinh tế
nhiều hộ nông dân còn nghèo nên công nghệ sau thu hoạch như phơi sấy, chế
biến và bảo quản còn nhiều hạn chế, dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp.
• Cơ cấu giống cây trồng và con vật nuôi còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn tới

cơ cấu sản phẩm nông nghiệp chưa hợp lý theo cả cung và cầu.
Ví dụ như diện tích cà phê vối hiện nay chiếm tới 92,9% chủ yếu trồng bằng
hạt, diện tích cà phê chè chỉ đạt trên 31 nghìn ha, chiếm khoảng 7% trong khi
nhu cầu tiêu dùng thì chủ yếu tập trung vào cà phê chè. Hiện tượng này diễn ra
tương tự với nhiều loại cây trồng và vật nuôi khác. Cơ cấu giống cây trồng, vật
nuôi còn thiếu đa dạng, tồn tại nhiều giống cây cho hiệu quả và năng suất còn
thấp, nhiều giống vật nuôi có chất lượng kém hơn so với các sản phẩm cùng
loại của các nước.
• Năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh
tranh yếu do đó chưa hình thành được các chuỗi giá trị nông sản mạnh và bền
vững
Mặc dù năng suất lao động của ngành nông nghiệp có tăng trong nhiều
năm trở lại đây, tuy nhiên, theo báo cáo khoa học ngành nông nghiệp Việt
Nam 2011-2015 (Bộ NN và PTNT) thì năng suất lao động bình quân của
ngành nông nghiệp ở nước ta chỉ bằng 0,16% đến 0,22% so với ngành công
nghiệp từ năm 2006 đến nay.
Chất lượng sản xuất thấp cũng là một trong những vấn đề đặc biệt
nghiêm trọng. Do chất lượng sản xuất thấp dẫn đến giá trị xuất khẩu không
cao, làm giảm thu nhập cũng như hiệu quả lao động của người nông dân, làm
giảm hiệu quả khai thác đất đai và các tài nguyên khác Mặc dù là nước xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa xuất khẩu gạo có
thương hiệu mạnh, giá gạo của Việt Nam vẫn luôn duy trì ở mức thấp hơn so
với giá gạo tương đương của Thái Lan. Người nông dân phần lớn vẫn chú
trọng nâng cao năng suất hơn là chất lượng sản phẩm.
• Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản xuất, tiêu
thụ đặc biệt là vấn đề giá cả
Bên cạnh những yếu tố rủi ro về thời tiết, mùa vụ, trong một nền nông
nghiệp hàng hóa thì người nông dân lại phải đối mặt nhiều hơn với các rủi ro
về thị trường giá cả, cung cầu cả đầu vào và đầu ra. Do các yếu tố về cung cầu
không ổn định, dẫn đến sự biến động về giá trở nên phức tạp và khó đoán

trước, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nông dân. Đặc biệt là đối với
trường hợp của Việt Nam, khi các mặt hàng nông sản của chúng ta chưa làm
chủ được thị trường thì sự thụ động về mặt cung cầu càng tăng lên, đồng nghĩa
với việc rủi ro về giá cả càng trở nên nghiêm trọng đối với người nông dân. Sự
khó khăn về vốn, sự yếu kém về kỹ thuật trong các khâu phơi sấy, bảo quản
dẫn đến người nông dân không làm chủ được thời điểm tiêu thụ, buộc phải
bán ngay cả vào thời điểm giá thấp. Sự bất ổn về giá còn có nguyên nhân xuất
phát từ chính người nông dân. Khi giá một loại nông sản tăng lên trong một
năm thì ngay mùa vụ sau, người nông dân lại đổ xô đi trồng hoặc chăn nuôi
loại nông sản đó, dẫn đến nguồn cung tăng đột biến, giá thành lập tức hạ
xuống.
4. Nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu mới của hội nhập kinh tế thế giới. Cơ
hội và thách thức.
Cái này các bạn xem có nên cho vào không. Phần hội nhâp WTO ấy. ^^!

×