Tải bản đầy đủ (.doc) (245 trang)

Đề tài lễ hội truyền thống của người cao lan ở tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12 MB, 245 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG CHÍ THÔNG
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI CAO LAN Ở TUYÊN QUANG
Chuyên ngành : Nhân học văn hoá
Mã số : 62 31 65 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC VĂN HOÁ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS.Phạm Quang Hoan
2. PGS.TS. Hà Đình Thành
Hà Nội - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là kết quả điều tra thực địa và thu thập tư liệu của
tác giả luận án.
Nghiên cứu sinh
Đặng Chí Thông

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án Tiến sĩ về đề tài : Lễ hội truyền thống của người
Cao Lan ở Tuyên Quang, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
- Thường vụ Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội – nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện về thời gian để tôi
hoàn thành chương trình học tập và bản luận án này;
- Học viện Khoa học xã hội và Khoa Dân tộc học đã tận tình giúp đỡ,
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án;
- Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang, Lãnh đạo và
đồng bào Cao Lan ở các địa phương nơi tôi đã tiến hành nghiên cứu đã nhiệt
tình giúp đỡ và cộng tác giúp tôi thu thập thông tin, tư liệu của luận án;


- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã chia sẻ, khích lệ tôi trong thời
gian thực hiện luận án;
- Tập thể hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Quang Hoan và PGS.
TS. Hà Đình Thành đã tư vấn, định hướng khoa học rõ ràng cho tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận án. Tập thể hướng dẫn đã có những ý kiến gợi
mở và đóng góp trực tiếp vào các nội dung nghiên cứu của luận án.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2013
Nghiên cứu sinh
Đặng Chí Thông
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu 3
4. Nguồn tư liệu của luận án 5
5. Đóng góp của luận án 6
6. Cấu trúc của luận án 6
Chương 1 7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KHÁT
QUÁT VỀ NGƯỜI CAO LAN 7
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu 7
1.1.1.Tổng quan nghiên cứu về người Cao Lan ở Việt Nam 7
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về lễ hội và lễ hội của người Cao Lan 13
1.2. Cơ sở lý thuyết 17
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản 17
1.2.2. Hướng tiếp cận 21
1.2.3. Lý thuyết nghiên cứu 21
1.3. Phương pháp nghiên cứu 24

1.4. Khái quát về người Cao Lan ở Việt Nam và tỉnh Tuyên
Quang 25
1.4.1. Một số đặc điểm về dân số và địa bàn cư trú 25
1.4.2. Một số đặc điểm về kinh tế 28
1.4.3. Một số đặc điểm về văn hoá vật chất 30
1.4.4. Một số đặc điểm về văn hoá xã hội 33
1.4.5. Một số đặc điểm về văn hoá tinh thần 36
Tiểu kết chương 1 45
46
Chương 2 47
CÁC LỄ HỘI Ở ĐÌNH VÀ NGOÀI ĐÌNH 47
CỦA NGƯỜI CAO LAN 47
2.1. Các lễ hội ở đình 47
2.2.1. Lễ hội đình Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn 47
2.2.2. Lễ hội đình làng Minh Cầm, xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn 62
2.2.3. Lễ hội đình làng Mãn Hoá, xã Đại Phú, huyện Sơn Dương 78
2.2.4. So sánh lễ hội đình làng của người Cao Lan ở điểm nghiên cứu.80
2.3. Các lễ hội ngoài đình 81
2.3.1. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Kim Phú 81
2.3.2. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Đội Cấn 83
2.3.3. Lễ hội ngoài đình của người Cao Lan ở xã Đại Phú 90
2.4. Các lễ hội đình làng của người Cao Lan ở các địa phương
khác 91
2.4.1. Lễ hội đình làng Ngọc Tân, xã Ngọc Quang, huyện Đoan Hùng,
tỉnh Phú Thọ 91
2.4.2. Lễ hội xuống đồng ở Xóm Mới, xã Quang Yên, huyện Sông Lô,
tỉnh Vĩnh Phúc 96
Tiểu kết chương 2 104
Chương 3 106
CÁC GIÁ TRỊ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CAO

LAN Ở TUYÊN QUANG TRONG BỐI CẢNH MỚI 106
3.1. Bối cảnh mới và quan điểm bảo tồn, phát huy các giá trị
của lễ hội truyền thống 106
3.1.1. Bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập. .106
3.1.2.Quan điểm của Đảng, Nhà nước và tỉnh Tuyên Quang về bảo tồn
và phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống 108
3.2. Các giá trị lễ hội của người Cao Lan trong bối cảnh hiện
nay 114
3.2.1. Giá trị văn hoá 114
3.2.2. Giá trị lịch sử 116
3.2.3. Giá trị kinh tế 117
3.2.4. Giá trị xã hội trong đời sống đương đại 118
3.3. Biến đổi của lễ hội truyền thống 119
3.3.1. Biến đổi về không gian và hình thức tổ chức lễ hội 119
3.3.2. Biến đổi của các nghi lễ và các trò chơi 122
3.3.3. Biến đổi trong nhận thức về vị trí, vai trò của lễ hội trong đời sống
cộng đồng 124
3.4. Một số giải pháp phát huy các giá trị lễ hội truyền thống
của người Cao Lan 125
3.4.1. Nhóm giải pháp về chính sách 126
3.4.2. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội 129
3.4.3. Nhóm giải pháp về văn hoá 130
3.4.4. Tiếp tục đẩy mạnh sưu tầm, nghiên cứu 131
Tiểu kết chương 3 131
Chương 4 133
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 133
4.1. Vai trò của lễ hội trong đời sống tinh thần của cộng đồng
người Cao Lan 133
4.2. Phát huy các giá trị của lễ hội truyền thống phục vụ phát
triển 136

4.3. Vai trò của cộng đồng người Cao Lan trong quản lý lễ hội
142
Tiểu kết chương 4 145
KẾT LUẬN 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 162
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng không thể
thiếu trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Lễ hội là dịp bày tỏ sự
tôn vinh, tưởng niệm những người đã được cộng đồng suy tôn, bao gồm các
vị nhân thần, thiên thần và cả những hiện tượng tự nhiên - xã hội khác.
Lễ hội chứa đựng các giá trị văn hoá truyền thống đã được chắt lọc, kết
tinh qua nhiều thế hệ như lối sống, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng,
văn hoá nghệ thuật Các giá trị ấy có tác động sâu sắc đến việc hình thành
cốt cách, tình cảm, diện mạo văn hoá của cộng đồng, là những thành tố quan
trọng cấu thành nền văn hoá truyền thống Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhiều năm qua, lễ hội truyền thống ở Việt Nam đã trải qua những bước
thăng trầm: có khi lắng xuống, có khi lại phát triển ồ ạt, thiếu tính tổ chức.
Trong những nguyên nhân của thời kỳ lắng xuống ấy có thể kể đến những
nguyên nhân khách quan như chiến tranh hay kinh tế đất nước còn nhiều
khó khăn; trong những nguyên nhân chủ quan phải kể đến việc nhận thức và
cách thức quản lý của các nhà quản lý văn hóa - xã hội; có lúc người ta coi
tổ chức lễ hội là một sự lãng phí, tốn kém tiền của của nhân dân, là mê tín dị
đoan… nên đã đưa ra những quyết định quản lý lễ hội nặng về cấm đoán
hành chính, thiếu căn cứ khoa học. Chính vì thế, nhiều lễ hội truyền thống
không được vận hành theo đúng qui luật của văn hóa, nhiều giá trị văn hóa
đặc sắc của lễ hội theo đó cũng bị mai một dần.
Trong những năm gần đây, tình hình dường như có xu hướng ngược
lại, lễ hội phát triển ồ ạt, không được định hướng một cách có tổ chức, khoa

học và nhiều yếu tố ngoại lai đã xuất hiện trong lễ hội. Các nhà quản lý văn
hóa đã nhận thức rõ hơn về lễ hội và coi lễ hội là nhu cầu thực sự, khách
quan của nhân dân; nhu cầu này cần phải được thoả mãn một cách chính
đáng. Tuy nhiên, họ lại phải đứng trước một tình huống quản lý không hề
đơn giản: không thể đưa ra những quyết định cấm như thời kỳ trước đây,
1
nhưng cũng chưa thể đưa ra những quyết định khác có thể định hướng, điều
chỉnh tình trạng phát triển ồ ạt của lễ hội hiện nay.
Văn hoá của người Cao Lan ở Tuyên Quang, trong đó có lễ hội truyền
thống đã có từ lâu đời, trở thành một bộ phận không thể tách rời của văn hoá
các dân tộc ở Việt Nam. Những giá trị văn hoá trong lễ hội đã hình thành
nên cốt cách tình cảm, diện mạo của cộng đồng người Cao Lan. Những lễ
hội ấy được lưu truyền từ đời này sang đời khác, trải qua những thăng trầm
biến động của lịch sử, được chắt lọc, bổ sung trở thành bản sắc văn hoá rất
riêng của người Cao Lan. Việc nhận diện đầy đủ và nghiên cứu chuyên sâu,
có hệ thống về lễ hội truyền thống của người Cao Lan ở Tuyên Quang sẽ
góp phần làm cho bản sắc văn hoá Việt Nam càng thêm rõ nét “đa dạng và
thống nhất, thống nhất trong đa dạng”.
Thông qua việc nghiên cứu lễ hội truyền thống của người Cao Lan ở
Tuyên Quang, luận án còn cung cấp những luận cứ khoa học, giúp các cấp
chính quyền địa phương nhận rõ những giá trị đích thực của nó để có hướng
bảo tồn, kế thừa và phát huy một cách phù hợp các giá trị văn hoá truyền
thống nhằm phục vụ việc xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh ở cơ sở.
Đồng thời góp phần vào việc xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn Lễ hội truyền thống của người
Cao Lan ở tỉnh Tuyên Quang làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học văn hoá
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu

- Trên cơ sở tập hợp, khảo tả và phân tích các tư liệu, luận án tập trung
làm rõ những đặc điểm cùng những giá trị văn hoá trong lễ hội truyền thống
của người Cao Lan.
2
- Chỉ ra những biến đổi của lễ hội truyền thống của người Cao Lan
trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá với các tộc người khác cùng cư
trú trong vùng.
- Bước đầu so sánh những tương đồng và khác biệt trong lễ hội truyền
thống của người Cao Lan giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh Tuyên Quang.
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống, đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống Cao Lan
trong bối cảnh phát triển và hội nhập.
3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
- Luận án đi sâu tìm hiểu các loại hình lễ hội, những biến đổi của lễ hội
truyền thống của người Cao Lan ở một số địa phương trong tỉnh Tuyên Quang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi nghiên cứu là lễ hội truyền thống của người Cao Lan ở
Tuyên Quang, trong đó chú trọng nghiên cứu bối cảnh không gian, diễn biến
và những biến đổi của lễ hội. Nghiên cứu lễ hội theo lịch đại và đồng đại để
thấy rõ những nét đặc trưng, các giá trị văn hoá, xã hội của lễ hội cả trong
truyền thống và hiện nay.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Luận án chọn địa bàn nghiên cứu chính là tỉnh Tuyên Quang. Vì Tuyên
Quang là tỉnh có người Cao Lan cư trú đông nhất trong cả nước và nhiều lễ
hội truyền thống của người Cao Lan vẫn còn duy trì cho đến ngày nay.
Nghiên cứu được tập trung thực hiện tại hai huyện có người Cao Lan
cư trú tập trung nhất: Yên Sơn và Sơn Dương.
- Huyện Yên Sơn

+ Làng Giếng Tanh, xã Kim Phú: Làng Giếng Tanh, nơi có lễ hội đình
Giếng Tanh nổi tiếng của người Cao Lan vẫn được duy trì cho đến ngày
nay.
Địa bàn nghiên cứu chủ yếu của luận án là làng Giếng Tanh, xã Kim
Phú. Xã Kim Phú có số dân là 8.250 người, với 1.970 hộ trong đó người
3
Cao Lan là 6.325 người, chiếm gần 12% so với tổng số 54.095 người Cao
Lan có mặt tại Tuyên Quang. Người Cao Lan ở Kim Phú sống thành từng
thôn, cả xã có 22 thôn, trong đó một số thôn chủ yếu là người Cao Lan, rất ít
các dân tộc khác sống xen kẽ. Mặc dù chỉ cách thành phố Tuyên Quang
7km, nhưng Kim Phú không bị ảnh hưởng của lối sống đô thị. Kim Phú
được coi là nơi đầu tiên người Cao Lan đến sinh sống ở Tuyên Quang và
làng Giếng Tanh được coi là nơi đầu tiên người Cao Lan đặt chân đến
Tuyên Quang. Hiện nay, 100% các gia đình trong làng đều là người Cao
Lan và lễ hội ở đình làng Giếng Tanh luôn thu hút được đông đảo người Cao
Lan và các dân tộc khác trong vùng đến dự.
+ Làng Minh Cầm, xã Đội Bình: Làng Minh Cầm với lễ hội đình làng
Thiên Cầm đang có xu hướng được phục hồi và phát triển.
Làng Minh Cầm, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn cách thành phố Tuyên
Quang 15 km về hướng Tây – Nam, có dân số 7.639 người, chủ yếu là
người Kinh và người Cao Lan. Người Cao Lan có 1.864 người, cư trú tập
trung tại 3 làng, kinh tế chủ yếu là làm nông nghiệp. Làng Minh Cầm hiện
nay vẫn còn lưu giữ được đình làng và các lễ hội đình làng truyền thống của
người Cao Lan.
- Huyện Sơn Dương
+ Làng Mãn Hóa, xã Đại Phú: Trên địa bàn làng Mãn Hoá, lễ hội đình
làng đã từng diễn ra trong lịch sử, nhưng từ sau năm 1975, do nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan, lễ hội đình làng Mãn Hoá không được duy trì cho
đến ngày nay.
Xã Đại Phú, huyện Sơn Dương cũng là địa bàn cư trú lâu đời của

người Cao Lan. Mặc dù các lễ hội truyền thống không còn được tổ chức như
ở làng Giếng Tanh, xã Kim Phú, nhưng người Cao Lan ở Đại Phú vẫn giữ
được nhiều nét đặc trưng trong phong tục tập quán. Dân số của xã là 10.014
người, trong đó người Cao Lan có 6.550 người. Xã Đại Phú tuy không còn
4
đình làng nhưng nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Cao Lan
vẫn còn được lưu giữ.
Ngoài Tuyên Quang, Luận án còn nghiên cứu lễ hội của người Cao Lan ở
làng Ngọc Tân, xã Ngọc Quang, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ và xã
Quang Yên, huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phúc.
Làng Ngọc Tân với 100% người Cao Lan, nằm cách Quốc lộ 70 đi
Yên Bái 2km. Làng vẫn còn giữ được ngôi đình được xây dựng từ năm
1880. Lễ hội đình làng Ngọc Tân vẫn được tổ chức hàng năm. Nhiều phong
tục tập quán của người Cao Lan ở Ngọc Tân vẫn còn được duy trì.
- Quang Yên là xã miền núi của huyện Sông Lô, giáp huyện Sơn
Dương của tỉnh Tuyên Quang. Người Cao Lan ở Quang Yên có 370 hộ,
1450 nhân khẩu, chiếm 25% dân số toàn xã, cư trú tập trung ở 4 thôn: Xóm
Mới (Bản Mo), Đồng Dong, Đồng Dạ, Đồng Găng. Hoạt động kinh tế chủ
yếu của người Cao Lan là làm nông nghiệp. Đình của người Cao Lan chỉ
còn ở thôn Xóm Mới thờ Thành hoàng làng làng và 5 vị tướng. Các sinh
hoạt truyền thống của người Cao Lan trong vùng chủ yếu vẫn diễn ra ở đình
làng Xóm Mới.
4. Nguồn tư liệu của luận án
Nguồn tư liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là tài liệu điền dã do tác
giả luận án thu thập tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả đã kế thừa một phần nội
dung luận văn Thạc sĩ đã hoàn thành từ năm 2003. Trong thời gian thực hiện
luận án, tác giả đã tiến hành khảo sát nhiều đợt, ở nhiều địa bàn khác nhau
để tìm hiểu, nghiên cứu về lễ hội của người Cao Lan tại các địa phương của
tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng các nguồn tài liệu thứ cấp

như các văn bản về chủ trương, chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa của lễ hội truyền thống; các số liệu thống kê của Trung ương và địa
phương; các tài liệu về kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, tác
5
giả còn thừa kế kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về dân tộc Sán
Chay và người Cao Lan đã công bố.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về lễ hội truyền thống
của người Cao Lan nhằm góp phần làm rõ diện mạo và sắc thái văn hoá địa
phương của người Cao Lan ở tỉnh Tuyên Quang.
- Luận án bước đầu xác định những đặc trưng cơ bản trong lễ hội
truyền thống của người Cao Lan cũng như những biến đổi của nó, từ đó rút
ra những giá trị văn hóa của lễ hội và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
- Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính
sách nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội
của người Cao Lan phục vụ công cuộc phát triển hiện nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có 4
chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phương
pháp nghiên cứu và khái quát về người Cao Lan
Chương 2: Các lễ hội ở đình và ngoài đình của người Cao Lan
Chương 3: Phát huy vai trò của lễ hội truyền thống người Cao Lan ở
Tuyên Quang trong bối cảnh mới
Chương 4: Kết quả và bàn luận
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KHÁT
QUÁT VỀ NGƯỜI CAO LAN
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1.Tổng quan nghiên cứu về người Cao Lan ở Việt Nam
1.1.1.1. Các nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử tộc người
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu khẳng định về nguồn gốc của người
Cao Lan là ở Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc. Nhưng người Cao
Lan có nguồn gốc từ nhóm tộc người nào ở Trung Quốc là vấn đề đã được
đặt ra lâu nay và cần phải tiếp tục nghiên cứu. Trong cuốn Kiến văn tiểu lục
của Lê Quý Đôn, khi viết về xứ Tuyên Quang trong phần Về các giống
người, ông coi Cao Lan và Sơn Tử là 2 trong 7 chủng tộc Man [37, 1962,
tr.393]. Cũng theo quan điểm này, Sách Đại Nam nhất thống chí, khi đề cập
đến người Sơn Tử, Cao Lan cũng được coi như những nhóm Mán khác, khi
viết về Cao Lan cũng coi họ như những nhóm Mán Sơn Man, Mán Đại Bản,
Mán Đeo Tiền. Ở mục “Phong tục tỉnh Hưng Hóa” có chép: “Châu Thủy Vĩ
có 3 giống Mán: Mán Sơn Tử, Mán Dao và Mán Gứng” [71, tr.15, 163, 298,
299].
Trong một tư liệu khác như Phong thổ ký Tuyên Quang, Vĩnh Yên,
Quảng Yên, Thái Nguyên (Minh đô sử) đều coi Cao Lan là Mán như Mán
Sơn Đầu, Mán Quần Trắng, Mán Quần Đen, Mán Đại Bản [67].
Các tác giả người Pháp cũng xếp Cao Lan vào các nhóm Mán và coi
Cao Lan như một ngành của Mán, gọi là Mán Cao Lan [9].
Theo những tài liệu do người Cao Lan cung cấp, tổ tiên của họ trước
đây ở vùng Tây Hương Sơn, thuộc tỉnh Quảng Đông. Từ thời Minh, họ rời
bỏ quê hương đi đến Quảng Tây, từ Nam Ninh đi vào Việt Nam. Họ sinh cơ
lập nghiệp ở Sơn Dương được khoảng 4 đời, một trong những việc đưa cho
7
xem văn bằng do viên tri huyện đương đạo cấp, có đóng dấu của viên quan
lại này, cho phép người Cao Lan làm ăn ở địa phương. Văn bằng này đề
năm Quang Trung thứ 4 (tức năm 1791).

Như vậy, các tác giả thời phong kiến cũng như thời thuộc Pháp đều
cho Cao Lan thuộc các nhóm Mán. Cho tới những năm của thập niên 50, 60,
và đầu 70 của thế kỷ trước, một số tác giả như Bùi Đình, Nguyễn Trắc Dĩ…
vẫn dựa vào những ghi chép trên mà cho rằng Cao Lan cũng là Mán như các
nhóm Mán khác [35].
Gần với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu dân tộc học Lã Văn
Lô, Lê Văn lại không cho rằng người Cao Lan hiện tại thuộc nhóm
Mán, song trước kia có thể cùng một nguồn gốc với người Mán. Để
chứng minh cho quan điểm Cao Lan có nguồn gốc Hán, Lã Văn Lô có
những kiến giải, có thể tóm tắt như sau: Người Cao Lan, một mặt tiếp
thu những kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất tiên tiến, mặt khác vẫn
tiếp tục làm thêm một số nương rẫy theo phương pháp nguyên thủy
của người Mán. Người Cao Lan ở nhà sàn như người Tày, người
Nùng, khác với các Mán khác ở nhà đất hoặc nửa sàn nửa đất, nhưng
bố trí bên trong nhà Cao Lan vẫn tương tự như nhà người Mán, giữa
các gian không mấy khi có vách ngăn cách. Mặt khác nhà Cao Lan ít
nhiều vẫn mang tính chất nhà ngoãm, cột kèo đục lắp sơ sài, ít nhiều
vẫn mang tính tạm bợ như nhà người Mán.
Về ăn mặc, phụ nữ Cao Lan ăn mặc như phụ nữ Tày, duy có
chiếc khăn của họ thì quấn giống như kiểu khăn của phụ nữ Mán và
tóc búi ra đằng sau gáy khác với cách vấn tóc của phụ nữ Tày. Bên
cạnh đó người già còn giữ được những chiếc áo thêu kiểu cổ mặc
trong những ngày lễ trông tựa như áo phụ nữ Mán Thanh Y. Có người
còn giữ được những chiếc yếm hồng có cài ngôi sao bạc chín cánh
giống chiếc yếm của phụ nữ Mán Sơn Đầu. Phụ nữ Cao Lan ăn mặc
theo kiểu người Tày nhưng vẫn giữ được một số đặc điểm của phục
sức phụ nữ Mán.
8
Về ngôn ngữ, tiếng nói của người Cao Lan khác hẳn tiếng nói
của người Mán; tiếng Cao Lan và tiếng Tày trên căn bản giống nhau

khi làm thơ hay hát, họ dùng chữ Hán, phát âm theo một thứ thổ ngữ
Quảng Đông, y hệt tiếng nói của người Sán Chấy.
Về một số tín ngưỡng và tục thờ cúng, người Cao Lan có nhiều
điểm giống người Mán, họ đều có truyền thuyết về Bàn Hoành (tiếng
Mán gọi là Pàn hù, tiếng Cao Lan gọi là Piên hú). Người Mán và
người Cao Lan đều có tục kiêng ăn thit chó – con vật tổ của thị tộc từ
những thời đại xa xăm trong lịch sử. Tuy nhiên đối với người Cao Lan
thì truyền thuyết Bàn Hoành đã phai mờ trong trí nhớ, không mấy ai
nhắc đến nữa.
Người Mán và người Cao Lan đều có tục mỗi khi có người
chết, làm lễ đưa hồn về Dương Châu (tỉnh Giang Tô, Trung Quốc).
Lối thờ cúng của họ cũng tương tự nhau, không có bàn thờ tổ tiên, mà
tùy từng họ, chọn một số vị thần lấy trong Phật giáo và Lão giáo thờ
trong nhà để phù hộ gia đình, chống ma tà quỷ quái [56].
Trong các nghiên cứu trước đây, có khá nhiều ý kiến cho rằng người
Cao Lan vốn là nguồn gốc Mán, nhưng do sống lâu đời xen kẽ với khối Tày
– Nùng, đã tiếp thu ngôn ngữ, tập quán sinh hoạt và sản xuất của người Tày
– Nùng, quên hẳn tiếng mẹ đẻ của mình, chỉ còn giữ lại một số tín ngưỡng,
tập tục cũ chung với người Mán.
Khác với quan điểm cho Cao Lan thuộc các nhóm Mán hoặc có
nguồn gốc Mán, một số nhà nghiên cứu lại có những bài viết phản bác lại
quan điểm trên. Chu Quang Trứ cho rằng người Cao Lan ngày nay không
phải là một ngành của người Mán mà là một “tộc” người khác hẳn dân tộc
Mán [102, 1964]. Tác giả Nguyễn Nam Tiến đã có nhiều bài viết tương đối
toàn diện từ nguồn gốc lịch sử, quá trình di chuyển cư đến những vấn đề
kinh tế, xã hội, văn hoá của người Cao Lan và Sán Chí và trình bày chung
cho cả hai nhóm [84, 85]. Do vậy, trong danh mục thành phần các dân tộc ít
người ở Việt Nam năm 1979, Cao Lan và Sán Chí được xếp chung vào dân
9
tộc Sán Chay. Cũng có ý kiến khác cho rằng, người Cao Lan có một lịch sử

tộc người riêng biệt, lâu đời [65; 75].
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học đã rất
quan tâm tới việc xác định thành phần dân tộc của người Cao Lan. Câu hỏi
được đặt ra là: Người Cao Lan và Sán Chí có phải là một dân tộc? Kết quả
thảo luận về tộc danh của người Cao Lan đã đi đến thống nhất, “mặc dù giữa
hai nhóm Cao Lan và Sán Chí có những nét tương đồng, nhất là giữa Cao
Lan ở Sơn Dương, Tuyên Quang và nhóm Sán Chí ở Đại Từ, Thái Nguyên,
nhưng nhìn chung sự khác biệt giữa họ là rất đáng kể, vì vậy xếp họ thành
hai dân tộc thuộc hai hệ ngôn ngữ khác nhau có lẽ chỉ còn là vấn đề thời
gian” [32, tr.60, 61].
1.1.1.2. Những nghiên cứu về văn hóa của người Cao Lan ở Việt Nam
Một số công trình mô tả về nhà ở, trang phục và các công cụ sản xuất,
công cụ vận chuyển của người Cao Lan. Trong đó, các tác giả đều khẳng
định, xưa kia người Cao Lan thường ở nhà sàn. Nhà sàn Cao Lan ra đời và
tồn tại trong điều kiện mà họ đã thích ứng với những điều kiện thiên nhiên.
Cư trú ở gần các khu rừng với rất nhiều gỗ, tre, nứa, lá dồi dào là những
nguyên vật liệu tốt để dựng nhà sàn. Ngôi nhà là nơi tiềm ẩn những giá trị
văn hóa tốt đẹp của người Cao Lan nay đã hầu như thay đổi về cả hình thức
lẫn kết cấu. Cùng với sự thay đổi đó thì nhiều giá trị văn hóa đã mất đi.
Trong truyền thống, nhà của người Cao Lan là nhà sàn, vài chục năm trước
đây một số chuyển sang nhà đất và hiện nay nhiều nơi đã chuyển sang ở nhà
xây gạch mái ngói theo lối kiến trúc nhà ở của người Kinh. Do đó, vấn đề
giữ gìn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là rất cần thiết mà trong đó những
yếu tố mang tính văn hóa lạ càng không thể thiếu được [65; 29; 75].
Một số công trình đã đi sâu nghiên cứu về trang phục truyền thống
của người Cao Lan. Từ các công đoạn trồng bông, dệt vải đến kỹ thuật cắt
may trang phục truyền thống, làm thành nét đẹp truyền thống đặc trưng của
đồng bào Cao Lan. Cũng như hầu hết các dân tộc, trang phục của nữ Cao
Lan phong phú hơn nam và họ rất yêu thích đồ trang sức bằng bạc. Họ có
nhiều loại trang sức được chế tác tinh vi như khuyên tai, vòng cổ, vòng tay,

10
xà tích… Trang phục truyền thống của người Cao Lan gồm có: Quần áo
mặc thường ngày và quần áo mặc trong những ngày lễ tết. Tuy nhiên trong
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, xu hướng hội nhập diễn ra ngày càng
mạnh, người Cao Lan không nằm ngoài xu hướng đó. Ngày nay khó có thể
phân biệt người Cao Lan với dân tộc khác nếu căn cứ vào trang phục. Vì
trong vòng 20 - 30 năm trở lại đây, trang phục cổ truyền dần được thay thế
bằng những loại quần áo tiện dụng, dễ mua sắm hơn. Việc khôi phục những
quần áo truyền thống của người Cao Lan đang là vấn đề cần tiến hành để
bảo lưu truyền thống trang phục, nhằm giữ gìn một bản sắc văn hóa Cao Lan
[65].
Về văn hoá tinh thần, đã có một số công trình khảo cứu, trong đó có
nghiên cứu về tôn giáo – tín ngưỡng và một số phong tục tập quán của
người Cao Lan. Người Cao Lan quan niệm rằng, lực lượng thế giới siêu
nhiên rất phức tạp và có quan hệ chặt chẽ với đời sống của con người.
Người Cao Lan cho rằng thế giới có 3 tầng: Tầng trên cùng là tầng trời, ở đó
có các vị thần có uy quyền hơn cả Ngọc Hoàng. Tầng thứ hai (tầng giữa) là
mặt đất, tầng này bao chứa cuộc sống hiện tại của muôn loài. Tầng thứ ba là
tầng âm phủ, nơi cư ngụ của các sinh linh đã lìa bỏ trần thế. Cũng như
thuyết luân hồi của đạo Phật, người Cao Lan cho rằng người chết không
phải là hết mà chuyển từ kiếp này sang kiếp khác, và cuối cùng là trở về
kiếp người.
Người Cao Lan ở vùng nào cũng có những bộ sách cúng, sách xem
nhà, ma chay, cưới gả… và những bộ tranh thờ Thần Phật trong ngày lễ tết,
cúng bái. Người Cao Lan không hẳn đi theo tôn giáo nào. Họ chắt lọc những
điều tinh túy trong đạo Nho, đạo Giáo và đạo Phật phù hợp với quan niệm
tâm linh của họ mà sử dụng. Trên thực tế người Cao Lan ở Việt Nam không
có đền, chùa thờ Thần Phật, song họ có đình làng và miếu thờ thần linh.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu mô tả các phong tục tập quán
truyền thống của người Cao Lan. Đáng chú ý là các công trình như: Dân tộc

Sán Chay ở Việt Nam, Văn hoá Cao Lan… Trong đó, các tác giả đi sâu mô
tả các nghi lễ trong chu kỳ đời người như: Nghi lễ sinh đẻ, cưới xin, tang ma
11
[65; 29; 75]. Những phong tục, tập quán thông qua cưới xin, ma chay của
người Cao Lan là những di sản văn hóa dân gian mang đậm bản sắc riêng và
giữ vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của mỗi thành viên và cộng
đồng, tạo nên đặc điểm riêng độc đáo về truyền thống văn hóa Cao Lan. Tìm
hiểu các phong tục, tập quán của người Cao Lan, chúng ta có thêm hiểu biết
một cách khoa học về lễ hội truyền thống của người Cao Lan đã được hình
thành trên “cái nền” của phong tục, tập quán cổ truyền. Những phong tục,
tập quán ấy đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến các hình thức và nội dung
của lễ hội và chính nó đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của người
Cao Lan [96].
Văn nghệ dân gian của người Cao Lan là nội dung được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm nhất. Trong các công trình nghiên cứu đã thể hiện rất
rõ, người Cao Lan có kho tàng văn nghệ dân gian rất phong phú và đa dạng.
Truyện kể dân gian, thơ ca, hò, vè của người Cao Lan phổ biến rộng rãi về
các đề tài đấu tranh với thiên nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ xã hội
và gia đình, thể hiện ước vọng của đồng bào trong tình yêu, chinh phục thiên
nhiên, ca ngợi chính nghĩa, đấu tranh chống lại cái ác nhằm có được cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Xưa kia trong các ngày lễ, ngày tết, ngày cưới
thường tổ chức hát Sình ca. Từ người già đến trẻ con, ai ai cũng đều mê say
bởi nó không chỉ bao gồm những bài hát giao duyên của trai gái mà còn có
nhiều bài hát ca ngợi sản xuất, hát về 4 mùa 12 tháng, những bài hát phụng
thờ Thổ công, thần Nông, hát mừng nhà mới, hát ru con, hát đền ơn cha mẹ,
hát đố, hát ghẹo và người Cao Lan gọi đó là “Sình ca” [75; 96].
- Sình ca Thsao bạo (hát đối đáp giao duyên) : Nội dung những bài
Sình ca này thường là mượn cảnh thiên nhiên để hát về nhau. Họ trao đổi
tâm tình với nhau, yêu thương, nhớ nhung, trách móc, giận hờn để rồi sau
những cuộc hát ấy họ thấy gần gũi với nhau hơn. Trong các loại Sình ca của

người Cao Lan thì Sình ca kên láu là thể loại vui nhộn và rất phong phú về
số lượng bài. Sình ca tò tàn cũng bao gồm những bài hát có sẵn và một số
bài do đồng bào tự nghĩ ra để đố nhau giải nghĩa. Đây cũng thuộc loại Sình
ca vui vẻ đòi hỏi người hát phải học thuộc những gì có sẵn và thật thông
12
minh để nghĩ ra rồi đặt lời cho những câu đố và câu trả lời [ 65, tr.470, 473,
474 ].
Hát dân ca của người Cao Lan là một kho tàng di sản văn hóa vô cùng
phong phú, đa dạng và có giá trị cao về nghệ thuật. Với các loại Sình ca
trên, người Cao Lan có thể hát ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh mỗi
khi có điều kiện. Những di sản văn hóa này cần được sưu tầm, nghiên cứu
để bảo tồn những giá trị truyền thống và có hướng để phát huy, bảo tồn và
phát triển.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về lễ hội và lễ hội của người Cao Lan
Nghiên cứu lễ hội được tiếp cận từ những góc độ khác nhau. Các nhà
dân tộc học/nhân học, văn hoá học đã dành nhiều thời gian, tâm huyết
nghiên cứu về lễ hội. Nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu, miêu
tả chi tiết, tỉ mỉ và đề cao các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống. Đáng
chú ý là công trình nghiên cứu tổng hợp đầu tiên mang tiêu đề Nếp cũ [ 3 ]
đã giới thiệu các lễ hội của các dân tộc ở Việt Nam; các lễ hội cổ truyền của
người Việt đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm như: Cao Huy Đỉnh, Trần Quốc Vượng, Đinh Gia Khánh, Vũ
Ngọc Khánh, ; lễ hội cổ truyền của một số dân tộc thiểu số được mô tả chi
tiết từ vị trí, vai trò của lễ hội tới các vấn đề về lịch sử, ý nghĩa giá trị xã hội
và văn hoá của lễ hội [117]. Công trình “Lễ hội truyền thống trong đời sống
xã hội hiện đại” [46] đã đưa ra những tổng kết bước đầu về mặt lý luận
nghiên cứu về lễ hội ở nước ta, trong đó có nhấn mạnh đến vai trò và giá trị
của lễ hội trong cuộc sống đương đại.
Hiện nay, người ta sử dụng thuật ngữ lễ hội phổ biến hơn và bắt đầu
từ công trình nghiên cứu “Lễ hội cổ truyền” do Lê Trung Vũ chủ biên.

Cuốn sách này cung cấp cho chúng ta những nghiên cứu về các lễ hội theo
phương pháp của các trường Đại học tại Liên Xô, tách phần lễ và hội ra với
những “hành động hội”, “kịch bản hội” theo mô hình các lễ hội quần chúng
[115]. Cách nhìn nhận ấy có ảnh hưởng không nhỏ tới giới hoạt động và
nghiên cứu văn hóa trong một thời gian dài cho đến tận bây giờ. Nó khác
với các quan niệm về văn hóa đơn thuần, lễ hội đơn thuần ở chỗ là nhằm
13
cho ta thấy ý nghĩ lớn lao của lễ hội “đưa quá khứ hội nhập vào hiện tại, qui
tụ toàn bộ năng lượng của vũ trụ, của không gian và thời gian đậm đặc năng
lượng thiêng mà con người đi dự hội có nguyện vọng tắm mình trong đó, để
sau đó họ là một con người khác đáp ứng cho năm mới, mùa mới” [81].
Về vai trò, chức năng của lễ hội, một số công trình lại thiên về các
yếu tố tác động tới lễ hội, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế thị trường
và các chủ trương, chính sách phát triển lễ hội của Đảng và Nhà nước [59]
hay các giá trị của lễ hội trong đời sống hiện nay [39; 60].
“Lễ hội gồm hai phần vừa tách rời vừa không tách rời nhau”, đó là
nhận định mang cả ý nghĩa thực tiễn và lý luận. Lễ hội xoắn xuýt hữu cơ vào
nhau, không thể tách rời [118]. Do đó, nếu không xem xét lễ hội ở góc độ
như thế sẽ rất thiếu sót và dễ làm thô thiển hóa ý nghĩa đích thực của lễ hội.
Nhưng cho dù là lễ hội hay hội lễ thì khi nghiên cứu cũng không thể phủ
nhận rằng hai phần lễ và hội của nó là một chỉnh thể nguyên hợp [58].
Lễ hội truyền thống là một loại hình văn hóa, có thể nói là một loại
tác phẩm văn hóa của tộc người, là nhu cầu không thể thiếu được trong tư
duy, trong đời sống tinh thần của nhân dân, nhất là của nông dân trong xã
hội nông nghiệp. Chính vì vậy, lễ hội từ góc độ xã hội học nói theo Emily
Durkheim đã trở thành một hiện tượng xã hội, hay nói theo Mac Vayber, là
một hành động xã hội có ý nghĩa xã hội học cực kỳ rộng lớn.
“Trong hội thường có nhiều trò vui gọi là bách hí. Tuy nhiên, để dân
chúng mua vui, nhưng mục đích của hội hè đình đám không phải chỉ có thế,
và mua vui cho dân chúng cũng không phải là mục đích đầu tiên của hội hè.

Có thể nói được rằng, mục đích đầu tiên của hội hè đình đám là để dân làng
bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với Đức Thành hoàng làng, thần linh
coi sóc che chở cho dân làng” [3].
Cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam là nước có nhiều lễ hội
dân gian với các hình thức sinh hoạt cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi tín
ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của một
cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào
những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập
14
quán của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa Xuân.
Theo một số nhà khoa học phương Tây, khi nghiên cứu về lễ hội ở Việt
Nam, họ đã liệt kê sơ bộ các lễ hội trong một năm và những ngày lễ hội đó
chiếm khoảng 72 ngày, tương đương với khoảng 1/5 thời gian của một năm.
Và theo con số thống kê từ nguồn của Cục Văn hóa thông tin cơ sở (Ban nếp
sống mới TƯ) mà chúng tôi có được cho biết, toàn Việt Nam có 8.902 lễ
hội. Trong đó có: 25 lễ hội du nhập từ nước ngoài, 7.005 lễ hội dân gian,
1.399 lễ hội tôn giáo, 409 lễ hội lịch sử cách mạng, 64 lễ hội khác [18].
Chính bởi chiếm một lượng thời gian lớn, số lượng lớn cùng với nhiều hoạt
động mang tính xã hội phong phú, lễ hội có tác động mạnh mẽ đến cấu trúc
xã hội.
Về cơ bản thì lễ hội mang những tác động tích cực. Nhiều nhà nghiên
cứu đã coi lễ hội như là một nhân tố tạo ra sự thư giãn tinh thần, là sự biểu
hiện cách ứng xử văn hóa với thiên nhiên, với thần thánh và nhất là với
cộng đồng xã hội. Mỗi con người, khi tham gia vào các hoạt động, dù là
tham gia trực diện vào lễ hay chỉ là người dự hội bình thường đều tìm thấy
sự hồn nhiên, hưng phấn nghệ thuật, những xúc cảm chất phác ngây thơ.
Nhờ không khí vừa linh thiêng, nghiêm trang vừa vui vẻ, thân ái của ngày
hội mà mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội, mỗi cộng đồng giảm nhẹ hoặc cởi bỏ
được những quẫn bách, thậm chí đôi lúc là những mâu thuẫn, xung đột của
đời sống thường nhật trong xã hội nông nghiệp đầy ngưng đọng. Trên tinh

thần ấy, có thể nói, các giá trị văn hóa của lễ hội có tác dụng điều chỉnh các
quan hệ xã hội nơi làng xã từ ngàn đời nay.
Lễ hội còn được coi là những “nguồn sữa mẹ” nuôi dưỡng các loại
hình nghệ thuật. Lễ hội hỗn dung các tầng văn hóa của tộc người và các yếu
tố văn hóa của tộc người trong tiến trình lịch sử. Lễ hội đã bảo lưu, nuôi
dưỡng và phát triển nhiều truyền thống văn hóa của cộng đồng các làng xã.
Lễ hội còn là chỗ dựa tinh thần cho người nông dân, thể hiện quan niệm đối
với cái đẹp và hát vọng vươn lên cái đẹp của họ [41].
Hơn nữa lễ hội có ba chức năng lớn :
15
- Chức năng tín ngưỡng: Mọi người dự hội được an ủi tinh thần,
thỏa mãn tâm linh cầu người an, vật thỉnh…
- Chức năng mua vui: Công chúng được hưởng thụ văn hóa nghệ
thuật, được thỏa mãn sức hoan tiếu cuồng nhiệt…
- Chức năng kinh tế: Lễ hội là nơi thu hút hoạt động giao thương,
trao đổi hàng hóa, sản vật địa phương, giữa các thôn làng với các
thị trấn, làm phồn vinh kinh tế thành thị. Cần hiểu thêm rằng, chợ
hội / hội chợ lúc nguyên sơ chỉ đơn giản như một dịch vụ để phục
vụ thiện nam tín nữ, thí chủ mười phương, nông dân thôn quê tới
thành thị dự lễ hội tiện mua đồ ăn thức uống, mua sắm những vật
dụng cần thiết, rẻ tiền.
Ở một góc độ khác, một số công trình nghiên cứu về góc độ kinh tế và
sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội, trong đó đáng chú ý là công
trình “Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng”. Trong
nghiên cứu này, tác giả cho rằng cho đến khi Đổi mới, đời sống ngày càng
khấm khá, kinh tế phát triển, đời sống văn hóa được cải thiện, nhu cầu văn
hóa tăng lên. Cùng với việc xây dựng các đình, chùa, miếu là việc khôi phục
lại các lễ hội làng vốn bao lâu nay bị quên lãng. Lễ hội làng được tổ chức để
xác định lại vị trí của di tích trở lại hình bóng xưa của văn hóa làng. Lễ hội
đã làm hồi sinh ý thức trở lại cội nguồn, nhiều giá trị văn hóa tộc người

được tìm kiếm, chắp nhật cho con cháu trong bối cảnh kinh tế thị trường. Lễ
hội cũng tạo ra nguồn lợi kinh tế to lớn đối với cộng đồng làng, tạo việc làm
cho dân làng. Tuy nhiên, những mặt trái của kinh tế thị trường cũng được
biểu hiện rõ nét trong lễ hội hiện nay [59, tr.8, 10, 380, 382].
Cho đến nay, các nghiên cứu về lễ hội truyền thống của người Cao
Lan chưa có nhiều và phần lớn chỉ là các phần viết sơ lược trong các công
trình chuyên khảo về văn hoá truyền thống của người Cao Lan. Các nghiên
cứu này ở những mức độ khác nhau đều có nhắc đến vai trò của đình làng
trong đời sống xã hội của người Cao Lan.
16
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
- Lễ
Lễ là các nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt cộng đồng [41]. Hoặc
Lễ là nghi lễ liên quan đến tôn giáo, là các hành vi cúng tế thần thánh, phật,
tổ tiên và các hiện tượng tín ngưỡng nhằm cầu phúc, cầu may mắn, được
mùa, Lễ bao quát mọi nghi thức ứng xử của một xã hội, là hệ thống hành
vi, động tác biểu hiện lòng tôn kính của con người với thần linh, phản ảnh
ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có
khả năng thực hiện được [38].
Trong cuộc sống hàng này, người ta thường nói đến “lễ” như những
phép ứng xử giữa con người với con người và giữa con người với môi
trường xung quanh [59, tr.34]. Các nhà nghiên cứu Việt Nam dùng thuật
ngữ nói trên để chỉ “những cách thức ứng xử được thể chế hoá, cố định
thành trật tự, thể hiện nhận thức của cộng đồng về mối quan hệ giữa con
người và các đấng siêu nhân, giữa con người và con người” [96].
Trong Từ điển Dân tộc học và Nhân học [97, tr. 632-634], nghi lễ
(rituel) - tức lễ, được định nghĩa như sự đáp ứng của văn hoá và xã hội
trước đòi hỏi của một hoàn cảnh phát sinh trong những điều kiện nhất định,
được thực hiện dưới những thực hành xã hội mang tính thủ tục (procédure),

và có ý nghĩa biểu tượng.
Như vậy có thể hiểu rằng, nghi lễ là những nghi thức thực hành theo
các quy tắc, luật tục nhất định mang tính xã hội, biểu tượng để ghi dấu, kỷ
niệm một nhân vật, sự kiện nào đó nhằm mục đích cảm tạ, ước nguyện, tôn
vinh về nhân vật, sự kiện đó với mong muốn nhận được sự tốt lành, may
mắn, nhận được sự trợ giúp từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ
phụng.
Các hoạt động của lễ quy định chi tiết về thái độ, cử chỉ bên ngoài, tạo
điều kiện hình thành một trạng thái tinh thần tương ứng bên trong của những
người thực hiện nghi lễ. Lễ là một phương tiện đắc lực để sửa mình, lễ còn
gắn liền với nhạc. Nói đến lễ là nói đến một hệ thống nghi thức mang tính
17
biểu tượng nhằm biểu hiện lòng tôn kính của cộng đồng đối với thần linh và
các lực lượng siêu nhiên. Thông qua các hoạt động lễ mà con người muốn
nói lên ước vọng chính đáng của mình trước những khó khăn của cuộc sống
mà bản thân họ là những cư dân nông nghiệp chưa thể giải quyết hay đạt tới
được, họ chưa đủ khả năng chinh phục, cải tạo tự nhiên để phục vụ cho mục
đích tốt đep của cuộc sống [115].
- Hội
Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng
đồng làng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển cho cả
làng, sự bình yên cho từng cá nhân, sự hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững
mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi của gia súc, sự bội thu của mùa màng
mà từ bao đời nay đã tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ nhân khang vật
thịnh hay quốc thái dân an [115].
- Lễ hội
“Lễ hội” là một danh từ được tạo thành bởi hai thành tố có giá trị cú
pháp không tương xứng nhau. Trong đó, “lễ” được coi là danh từ, còn “hội”
chỉ đóng vai trò bổ nghĩa cho danh từ đứng liền trước nó. Dựa trên sự nhấn
mạnh một trong hai yếu tố “lễ” và “hội”, người ta có thể nói đến một Hội lễ

[41], hay ngược lại, lễ hội [96].
Theo cách hiểu thông thường, “lễ” được giải thích như những nghi
thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa
nào đó ; trong khi đó “hội” được diễn giải như “cuộc vui tổ chức cho đông
đảo người dự theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt”.
- Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là lễ hội hướng tới giá trị trong quá khứ được tôn
vinh thành linh thiêng, tổ chức theo chu kỳ và trở thành sinh hoạt truyền
thống của cộng đồng làng và liên làng. Các hoạt động của lễ hội truyền
thống tái hiện lại cuộc sống hiện thực của con người, cộng đồng làng bản
thông qua các trò chơi, trò diễn dân gian.
Ngay cả trong các văn bản pháp quy cũng có nhiều tên gọi khác nhau về
lễ, lễ hội và lễ hội truyền thống: Luật Di sản Văn hoá và các nghị định
18
92/2002/NĐ- CP ngày 11/11/2002; Nghị định số 98/2010/NĐ- CP ngày
21/9/2010 quy định đối tượng quản lý là Lễ hội truyền thống. Trong khi đó,
Nghị định số 22/2005/NĐ- CP ngày 1/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thì quy định là Lễ hội tín ngưỡng; Nghị
định số 103/2009/NĐ- CP ngày 6/11/2009 của Chính phủ ban hành quy chế
hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng lại gọi là Lễ
hội dân gian,
Có thể thấy rõ, khái niệm về lễ hội, hay hội lễ, lễ và hội cũng được bàn
luận dưới nhiều góc độ. Lễ hội hay gọi là hội lễ, danh từ hội lễ được dùng
như một thuật ngữ văn hóa. Có thể sơ bộ xác định ý nghĩa của thuật ngữ này
theo hai thành tố là hội và lễ. Hội là các nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt
cộng đồng. Lễ là các nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt ấy [49]. Hiện nay,
người ta sử dụng thuật ngữ lễ hội phổ biến hơn. Khái niệm lễ hội tín ngưỡng
được một số nhà nghiên cứu văn hoá sử dụng với nội hàm lễ hội phục dựng
lại các nghi lễ tín ngưỡng xưa của các cộng đồng làng xã [59]. Tuy nhiên,
cũng có ý kiến cho rằng nên sử dụng thuật ngữ lễ hội cổ truyền [117] hay lễ

hội dân gian [19]. Có ý kiến cho rằng, lễ hội truyền thống với nội hàm bao
quát là lễ hội được trao truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau và được duy trì
cho đến ngày nay [21]. Theo quan điểm của tác giả, khái niệm lễ hội có thể
được sử dụng khác nhau nhưng đều phản ánh một nội hàm chung nhất, đó là
những nghi lễ, hoạt động vui chơi trong truyền thống của các dân tộc ở Việt
Nam, do đó có thể sử dụng khái niệm “Lễ hội truyền thống” để bao quát tất
cả các nội dung của lễ hội, bao gồm nội dung về tín ngưỡng, tôn giáo; các
nghi thức trong sinh hoạt cộng đồng, các hoạt động vui chơi giải trí. Lễ hội
truyền thống sẽ thể hiện được cả những vấn đề về những hoạt động tín
ngưỡng mà cộng đồng thờ phụng, các hoạt động trình diễn nghệ thuật dân
gian và cả cấu trúc và không gian lễ hội. Do vậy, sử dụng thuật ngữ lễ hội
truyền thống sẽ bao quát được đầy đủ các giá trị của lễ hội và đồng thời
19

×