Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Luận văn thạc sĩ pháp luật nuôi con nuôi của người nước ngoài và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG

PHÁP LUẬT NI CON NI CỦA NƯỚC NGỒI
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1

z


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG

PHÁP LUẬT NI CON NI CỦA NƯỚC NGỒI
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bá Chiến

HÀ NỘI - 2013

2

z


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT

5

NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

1.1.

Những khái niệm cơ bản


5

1.1.1. Khái niệm "nuôi con nuôi"

5

1.1.2. Khái niệm "ni con ni có yếu tố nước ngồi"

6

1.1.3. Khái niệm "pháp luật ni con ni có yếu tố nước ngồi"

8

1.2.

Lịch sử phát triển của pháp luật ni con ni có yếu tố nước
ngồi

9

1.3.

Xung đột pháp luật trong việc ni con ni có yếu tố nước ngồi

11

1.3.1. Khái niệm


11

1.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngồi theo pháp luật các nước

13

1.3.3. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con ni có yếu
tố nước ngồi theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên

15

1.4.

Nguồn luật điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài

20

1.4.1. Các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam đã và
đang là thành viên

20

1.4.2. Các quy định cơ bản hiện hành của pháp luật Việt Nam về

21

3


z


ni con ni có yếu tố nước ngồi
1.4.3. Tập qn của pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố
nước ngồi

22

Chương 2: CƠNG Ước lahay năm 1993 và Pháp luật một số nước về ni

23

con ni có yếu tố nước ngồi

2.1.

Nội dung cơ bản của Cơng ước La Hay 1993

23

2.1.1. Lược sử Cơng ước La Hay1993

23

2.1.2. Mục đích và phạm vi áp dụng Công ước La Hay 1993

25

2.1.3. Những u cầu với việc ni con ni nước ngồi


27

2.1.4. Cơ quan Trung ương có thẩm quyền về con ni và tổ chức
được ủy nhiệm

28

2.1.5. Những yêu cầu về thủ tục cho, nhận con ni nước ngồi

29

2.1.6. Cơng nhận và hậu quả của việc nuôi con nuôi

30

2.1.7. Những quy định chung

31

2.2.

32

Khái quát về pháp luật của một số nước tiêu biểu

2.2.1. Pháp luật của Pháp

32


2.2.2. Pháp luật của Trung Quốc

35

2.2.3. Pháp luật của Tây Ban Nha

39

2.2.4. Pháp luật của Liên bang Nga

42

2.2.5. Pháp luật của Hoa Kỳ

60

Chương 3:

Pháp luật việt nam và bài học kinh nghiệm của pháp luật

68

nước ngoài cho pháp luật việt nam về ni con ni có yếu tố
nước ngồi

3.1.

Pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngồi
theo Luật Ni con ni 2010


68

3.1.1. Ngun tắc giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước ngoài

68

3.1.2. Điều kiện đối với trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi

71

4

z


3.1.3. Điều kiện đối với người xin nhận con nuôi có yếu tố nước
ngồi

72

3.1.4. Thẩm quyền, trình tự giới thiệu trẻ em làm con ni người
nước ngồi

73

3.1.5. Trách nhiệm kiểm tra, xác minh hồ sơ của trẻ em được giới
thiệu làm con ni người nước ngồi

75


3.1.6. Hệ quả pháp lý của việc ni con ni có yếu tố nước ngồi

76

3.1.7. Thơng báo tình hình phát triển của con ni

77

3.1.8. Kết quả của hoạt động nuôi con nuôi con nuôi con ni có
yếu tố nước ngồi

77

3.2.

80

Bài học kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi cho pháp luật
Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngồi

3.2.1. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Pháp

80

3.2.2. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Trung Quốc

81

3.2.3. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Tây Ban Nha


82

3.2.4. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Liên bang Nga

83

3.2.5. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật của Hoa Kỳ

84

Kết luận

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

5

z


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang


Danh sách các nước châu Á gia nhập Cơng ước La Hay

24

bảng
2.1

1993
3.1

Tình hình giải quyết ni con ni có yếu tố nước ngồi
từ ngày 01/10/2011 đến ngày 30/09/2012

6

z

79


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ni con ni có yếu tố nước ngồi khơng chỉ là quan hệ xã hội mang
đậm tính nhân văn, thể hiện tình nhân ái giữa con người với con người mà
còn là quan hệ pháp luật về hơn nhân và gia đình được quy định trong pháp
luật của đa số các quốc gia và pháp luật quốc tế.
Vấn đề nuôi con nuôi đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đã có từ lâu, nhưng thực sự được quan tâm trong những năm

gần đây, đặc biệt kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vì vấn đề này
đã vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, không chỉ là quan hệ xin - cho - nhận
con nuôi thuần túy giữa những người cùng quốc tịch, cùng nơi cư trú mà cịn
là quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Tùy theo điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội mà từng quốc
gia có những quy định, chính sách riêng về việc ni con ni nói chung và
ni con ni có yếu tố nước ngồi nói riêng nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi
của trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
Trong xu thế hội nhập khu vực, hội nhập thế giới ngày nay cùng với
sự phát triển của các quan hệ dân sự thì quan hệ ni con ni có yếu tố nước
ngoài cũng rất phát triển. Số lượng trẻ em, người lớn tham gia vào quan hệ
này ngày càng tăng. Hầu hết pháp luật của các nước đều chú trọng đến việc
bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, đặc biệt là quyền được làm con nuôi,
quyền được chăm sóc, ni dưỡng, u thương, giáo dục từ cha mẹ nuôi để
đảm bảo cho những đứa trẻ bất hạnh được phát triển tốt, được hưởng đầy đủ
các quyền của trẻ em. Bên cạnh ý nghĩa tích cực của việc ni con ni có
yếu tố nước ngồi cũng có nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề này để trục lợi cá

7

z


nhân làm mất đi tính nhân văn cao cả cũng như gây khó khăn cho hoạt động
này.
Để khắc phục những hạn chế đó, đa số pháp luật của các nước trên thế
giới đều thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực này đảm bảo quyền lợi của các bên không bị xâm phạm.
Với mong muốn nghiên cứu quy định của pháp luật một số nước tiêu
biểu trên thế giới để học hỏi và thực thi đúng đắn những kinh nghiệm quý báu

của các nước này nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ni con ni có
yếu tố nước ngồi. Vì vậy tác giả lựa chọn: "Pháp luật ni con ni của nước
ngồi và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ni con ni nói chung và ni con ni có yếu tố nước ngồi nói
riêng khơng phải là vấn đề mới lạ. Mặc dù đã có từ lâu nhưng gần đây nuôi
con nuôi mới được quan tâm, xem xét, nghiên cứu với nhiều cơng trình khoa
học, hội thảo, đề tài luận văn cử nhân, thạc sĩ, đề tài luận án tiến sĩ.
Đề tài khoa học cấp bộ: "Hồn thiện pháp luật về ni con ni có
yếu tố nước ngồi trước u cầu gia nhập Cơng ước La Hay năm 1993 về bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế", do TS. Vũ Đức
Long làm chủ nhiệm đề tài; Đề tài luận án tiến sĩ: "Pháp luật điều chỉnh quan
hệ gia đình có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập", của Nguyễn Hồng Bắc; Đề tài luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngồi hướng tới gia nhập Công
ước La Hay 1993" của Đào Thị Thu Hường; Kỷ yếu hội thảo khoa học về
nuôi con ni có yếu tố nước ngồi theo Luật ni con ni 2010 - Trường
Đại học Luật Hà Nội; ngồi ra cịn có các bài nghiên cứu về ni con ni có
yếu tố nước ngồi của giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên các
tạp chí …

8

z


Trên thực tế các quan hệ xã hội thường có trước, các quy phạm pháp
luật điều chỉnh thường có sau, theo quy luật đó quan hệ ni con ni và các
biến thể của nó phát triển ngày càng đa dạng. Vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ
dân sự này nếu chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia thì khơng đầy đủ mà cần

nghiên cứu quan hệ này theo pháp luật quốc tế, pháp luật của các nước tiêu
biểu trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm, hoàn thiện pháp luật Việt
Nam điều chỉnh quan hệ này.
3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Một là, nghiên cứu tổng quan về vấn đề ni con ni có yếu tố nước
ngồi.
Hai là, tìm hiểu các nội dung của Công ước La Hay năm 1993 về bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực ni con ni quốc tế. Phân tích, làm sáng
tỏ những quy định của pháp luật một số nước điển hình trên thế giới điều
chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Ba là, phân tích, làm sáng tỏ những quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam trên cơ sở so sánh với các quy định cũ về ni con ni có yếu tố
nước ngồi và rút ra bài học kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài cho Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích và làm sáng tỏ những quy định của Công
ước La Hay 1993, pháp luật của Pháp, pháp luật của Trung Quốc, pháp luật
của Tây Ban Nha và pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước
ngồi. Trên cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

9

z


4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước
về bảo vệ quyền lợi của trẻ em, đồng thời có sử dụng kết hợp một số phương
pháp như: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp

thống kê, phương pháp tổng hợp… để giải quyết những vấn đề mà luận án đề
cập tới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa
mang ý nghĩa thực tiễn, nhằm tìm hiểu pháp luật của các nước tiêu biểu trên
thế giới để học hỏi và hồn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ ni con ni
có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác, những đề xuất trong luận văn có thể được áp dụng để giải quyết các
vấn đề liên quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật ni con ni có
yếu tố nước ngồi.
Chương 2: Công ước La Hay 1993 và pháp luật một số nước về ni
con ni có yếu tố nước ngồi.
Chương 3: Pháp luật Việt Nam và bài học kinh nghiệm của pháp luật
nước ngồi cho pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngồi.

10

z


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHÁP LUẬT NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN


1.1.1. Khái niệm "nuôi con nuôi"
Nuôi con ni là một hiện tượng xã hội đã có từ xa xưa và ngày càng
phát triển vì nhiều mục đích khác nhau, có thể nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi
ích vật chất như cần người thờ tự, người chăm sóc lúc tuổi già, cần người lao
động hoặc xuất phát từ lịng nhân đạo, cảm thơng, chia sẻ với những trẻ em
khuyết tật, trẻ em có hồn cảnh khó khăn... Hiện tượng này thể hiện mối quan
hệ giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện nhận nuôi con nuôi. Để đảm
bảo quyền lợi của bên nhận nuôi cũng như quyền lợi của trẻ được nuôi pháp
luật đã thể chế quan hệ xã hội này thành quan hệ pháp luật. Dưới sự điều
chỉnh cụ thể của các quy phạm pháp luật thì ni con ni diễn ra theo một
trình tự, thủ tục nhất định khơng cịn mang tính tự phát, tùy tiện như trước đây.
Khái niệm nuôi con ni theo Từ điển bách khoa tồn thư về các môn
khoa học xã hội là một thực tiễn xã hội được thể chế hóa, theo đó một cá nhân
thuộc về một gia đình hay một nhóm mang tính chất gia đình do sinh ra tiếp
nhận nhưng mối liên hệ mới mang tính chất gia đình và những mối liên hệ
này được xã hội coi như ngang bằng với những mối liên hệ ruột thịt và thay
thế một phần hoặc toàn bộ những mối liên hệ đó.
Khái niệm ni con ni theo đa số các nước trên thế giới là việc xác
lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận làm con nuôi.
Nếu như trước đây nuôi con nuôi chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội
thì nay nó đã được thể chế hóa thành một quan hệ pháp lý, là kết quả của việc

11

z


thực hiện các trình tự, thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật nhằm xác
lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận

làm con nuôi mà không dựa trên quan hệ huyết thống giữa hai bên.
Nuôi con nuôi là một khái niệm đã được quy định một cách rõ ràng tại
Điều 67 của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000. Luật Nuôi con nuôi năm
2010 tiếp tục cụ thể hóa khái niệm đó nhằm tạo ra một hệ thống các thuật ngữ
pháp lý về nuôi con nuôi mà không nhằm đưa ra một cách hiểu khác về chế
định nuôi con ni ở Việt Nam. Theo đó, ni con ni là việc xác lập quan
hệ cha mẹ - con lâu dài, bền vững giữa người nhận nuôi con nuôi và người
được nhận làm con nuôi thông qua việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền khi các bên có đầy đủ các điều kiện luật định. Tất cả quyền lợi
của trẻ được nhận làm con nuôi và của người nhận nuôi đều được pháp luật ấn
định và được bảo đảm thực hiện phù hợp với truyền thống, đạo lý của từng
dân tộc và phù hợp với ý chí của nhà nước.
1.1.2. Khái niệm "ni con ni có yếu tố nước ngồi"
Theo lý luận chung thì ni con ni có yếu tố nước ngồi có thể
được hiểu là việc: Nuôi con nuôi giữa một bên là người Việt Nam, một bên là
người nước ngồi (nếu người nhận ni là cơng dân Việt Nam thì người được
ni là cơng dân nước ngồi và ngược lại); ni con ni giữa người nước
ngồi với nhau (cả người nhận ni và người được nhận ni đều là cơng dân
nước ngồi) nhưng họ thường trú tại Việt Nam; nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam với nhau (cả người nhận nuôi và người được nhận nuôi đều mang
quốc tịch Việt Nam) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngồi.
Ni con ni có yếu tố nước ngồi là một trong các quan hệ hơn
nhân gia đình có yếu tố nước ngồi. Trong đó, yếu tố nước ngoài đã được quy
định một cách rõ ràng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 758) và quan hệ
nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình

12

z



năm 2000. Như vậy, quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi được hiểu là
quan hệ giữa:
i. Cơng dân Việt Nam với người nước ngoài.
ii. Người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
iii. Công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó ở nước ngồi.
Ngồi ra, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 cịn ghi nhận: "Các quy
định của chương XI về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi cũng
được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với
nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài" [19, Khoản 4 Điều
100].
Theo các quy định trên thì quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi
bao gồm các quan hệ sau:
i. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam
cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài.
ii. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ở nước ngồi.
iii. Quan hệ ni con ni giữa cơng dân Việt Nam với nhau mà một
hoặc cả hai bên định cư ở nước ngồi.
iv. Quan hệ ni con ni giữa người nước ngoài với nhau phát sinh
tại Việt Nam.
Theo các trường hợp trên đây, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngồi đã được mở rộng, khơng chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam với người nước ngồi mà cịn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa
công dân Việt Nam với nhau ở nước ngồi và quan hệ ni con ni giữa người

13


z


nước ngồi với nhau ở Việt Nam. Có thể thấy nội hàm của khái niệm "ni con
ni có yếu tố nước ngoài" trong một chừng mực nhất định tương đương với
khái niệm "nuôi con nuôi quốc tế". Tuy nhiên, phạm vi của hai khái niệm này có
sự khác nhau cơ bản đó là: Ni con ni quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của
Cơng ước La Hay 1993. Theo đó, việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa một
hoặc hai người là vợ chồng cùng thường trú tại nước ngoài xin nhận một trẻ
em thường trú ở nước khác làm con ni, có sự di chuyển trẻ em từ nước này
sang nước khác. Ngoài ra, theo tư pháp quốc tế của một số nước thì việc nhận
một trẻ em có quốc tịch khác làm con nuôi được coi là nuôi con nuôi quốc tế.
Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì khái niệm ni con ni có
yếu tố nước ngồi tại Điều 3 nhằm tiếp tục kế thừa khái niệm quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi trong Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000, đồng thời làm căn cứ để áp dụng pháp luật điều chỉnh đối với các quan
hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi. Theo đó, ni con ni có yếu tố nước
ngồi là việc ni con ni giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài,
giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
1.1.3. Khái niệm "pháp luật ni con ni có yếu tố nước ngồi"
Quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài ở cả Việt Nam và các
nước trên thế giới ngày càng phát triển và có những diễn biến đa dạng, phức
tạp. Do đó, một khung pháp lý điều chỉnh quan hệ này cần được thiết lập và
hoàn thiện để bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ thể tham gia vào việc cho nhận con ni có yếu nước ngồi.
Pháp luật ni con ni có yếu tố nước ngoài là tổng thể các quy
phạm pháp luật quốc gia và các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quan
hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Quy phạm pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ nuôi con ni có yếu

tố nước ngồi của đa số các nước trên thế giới là các quy phạm luật trong

14

z


luật/bộ luật về hơn nhân và gia đình, dân sự, quyền trẻ em hoặc ni con ni.
Ví dụ: Luật Ni con nuôi của Việt Nam, Luật Nuôi con nuôi của Trung
Quốc, Luật Nuôi con nuôi và cấp dưỡng của Ấn Độ, các quy định về nuôi con
nuôi trong Bộ luật gia đình của Nga, các quy định về ni con nuôi trong Bộ
luật Dân sự của Pháp...
Quy phạm luật quốc tế điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố
nước ngoài bao gồm các điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế
đa phương. Ví dụ: Hiệp định định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Canada; Thỏa thuận hợp tác về ni con ni
quốc tế giữa Chính phủ Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
Québec; Hiệp định định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Liên bang Thụy Sĩ; Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT NI CON NI CĨ YẾU
TỐ NƯỚC NGỒI

Việc quan tâm đến quyền trẻ em được các quốc gia đặc biệt chú trọng
kể từ sau thế chiến thứ hai, cùng với việc đảm bảo các quyền cơ bản của con
người và khắc phục hậu quả của chiến tranh. Một trong các u cầu cấp thiết,
có tính nhân đạo đặt ra đối với các quốc gia là cần xây dựng một khung pháp
lý để tạo điều kiện tốt nhất trong việc tìm được gia đình thay thế, tạo được
mơi trường chăm sóc và nuôi dưỡng tốt nhất cho những trẻ em bất hạnh (mồ
côi, bị bỏ rơi, không nơi nương tựa…).

Nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng về nuôi con nuôi được xây
dựng như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngày 20-11-1989 và
Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan
đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, Chỉ dẫn đặc biệt về việc bảo trợ, nuôi con
ni trong nước và nước ngồi (Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc
số 41/86 ngày 03-12-1986). Bên cạnh đó, nhiều hiệp định song phương về

15

z


nuôi con nuôi cũng được ký kết giữa các quốc gia.
Năm 1965, Ủy ban Công ước La Hay đã tiến hành thảo luận với một
số quốc gia và thông qua Công ước năm 1965 quy định về thẩm quyền, luật
áp dụng và việc công nhận các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề nuôi
con nuôi. Việc thông qua Cơng ước năm 1965 đã góp phần quan trọng giải
quyết vấn đề nuôi con nuôi giữa các nước, thống nhất về nguyên tắc vấn đề
giải quyết nuôi con nuôi. Đây cũng là công ước đầu tiên của Liên hợp quốc
trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các
nước.
Kể từ ngày Công ước năm 1965 được thông qua, nhiều trẻ em đã tìm
được mái ấm, được chăm sóc, ni dưỡng, được học hành và các quyền khác
của trẻ em được công nhận, được bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời
gian thực hiện, Công ước La Hay năm 1965 đã thể hiện nhiều điểm bất cập,
chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về nhu cầu nuôi
con nuôi quốc tế nên số lượng các quốc gia thành viên cịn hạn chế.
Ngồi ra, do cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ni con ni chưa
hồn thiện, hiện tượng nhiều trẻ em ở một số nước nghèo bị mang ra nước
ngồi dưới hình thức con ni nhưng thực chất là bị lợi dụng, xâm hại, bóc lột

sức lao động… Một số đối tượng đã thông qua việc nuôi con nuôi để trục lợi,
trẻ em bị coi là đồ vật, hàng hóa trao đổi, trái với mục đích nhân đạo ban đầu
của cơng ước. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế tiếp tục được coi là vấn đề cấp bách và cần được
giải quyết sớm.
Ngày 19-01-1988, Ủy ban thường trực của Công ước La Hay về tư
pháp quốc tế trình Ủy ban đặc biệt về các vấn đề chung và chính sách xây
dựng cơng ước mới trên cơ sở của Công ước La Hay năm 1965 và tình hình
thực tiễn trên thế giới trong thời gian đó.
Sau 5 năm đàm phán, cơng ước mới được soạn thảo với sự nỗ lực của

16

z


các quốc gia, dưới sự giám sát của Ủy ban đặc biệt của Viện Tư pháp quốc tế
La Hay về cấp dưỡng ni con và cấp dưỡng gia đình. Tại kỳ họp thứ 17 của
Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế ngày 29-05-1993, Công ước La Hay về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi đã được thơng qua và chính thức
có hiệu lực kể từ ngày 01-05-1995.
Đây là công ước mở cho bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tham gia với
điều kiện đại diện của quốc gia đó đã tham dự ít nhất hai kỳ họp của Hội nghị
La Hay và có đơn xin gia nhập.
Đối với từng quốc gia khác nhau thì lịch sử phát triển của pháp luật về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi cũng khác nhau. Đa số các quốc gia trên
thế giới đều ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi trong nước trước, sau đó ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài hoặc ban hành đồng thời các quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi con nuôi trong nước và

quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi. Các quy phạm pháp luật này có thể
được hệ thống hóa trong một văn bản pháp quy riêng về nuôi con nuôi/nuôi
con nuôi quốc tế như luật nuôi con nuôi, luật nuôi con nuôi quốc tế hoặc được
quy định cùng với các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ khác trong
một văn bản pháp luật như luật hơn nhân và gia đình, luật gia đình, luật dân
sự…
Đối với Việt Nam, việc gia nhập Công ước La Hay và ban hành Luật
Ni con ni 2010 có ý nghĩa rất quan trọng: một là, đưa Việt Nam hội nhập
vào một thiết chế pháp lý lớn nhất trong lĩnh vực tư pháp quốc tế; hai là,
thống nhất các quy định về nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi quốc tế
trong một văn bản quốc gia có giá trị pháp lý cao nhất là luật về nuôi con
nuôi.
1.3. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG VIỆC NI CON NI CĨ YẾU

17

z


TỐ NƯỚC NGOÀI

1.3.1. Khái niệm
Xung đột pháp luật trong việc ni con ni có yếu tố nước ngồi là
hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật có thể áp dụng để điều chỉnh một
quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng xung đột pháp luật nêu trên là
có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khi quy định về vấn đề ni con
ni có yếu tố nước ngồi. Ở một số nước hồi giáo thì vấn đề ni con nuôi
không được đặt ra (bị nghiêm cấm). Một số nước hồi giáo khác thì cho phép
ni con ni nhưng lại cấm ni con ni có yếu tố nước ngồi. Các nước

còn lại trên thế giới (đại đa số) cho phép ni con ni và ni con ni có
yếu tố nước ngồi. Theo đó, về hệ quả pháp lý của việc ni con ni/ni
con ni có yếu tố nước ngồi có hai nội dung: ni con ni khơng đầy
đủ/ni con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi đầy đủ. Cụ thể là:
i. Một số hệ thống pháp luật chấp nhận chế định nuôi con nuôi không
đầy đủ/nuôi con nuôi đơn giản. Với chế định này thì quan hệ cha, mẹ - con
giữa con nuôi và cha mẹ đẻ không bị cắt đứt.
ii. Một số hệ thống pháp luật quy định nuôi con nuôi đầy đủ với hệ
quả là quan hệ cha, mẹ - con giữa con nuôi và cha mẹ đẻ bị cắt đứt.
Để giải quyết xung đột pháp luật về lĩnh vực ni con ni có yếu tố
nước ngồi, hầu hết các nước trên thế giới áp dụng hai phương pháp chính là
ban hành các quy phạm thực chất, quy phạm xung xung đột và tham gia các
điều ước quốc tế song phương, đa phương về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngồi. Trong trường hợp có sự khác biệt giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế mà quốc gia đó tham gia thì các quy phạm pháp luật quốc tế thường
được ưu tiên áp dụng.
Việc lựa chọn hệ thống pháp luật hợp lý để điều chỉnh các quan hệ

18

z


ni con ni có yếu tố nước ngồi là một trong các biện pháp để bảo đảm
một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên chủ thể tham gia vào
quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi, đặc biệt là lợi ích của trẻ em
được nhận làm con ni. Ngồi ra, việc lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp
còn làm cho các vấn đề về nội dung, trình tự giải quyết, hệ quả pháp lý và các
vấn đề khác phát sinh từ việc ni con ni có yếu tố nước ngồi phù hợp với
điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia và phù hợp với chuẩn

mực và thơng lệ quốc tế, qua đó thúc đẩy sự hợp tác của các quốc gia ngày
càng phát triển.
1.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngồi theo pháp luật các nước
Xung đột pháp luật trong quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài
xảy ra ở nhiều nội dung và rất phức tạp. Để giải quyết xung đột pháp luật về
vấn đề này, các nước có thể lựa chọn các yếu tố như phương pháp thích hợp
(phương pháp xung đột hoặc phương pháp thực chất), cơ quan có thẩm quyền
(cơ quan trong nước, cơ quan ở nước ngoài, cơ quan giải quyết các vấn đề về
thủ tục hành chính, cơ quan tố tụng) hoặc nguyên tắc pháp luật (luật nhân
thân, luật nơi cư trú…) để giải quyết xung đột pháp luật về ni con ni có
yếu tố nước ngồi.
Tìm hiểu về nguyên tắc pháp luật để giải quyết quan hệ nuôi con ni
có yếu tố nước ngồi thì đa số các nước áp dụng nguyên tắc luật nhân thân
của người nuôi hoặc của con nuôi.
 Ở Đức
Theo Điều 22 - Luật tư pháp quốc tế của Đức sửa đổi ngày 25/07/1986
thì việc nuôi con nuôi được điều chỉnh theo pháp luật của nước mà người
nhận con nuôi là công dân vào thời điểm ni con ni. Nếu vợ chồng người
nhận có cùng quốc tịch thì luật của nước mà hai vợ chồng là công dân sẽ được

19

z


áp dụng.
Nếu hai vợ chồng người nhận con ni có quốc tịch khác nhau thì
pháp luật của nước hai vợ chồng thường trú sẽ được áp dụng.
 Ở Anh

Tòa án Anh có thẩm quyền giải quyết vấn đề ni con nuôi, khi người
nuôi thường trú ở Anh hoặc cả người nuôi và con nuôi cư trú ở Anh và áp
dụng pháp luật của Anh để giải quyết.
Trên thực tế, các cơ quan có thẩm quyền ở Anh cũng thừa nhận việc
ni con ni ở nước ngồi nếu như người ni là cơng dân Anh hiện đang cư
trú ở nước ngồi đó.
 Ở các nước Đơng Âu
Vấn đề ni con ni giải quyết theo luật của nước mà người nuôi
mang quốc tịch (Khoản 1, Điều - 26 Luật tư pháp quốc tế của Séc và
Slôvakia; Khoản 1, Điều 22 - Luật tư pháp quốc tế Ba Lan).
Trong trường hợp người nuôi là hai vợ chồng có quốc tịch khác nhau
thì việc nuôi con nuôi phải tuân thủ luật quốc tịch của cả hai bên vợ chồng
người ni.
Nếu cần phải có sự đồng ý của đứa trẻ hoặc của những người như bố,
mẹ, người đỡ đầu… đa số các nước dựa trên cơ sở pháp luật của nước mà đứa
trẻ mang quốc tịch (Khoản 2, Điều 22 Luật tư pháp quốc tế Ba Lan năm
1965).
 Ở Nga
Việc nuôi con nuôi tiến hành trên lãnh thổ Nga giữa người nuôi là
công dân nước ngồi và con ni là cơng dân Nga hoặc cơng dân nước ngoài
đang sinh sống trên lãnh thổ Nga được giải quyết theo luật của Nga.
Trường hợp trẻ em được ni mang quốc tịch nước ngồi và việc ni

20

z


con nuôi tiến hành trên lãnh thổ Nga cũng sẽ căn cứ theo luật của Nga.
Nếu người nhận nuôi trẻ em Nga là cơng dân nước ngồi thì phải có

giấy phép do cơ quan có thẩm quyền cấp tỉnh cấp trong trường hợp cụ thể.
Đối với trẻ em là công dân Nga, sống ở nước ngồi thì việc nhận ni
chúng được thực hiện tại cơ quan lãnh sự của Nga và tuân theo các quy định
về nhận nuôi con nuôi của pháp luật Nga.
Vấn đề nuôi con nuôi cũng được quy định trong các Hiệp định tương
trợ tư pháp giữa các nước. Theo các Hiệp định này, pháp luật của nước người
ni mang quốc tịch giữ vai trị quyết định trong vấn đề nuôi con nuôi.
1.3.3. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề ni con ni có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên
1.3.3.1. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngồi theo pháp luật Việt Nam
Theo pháp luật Việt Nam, việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam
và người nước ngồi phải nhằm mục đích gắn bó tình cảm giữa cha, mẹ ni
và con ni trong quan hệ cha mẹ và con cái, đảm bảo cho người con ni
chưa thành niên được ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt. Tuy nhiên do điều
kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tập quán của nước ta với các nước khác có nhiều
điểm khác biệt nên dễ nảy sinh xung đột luật trong việc điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi quốc tế.
Để giải quyết xung đột pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi,
ngun tắc lựa chọn pháp luật áp dụng theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là
kết hợp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước nơi thường trú của cha mẹ
nuôi hoặc pháp luật nước nơi thường trú của con nuôi. Việc áp dụng hệ thuộc
luật nơi thường trú tránh được tình trạng phức tạp xảy ra đối với người nhiều
quốc tịch hoặc người khơng có quốc tịch khi họ tham gia vào quan hệ nuôi

21

z



con ni có yếu tố nước ngồi. Bên cạnh đó, việc tuân thủ pháp luật nước nơi
thường trú (của cha mẹ ni) góp phần tạo điều kiện cho trẻ em Việt Nam nói
riêng và trẻ em được làm con ni nói chung có thể dễ hịa nhập với cộng
đồng vì thực tế, nơi thường trú của cha mẹ nuôi thường là nơi mà cha mẹ nuôi
và con nuôi sẽ sinh sống.
Việc điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài theo hệ
thuộc luật nơi thường trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được
nhận làm con nuôi, Luật Nuôi con nuôi 2010 của Việt Nam tạo ra sự tương
thích với các quy định của Cơng ước La Hay 1993. Theo quy định của Công
ước, rất nhiều nội dung liên quan đến trình tự, thủ tục nhận con nuôi đều phải
được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của Nước Gốc - nước người được
nhận ni thường trú. Ví dụ: Điều 14 của Cơng ước La Hay 1993 quy định:
"Những người thường trú ở một Nước ký kết này muốn nhận trẻ em thường
trú ở một Nước ký kết khác làm con nuôi cần phải liên hệ với Cơ quan Trung
ương của Nước nơi họ thường trú" [15]. Hoặc khoản 2, Điều 16 của Công ước
quy định:
Cơ quan Trung ương của Nước gốc phải chuyển cho Cơ
quan Trung ương của nước Nước nhận báo cáo về trẻ em, bằng
chứng về những sự đồng ý cần thiết đã có được và những lý do xác
nhận việc giới thiệu trẻ em, đồng thời tránh để lộ danh tính của cha
mẹ, nếu danh tính của họ khơng thể được tiết lộ tại nước gốc [15].
Bên cạnh những điểm hợp lý như trên, việc giải quyết xung đột pháp
luật trong lĩnh vực ni con ni có yếu tố nước ngồi của Luật Ni con
ni năm 2010 vẫn cịn một số điểm bất cập như sau:
i. Các quy định về giải quyết xung đột chưa toàn diện, chưa bao quát
được các vấn đề xung đột phát sinh đối với quan hệ ni con ni có yếu tố
nước ngồi. Cụ thể, theo quy định tại khoản 2, Điều 29, khoản 1 Điều 40 Luật

22


z


Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về công dân Việt Nam nhận trẻ em nước
ngồi làm con ni nhưng mới chỉ quy định pháp luật được áp dụng để xác
định điều kiện của người nhận ni con ni, cịn pháp luật được áp dụng để
xác định điều kiện của người được nhận làm con nuôi trong trường hợp này
chưa được quy định. Thêm vào đó, pháp luật áp dụng để giải quyết vấn đề hệ
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 mới chỉ đề
cập đến trường hợp người nước ngoài thường trú tại Việt Nam nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi, cịn các trường hợp khác như người nước ngồi
thường trú tại nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ
em Việt Nam thường trú tại Việt Nam làm con ni thì hệ quả pháp lý của
việc nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật nước nào vẫn còn là vấn đề
chưa được quy định.
ii. Luật Ni con ni năm 2010 có những quy định mang tính liệt kê,
gây ra cách hiểu khơng chính xác cho việc xác định pháp luật áp dụng điều
chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi. Cụ thể, khoản 1, Điều 41
quy định người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi phải tuân
thủ các quy định tại các điều 14, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 26 và 27 của
Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Quy định này dẫn tới cách hiểu là người nước
ngoài thường trú tại Việt Nam khi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chỉ cần
tuân theo các quy định đã được liệt kê ở trên, còn các quy định khác của Luật
Ni con ni năm 2010 thì khơng bắt buộc phải tn thủ. Điều này hồn
tồn khơng chính xác vì khi người nước ngồi thường trú tại Việt Nam nhận
trẻ em Việt Nam làm con ni ngồi việc tuân thủ các quy định được liệt kê
tại khoản 1, Điều 41 họ còn phải tuân thủ nhiều quy định khác của Luật Ni
con ni năm 2010. Ví dụ: quy định về các hành vi bị cấm đối với việc nuôi
con nuôi tại Điều 13 và hàng loạt các quy định khác về trình tự, thủ tục khi

người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni.
iii. Luật Ni con ni năm 2010 chưa có quy định cụ thể về mối

23

z


quan hệ giữa luật nuôi con nuôi của Việt Nam với các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Việc lựa chọn pháp luật áp dụng theo quy định của
Luật Nuôi con nuôi 2010 (áp dụng hệ thuộc luật nơi thường trú) có sự khác
biệt với các quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký
kết. Hầu hết các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết đều quy
định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của người nhận nuôi con nuôi và người
được nhận làm con nuôi. Theo các hiệp định này: (a) Việc nhận và hủy bỏ nuôi
con nuôi được giải quyết theo pháp luật của nước ký kết mà người nuôi mang
quốc tịch (nếu cha mẹ nuôi khơng cùng một quốc tịch thì việc ni con ni và
hủy bỏ việc nuôi con nuôi đều phải áp dụng pháp luật hiện hành của hai nước ký
kết); (b) Nếu pháp luật của nước ký kết mà trẻ em là công dân quy định việc
nhận nuôi hoặc xin hủy bỏ việc nuôi con nuôi phải được người đại diện hợp
pháp của trẻ em, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như bản thân trẻ
đồng ý thì phải tuân theo các yêu cầu đó; (c) Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
việc nhận hoặc hủy bỏ việc nuôi con nuôi là cơ quan của nước ký kết mà
người nhận nuôi con nuôi hoặc xin hủy bỏ việc nuôi con nuôi là công dân
(trong trường hợp cha mẹ nuôi khác quốc tịch, thì thẩm quyền thuộc cơ quan
của nước ký kết nơi vợ chồng hiện có hoặc đã có thường trú hoặc tạm trú
chung). Ví dụ: theo quy định tại Điều 30 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa
Việt Nam và Liên bang Nga 1998 quy định "Các vấn đề về công nhận việc
nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà người nuôi là
công dân vào thời điểm xin nhận con nuôi". Tương tự như vậy, Điều 31 Hiệp

định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào quy định "Công dân của nước
ký kết này có thể nhận trẻ em là cơng dân của nước ký kết kia làm con nuôi.
Việc nhận con nuôi phải tuân theo pháp luật của nước ký kết mà trẻ em đó là
cơng dân". Theo ngun tắc chung như đã nêu ở trên, trong trường hợp có sự
khác biệt giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thì điều ước quốc tế sẽ
được ưu tiên áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được quy định cụ thể trong
Luật Nuôi con nuôi năm 2010.

24

z


Trong thời kỳ Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế và đặc biệt khi
đã trở thành thành viên của Công ước La Hay năm 1993, các quan hệ dân sự mở
rộng nói chung và quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi ngày càng phát
triển đa dạng. Do vậy, những bất cập nêu trên của Luật Nuôi con nuôi năm 2010
về giải quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi cần được nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung nhằm tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng để nâng cao hiệu quả điều
chỉnh các quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi phát sinh tại Việt Nam.
1.3.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề ni con ni có
yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Xung đột pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi là một vấn
đề quan trọng trong tư pháp quốc tế. Nó cũng là cơ sở để hình thành những
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật. Có thể hiểu phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi là việc các
quốc gia lựa chọn một hệ thống pháp luật để áp dụng giải quyết quan hệ nuôi
con nuôi giữa các nước khi họ ký các điều ước quốc tế.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng hai phương pháp
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi quốc tế là phương pháp xung đột và phương

pháp thực chất.
Nhìn chung, mỗi phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất
định, có tác động qua lại, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Do đó, việc phối hợp cả
hai phương pháp này một cách linh hoạt, mềm dẻo khi các nước ký kết điều
ước quốc tế về ni con ni sẽ có những tác động tích cực đối với các quốc
gia thành viên điều ước quốc tế.
Có thể thấy, phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm
xung đột là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong các điều ước quốc tế,
bởi nó xuất phát từ thực tiễn áp dụng trong tư pháp quốc tế của các nước, khả
năng dễ xây dựng, chi phí ít vì chỉ cần thơng qua thỏa thuận của các bên. Nếu

25

z


×