Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Miếu, lăng, cung thờ ở Cà Mau tín ngưỡng và giá trị nhân văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.04 KB, 26 trang )




























Bộ giáo dục v đo tạo Viện Khoa học x hội Việt Nam
viện nghiên cứu văn hoá




phạm văn tú



Miếu, lăng, cung thờ ở c mau
Tín ngỡng v giá trị nhân văn


Chuyên ngnh: văn hoá dân gian
M số: 62 31 70 05



tóm tắt Luận án tiến sĩ văn hoá học







h nội - 2009
công trình đợc hon thnh tại
viện nghiên cứu văn hoá
Viện Khoa học x hội Việt Nam


Ngời hớng dẫn khoa học
GS.TS. Nguyễn Xuân Kính



Phản biện 1: GS.TS. Kiều Thu Hoạch

Phản biện 2: PGS.TS. Trần Lâm Biền

Phản biên 3: TS. Nguyễn Quốc Tuấn


Luận án tiến sĩ sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp
nhà nớc họp tại Viện Nghiên cứu văn hoá vào hồi giờ ngày
tháng năm 2009.



Có thể tìm đọc luận án tại:
- Th viện Viện Nghiên cứu văn hoá
- Th viện Quốc gia



Danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án

1. Miu th C Mau, mt hỡnh thc th t ph bin, Tp chớ Vn
hoỏ ngh thut, (5), 2004.
2. Tớnh tri ca tớn ngng th mu trong cỏc miu th C Mau
Tp chớ Ngun sỏng dõn gian, (2), 2005.
3. C Mau, my vn lch s v vn hoỏ, Tp chớ Vn hoỏ ngh
thut, (4), 2006.

4. S thớch nghi v bin i trong tớn ngng th b Thiờn Hu C
Mau, Tp chớ Vn hoỏ dõn gian,
(6), 2006.
5. Mt s vn lch s v vựng t C Mau, Nam B, t v ngi,
Hi Khoa hc lch s Tp. H Chớ Minh, tp V, Nxb Tr, 2007.
6. ỡnh lng C Mau trong s phỏt trin cng ng, Tp chớ Ngun
sỏng dõn gian, (2), 2007.
7. Tớn ngng th cỏ voi C Mau, Tp chớ Vn hoỏ dõn gian, (3),
2007.
8. Di tớch thiờn Hu cung C Mau, nhng giỏ tr vn húa, trang 319-
331, Bo tng - di tớch. Mt s vn lý lun thc tin
, Nxb Vn
húa thụng tin, 2007.





1
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cà Mau là một trong những tỉnh thuộc khu vực đồng bằng
sông Cửu Long ở về phía cực Nam của tổ quốc, là nơi dừng chân
cuối cùng của người Việt trong công cuộc khai phá đất Nam Bộ.
Trên nền tảng chung đó, vùng bán đảo Cà Mau đã hình thành
những nét văn hóa xuất phát từ địa hình địa lý đặc thù. Hơn nữa
sự giao thoa văn hoá giữa các cộng đồ
ng dân tộc diễn ra ở nơi
đây đã tạo ra bức tranh rất phong phú trong các hoạt động xã hội

cũng như những sinh hoạt văn hóa tinh thần thể hiện qua các hoạt
động lễ hội, sinh hoạt tín ngưỡng. Để thực hiện hành vi tín
ngưỡng của mình, cộng đồng nơi đây đã xây dựng nên miếu,
lăng thờ cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu xung quanh khu vực
cư trú của mình bằng nhiều hình thức. Bên trong
ấy chứa đựng
rất nhiều hình thức tín ngưỡng được hội tụ từ các vùng miền, các
tộc người cùng cộng cư. Những hình thức tín ngưỡng này lại ẩn
chứa những giá trị nhân văn nhân bản mà biết bao thế hệ người
đi trước đã xây dựng, vun đắp và lưu truyền.
Từ trước đến nay, các lĩnh vực văn hoá của cư dân vùng
bán đảo Cà Mau ít được quan tâm nghiên cứu m
ột cách đầy đủ
và số lượng nghiên cứu cũng qúa ít ỏi, khiêm tốn. Trong lĩnh vực
tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng vẫn chưa có công trình nghiên
cứu cấp tỉnh nào được thực hiện đầy đủ để khái quát được các
hình thái tín ngưỡng được thực hiện trong những thiết chế tín
ngưỡng của cộng đồng.
Cộng đồng xã hội Cà Mau là sự hội tụ nhiều thành phần
nghề nghiệp
đến từ các vùng miền khác nhau để định cư theo hai

2
khu vực nghề nghiệp đã tạo ra các sắc thái văn hoá là văn hoá
sông nước, văn hoá ven biển và văn hóa thành thị. Tương ứng
với các sắc thái văn hoá này là ba hình thức thiết chế tín ngưỡng
gồm miếu, lăng thờ cá voi của người Việt và cung thờ Bà Thiên
Hậu của người Hoa. Nghiên cứu miếu, lăng và cung thờ một mặt
sẽ tìm hiểu được hội tụ tín ngưỡng đến từ các vùng mi
ền đồng

thời góp phần xác nhận những giá trị văn hoá mà miếu, lăng thờ
cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu mang lại.
Trong bối cảnh mở rộng giao lưu với quốc tế, việc bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống là điều hết sức cần
thiết góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mang đậm
bản sắc dân tộc.
2. LỊCH SỬ V
ẤN ĐỀ
Miếu là cơ sở thờ tự của cộng đồng hiện diện ở khắp các
vùng nông thôn Việt Nam. Các tài liệu xưa chỉ đề cập đến miếu
với ý nghĩa là nơi thờ thần linh Trịnh Hoài Đức trong Gia Định
thành thông chí ở phần Thành trì chí có giới thiệu một số miếu
thờ tại năm trấn. Đầu thế kỷ XX, Phan Kế Bính, Toan Ánh trong
đề cập đến kiến trúc miếu. Các tác giả Sơn Nam, Trương Ngọc
Tường đề cập đến miếu với tính cách là cơ sở thờ tự đi đôi với
đình làng… Tục thờ cá voi là đối tượng được đề cập và nghiên
cứu nhiều ở các vùng ven biển miền Trung và duyên hải Nam
Bộ. Các tác phẩm trước thế kỷ XX cho đến nay chỉ nghiên cứu
về tục thờ cá voi nhưng không khả
o tả và phân tích nguồn gốc
các lăng thờ với tính cách là một thiết chế xã hội. Lăng còn được
nhắc đến trong các khoá luận đại học và luận văn sau đại học;
trong các tạp chí trung ương và địa phương, trong các kỷ yếu
khoa học. Tương tự, cung thờ Bà Thiên Hậu đã được tổ chức

3
nghiên cứu trong nhiều công trình về tín ngưỡng hoặc lễ hội mà
không nghiên cứu sâu về cơ sở thờ tự. Riêng trong tác phẩm
Chùa Hoa thành phố Hồ Chí Minh do PGS.TS. Phan An chủ
biên đã trình bày khá chi tiết nguồn gốc, kiến trúc cũng như việc

phối tự tại bốn nơi thờ tự ở thành phố Hồ Chí Minh. Các tác
phẩm trên hầu hết tập trung vào việc nghiên cứu tín ngưỡng và lễ
hội là chính, trong khi miếu, lăng, cung th
ờ chỉ được nhắc đến
trong quá trình tìm hiểu tín ngưỡng và lễ hội. Nhìn chung, chưa
có công trình nào nghiên cứu về miếu, lăng, cung thờ với tính
cách là thiết chế tín ngưỡng nhất là nghiên cứu ở một địa phương
cụ thể của vùng đất Nam Bộ.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những gợi ý, luận điểm rất
hữu ích từ một số công trình và bài viết nêu trên, chúng tôi
nghiên cứu các mi
ếu, lăng, cung thờ ở Cà Mau với tính cách là
thiết chế tín ngưỡng trong cộng đồng để từ đó tìm hiểu một số tín
ngưỡng được thực hiện trong đó, đồng thời xác định những giá
trị nhân văn mà miếu, lăng, cung thờ đem lại cho đời sống tinh
thần của cộng đồng.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1.Khảo cứu các hình thức miếu thờ
thần, lăng thờ cá voi
và cung thờ Bà Thiên Hậu ở Cà Mau.
3.2.Phân loại các hình thức miếu thờ trong cộng đồng
người Việt, qua đó cung cấp những thông tin về quá trình hình
thành xóm ấp và đời sống văn hóa tinh thần của công đồng cư
dân.
3.3.Nghiên cứu và thống kê các hình thức tín ngưỡng trong
miếu lăng và cung thờ nhằm hệ thống hoá tư liệu để từ đó tìm

4
hiểu mối quan hệ giữa con người với điều kiện địa lý tự nhiên,
môi trường xã hội.

3.4.Tìm hiểu sự vận động trong sinh hoạt tín ngưỡng ở
những vùng địa lý khác nhau và ở những cộng đồng dân tộc khác
nhau, đồng thời tìm hiểu xu hướng biến đổi hiện nay trong một
số sinh hoạt tín ngưỡng ở địa phương.
4. ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨ
U
Đối tượng nghiên cứu là các hình thức miếu thờ thần, lăng
thờ cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu ở Cà Mau được giới hạn ở
những phạm vi sau:
4.1.Luận án chỉ nghiên cứu những miếu thờ thần của cộng
đồng, không bao gồm các loại miếu thờ đi đôi với đình làng; lăng
thờ cá voi ở thị trấn Ông Đốc; cung thờ Bà Thiên Hậu là thiết chế
tín ngưỡ
ng đặc trưng của người Hoa. Khái niệm “tín ngưỡng”
được dùng theo quan niệm tín ngưỡng dân gian biểu hiện ở sự
ngưỡng mộ và niềm tin của cộng đồng vào sức mạnh siêu nhiên
nào đó.
4.2. Luận án chỉ khảo sát, miêu thuật và phân loại, phân
tích các miếu, lăng thờ cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu với
những tín ngưỡng được cộng đồng thực hiện trong đó.
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu miếu thờ th
ần trong
cộng đồng cộng đồng người Việt kể cả miếu Ông Tà do người
Việt xây dựng (có nguồn gốc tín nưỡng thờ Néak-ta của người
Khơme); nghiên cứu lăng thờ cá voi ở thị trấn Ông Đốc và
nghiên cứu bốn cung thờ Bà Thiên Hậu ở Cà Mau.
- Đề tài được thực hiện dựa trên các khảo sát điền dã trong
địa giới hành chính của tỉnh Cà Mau và ven hai tỉnh lân cận ở cả

5

ba vùng: vùng nội địa (trung tâm thị tứ, trị trấn); vùng sông nước
và vùng ven biển.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở phương pháp luận của lý thuyết tiếp cận hệ
thống và lý thuyết tiếp cận không gian văn hoá, luận án sử dụng
những phương pháp sau:
5.1.Phương pháp thực địa: Để tiếp cận được với mục tiêu
nghiên cứu, nhất thiết phải thực hiện đề tài
ở những nơi diễn ra
các hoạt động văn hoá dân gian từ đó mới giải quyết tốt được nội
dung mà đề tài đã đặt ra.
5.2.Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích các hiện
tượng văn hoá dân gian đang diễn ra trong hiện thực, đối chiếu
với hệ thống lý thuyết, sau đó tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố
với nhau để tìm hiểu được bản chất của sự
việc.
5.3.Phương pháp so sánh: So sánh một số hình thức sinh
hoạt tín ngưỡng trong cùng một khu vực bán đảo Cà Mau và với
một số vùng ven biển miền Trung và duyên hải Nam Bộ.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
6.1. Phác thảo diện mạo văn hoá dân gian của khu vực bán
đảo Cà Mau trong quá trình cộng cư của cộng đồng ba dân tộc.
6.2. Tìm hiểu, phân loại các miếu thờ thần, hệ thống các
hình thức tín ngưỡng trong miếu, lăng và cung thờ ở Cà Mau, từ

đó đúc kết những giá trị văn hoá mà nó đem lại.
6.3. Tìm hiểu sự vận động và xu hướng biến đổi hiện nay
ở các miếu, lăng thờ cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu.
6.4. Góp phần giúp các nhà quản lý ở địa phương có cách
nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về vai trò giá trị, của các thiết chế

tín ngưỡng để xây dựng luận cứ chung cho sự phát triển văn hóa.

6
7. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ
chú, Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm bốn chương:
- Chương 1:Tổng quan về môi trường tự nhiên và xã hội ở
Cà Mau
- Chương 2: Miếu và lăng thờ ở Cà Mau
- Chương 3: Cung thờ Bà Thiên Hậu
- Chương 4: Đặc điểm, vai trò và những giá trị nhân văn


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

1.1. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở CÀ MAU
Cà Mau là một trong những tỉnh thuộc đồng bằng sông
Cửu Long, là vùng đất do phù sa bồi tụ, có nhiều cánh đồng
ruộng chiêm trũng, có nhiều cánh rừng thiên nhiên ngập mặn, có
hai bờ biển Đông-Tây. Nhiều nơi có những bãi bùn cát đen ngập
nước do lá dừa nước mục rữa rơi xuống nước theo các bờ kênh
rạch, vì v
ậy người Khơme gọi là Tưk Kh’mau có nghĩa là nước
đen, người Việt Nam đọc trại âm này thành Cà Mau.
Thiên nhiên hoang dã với tiềm năng về kinh tế, sản vật vô
cùng phong phú đã từng thu hút lưu dân đến đây định cư sinh
sống. Biển, sông ngòi và thủy triều ở Cà Mau tạo ra địa hình đặc
thù do dòng chảy của các con sông mang lại, nó qui định địa bàn
cư trú, sinh hoạt đời sống và sinh hoạt tín ngưỡng.

Hai khu rừng nguyên sinh là rừ
ng đước và rừng tràm tạo ra
hai hệ sinh thái rất đặc trưng với biết bao loài thủy hải sản, động

7
vật trên bờ dưới nước đã từng thu hút con người đến khai thác và
định cư nơi đây. Sự hoang dã của rừng thiêng cũng là điều kiện
phát sinh nhu cầu tín ngưỡng.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI
Vùng đất Nam Bộ cho mãi đến đầu thế kỷ XVII về cơ bản
vẫn là vùng đất hoang vu. Giữa thế kỷ XVII, những lưu dân
người Việt từ miền Trung đã di chuyển đến các tỉnh
đồng bằng
sông Cửu Long sinh sống chủ yếu là nghề trồng lúa, và nghề
vườn. Cũng khoảng thời gian này, sự hiện diện của người Hoa
làm cho diện mạo đồng bằng sông Cửu Long trở nên sầm uất với
những hoạt động giao lưu buôn bán thông thương ở Nam Bộ với
các quốc gia khu vực.
Sự cộng cư của các cộng đồng xã hội ở Nam Bộ diễn ra
theo xu h
ướng buộc con người buộc phải nương tựa vào nhau là
xu hướng tất yếu để cùng tồn tại. Điểm đặc trưng trong lối cư trú
của cộng đồng ba dân tộc Việt-Hoa-Khơme ở đây là lối sống xen
kẽ, người Khơme ở Cà Mau không hình thành phum, sóc.
Người Khơme ở Cà Mau chiếm tỷ lệ 2,6 %, là dân tộc có
từ rất sớm ở khu vực đồng bằng sông C
ửu Long sinh sống bằng
nghề trồng lúa nước. Hiện nay có sáu ngôi chùa theo Phật giáo
Tiểu thừa.
Khoảng thế kỷ XVII, bắt đầu có cuộc di dân về phương

Nam vì chiến tranh Trịnh-Nguyễn và sau này là chủ trương mở
rộng đất Nam Bộ của nhà Nguyễn từ đầu thế kỷ XIX.
Di dân người Hoa đến Nam Bộ tập trung vào giai đoạn nội
chiến Minh-Thanh. Người Hoa có mặt ở Cà Mau lúc đầu là do sự
lan tỏ
a cộng đồng người Hoa từ Rạch Gía, Hà Tiên, và sau đó

8
những nhóm lưu dân người Hoa từ các vùng miền khác của đất
nước Trung Hoa đến tụ cư ngày một đông thêm.
1.3. TÍN NGƯỠNG VÀ TÌNH HÌNH TÍN NGƯỠNG
Tín là niềm tin, ngưỡng là hướng về. Đặc điểm của lưu
dân là những người ít học, họ chỉ là những người thực hành tín
ngưỡng. Vào gần cuối thời kỳ Pháp thuộc (1939), số lượng đình
tương ứng với 25 làng là con số quá khiêm tốn. Để
bù đắp sự
khiếm khuyết này, người ta xây dựng các miếu thờ, sau đó các
cung thờ Bà Thiên Hậu và lăng thờ cá voi ở Cà Mau.

Chương 2
MIẾU VÀ LĂNG THỜ CÁ VOI

2.1. MIẾU THỜ Ở CÀ MAU
2.1.1. Khái niệm miếu: Miếu theo nghĩa chung là nơi thờ
thần. Ở Cà Mau, miếu thờ được bài trí dọc theo khắp vùng sông
nước. Miếu ở Cà Mau bao gồm nhiều loại miếu thờ, trong đó có
nhiều
đối tượng thờ.
Kết quả khảo sát các miếu thờ tại bốn huyện Thới Bình,
Trần Văn Thời, Cái Nước và Ngọc Hiển trong tỉnh cho thấy:

Miếu thờ Mẫu
Miếu

Huyện
Chúa
Xứ
Thủy
Long
Ngũ
Hành
Ông

Thành
hoàng
Thổ
thần
Cự ly
khảo sát
T.Bình 15 1 1 1 2 14km
Tv.Thời 5 1 1 1 3 10km
C.
Nước
5 2 1 2 2 15 12km
N. Hiển 3 1 1 30 10km
Cộng 28 5 1 5 4 50

9
2.1.2. Không gian thiêng liêng của miếu: Không gian
thiêng liêng của miếu thờ thần thường ở vị trí ngã ba sông
thường có dòng nước xoáy làm đắm thuyền do đó người ta cần

đến niềm tin nơi thần thánh.
2.1.3. Các loại miếu ở Cà Mau: Căn cứ vào tính chất
chung của đối tượng thờ, có thể chia miếu thành bốn nhóm gồm:
- Miếu thờ Mẫu: Thờ Mẫu là một tín ngưỡng có từ xa xưa
trong cộng đồng ng
ười Việt ở miền Bắc và do ảnh hưởng của
Đạo giáo trong việc thờ Nữ thần. Quá trình di dân của người Việt
vào phía Nam cũng là quá trình người Việt Việt hóa các Mẫu
thần của cư dân bản địa để vào đến Nam Bộ trở thành tín ngưỡng
thờ Bà Chúa Xứ. Các loại miếu thuộc nhóm này gồm: miếu Bà
Chúa Xứ, miếu Thủy Long thần nữ, miếu Ngũ Hành Nương
Nương
- MiếuThổ thần: Tín ngưỡng thờ đất là dòng chảy văn hóa
vào phương Nam hội tụ với những nét tín ngưỡng bản địa và tín
ngưỡng của người Hoa tạo nên một sự tích hợp thần linh trong
tín ngưỡng dân gian. Miếu Thổ thần là loại miếu phổ biến nhất
được xây dựng ở bờ sông hoặc trong khuôn viên gia đình.
- Miếu Thành hoàng: tín ngưỡng thờ Thành Hoàng gắn
liền với thiết ch
ế đình làng nhưng ở Cà Mau vì số đình quá ít,
nên người ta lập miếu thờ Thành Hoàng bổn cảnh thay cho ngôi
đình làng.
- Miếu Ông Tà: Người Việt ở Nam Bộ tiếp thu tục thờ
cúng Néak-ta của người Khơme trên nền tín ngưỡng thờ đá trước
đây của mình. Số lượng miếu Ông Tà ở Cà Mau tương đối ít.
2.2.4. Các đối tượng khác thờ trong miếu:Ngoài đối tượng
chính, các đối tượng khác được thờ gồ
m: Cửu Thiên Huyền Nữ,

10

Bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Tổ Cô, Tiên sư, chiến sĩ trận vong,
thần Hổ, Tả ban - Hữu ban.
2.1.5. Sinh hoạt thờ cúng trong miếu: Tổ chức và nghi
thức cúng ở miếu là sự sao chép việc cúng đình ở các đình làng.
Trước kia, đi đôi với nghi lễ cúng bái ở những ngôi miếu thờ Nữ
thần thường có tổ chức múa bóng và hát bội.
2.2. LĂNG THỜ CÁ VOI
2.2.1.Khái niệm lăng và lăng thờ cá voi: Lăng là n
ơi chôn
cất hài cốt, thường là hài cốt của các quan chức của triều đình.
Cá voi với danh nghĩa là đại tướng của triều đình (Nam Hải Đại
Tướng Quân) nên khi chết cũng được xây dựng lăng mộ.
2.2.2.Điều kiện hội nhập tín ngưỡng thờ cá voi: Biển Cà
Mau rất dồi dào về trữ lượng thủy hải sản, điều kiện thời tiết
thu
ận lợi; cư dân nơi đây đã quen thuộc với sự biến động của
biển rừng và điều kiện cư trú ổn định nhất là khai thác được
nguồn nước ngọt phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
2.2.3.Thần tích cá voi: Các nhà nghiên cứu cho rằng tín
ngưỡng thờ cá voi là tín ngưỡng phổ biến của các cư dân Đông
Nam Á, cá voi cũng là đối tường thờ của người Việt v
ới các
miếu, lăng thờ ven biển từ Bắc đến Nam Bộ. Quá trình giao thoa
văn hoá Việt-Chăm đã có sự chuyển hoá lẫn nhau trong cách
thức thờ cúng của mình để trở thành tín ngưỡng thờ cá voi như
hiện nay.
Vùng biển Cà Mau, các ngư dân ngư phủ cũng thường kể
các câu chuyện về cá voi mang ý nghĩa thực tiễn và được phổ
biến theo hình thức truyền miệng.
2.2.4. Những địa điể

m thờ cúng cá voi ở Cà Mau: Cá voi
được thờ cúng ở các lăng thờ và miếu thờ gồm có: lăng thờ cá

11
voi tại thị trấn Ông Đốc, lăng thờ cá voi tại Đá Bạc, lăng cá voi ở
Rạch Chèo, miếu thờ tại cửa biển Khánh Hội.
2.2.5. Sinh hoạt thờ cúng cá voi
- Đám tang cá voi: Người thấy xác cá đầu tiên phải chịu
trách nhiệm chính trong tang lễ, phải mặc tang phục và thực hiện
hành vi tang lễ, chôn cất và để tang trong ba năm. Sau đó làm lễ
thỉnh ngọc cốt tức lấy xương cốt cá lên
đặt trong nhiều chiếc
quan tài lớn di chuyển vào chùa.
- Lễ hội Nghinh Ông ở thị trấn Ông Đốc: Lễ hội được thực
hiện hàng năm vào ngày 14 đến ngày 16 tháng hai âm lịch. Xuất
phát từ lăng, đoàn rước lư hương đi tới bến tàu để lên nhà Thủy
lục (chiếc tàu được chọn thường là chiếc tàu to nhất, đánh bắt
trúng mùa nhất), sau đó thẳng tiến ra biển. Khi đi đế
n vùng nước
sâu thì dừng lại xin keo thỉnh Ông về lăng. Lúc nửa đêm là lễ
cúng tế do hương văn điều khiển. Đến 14 giờ chiều hôm sau là
kết thúc lễ hội. Song song với sinh hoạt cúng tế, bên ngoài lăng
người ta thường tổ chức các trò chơi dân gian, đờn ca tài tử…
2.2.6. Nhận xét
- Điểm tương đồng so với lễ hội ở vùng biển miền Trung
và Nam Bộ là sự suy tôn, h
ướng đến sự cao cả được tôn lên
thành giá trị xã hội; một số các nghi thức cúng tế, hình thức nghi
lễ từ khi phát hiện cá chết cho đến việc để tang, cúng tế cá voi và
cúng lễ hàng năm có phần giống nhau.

- Những nét khác biệt: Tín ngưỡng thờ cúng cá voi nhập
cư vào Cà Mau tương đối muộn, sự phối tự rất đơn giản. Thời
gian tổ chức lễ hội ở Cà Mau không phải là ngày kỵ cơ
m cá Ông.
Hình thức hát bả trạo, lắc thúng không được thực hiện tại Cà
Mau.

12
Chương 3
CUNG THỜ BÀ THIÊN HẬU

3.1.TIỂU SỬ VÀ THẦN TÍCH BÀ THIÊN HẬU
Bà Thiên Hậu là nhân vật có thật ở Trung Hoa họ Lâm tên
Mặc, sinh ngày 23 tháng 3 năm Canh Thân(năm 960 dương lịch),
người làng Mi Châu, huyện Phổ Điền, phủ Hưng Hoá tỉnh Phúc
Kiến, lúc sinh thời Bà có nhiều khả năng kỳ diệu làm nhiều
người kính nể và thán phục. Khi qua đời Bà được dân chúng tôn
vinh như một vị thần rất linh thiêng đặc biệt
đối với các ngư dân
ngư phủ. Có nhiều truyền thuyết viết và kể về Bà với những nội
dung không hoàn toàn giống nhau.
3.2. CUNG THỜ VÀ MỘT SỐ CUNG THỜ TIÊU BIỂU
Cung có nghĩa là chỗ ở lớn, là nơi ở của các bậc hoàng
thân quốc thích trong hoàng triều. Hậu là vợ của vua. Như vậy
Thiên Hậu Cung là nơi ở của vợ ông trời. Bà Thiên Hậu được
sánh ngang với trời đất. Tuy nhiên các ho
ạt động thờ tự diễn ra ở
nơi đây cũng chỉ là hoạt động thờ Nữ thần như trong các miếu
thờ.
3.3. TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ THIÊN HẬU

3.3.1. Tổ chức của người Hoa và hoạt đông thờ tự
Thành phố Cà Mau gồm năm bang: Triều Châu, Phúc
Kiến, Quảng Đông, Hẹ và Hải Nam. Năm bang này thống nhất
với nhau thành một tổ chức được mang tên Ngũ
Nghĩa Đường do
hội trưởng Lý sự hội Cà Mau đảm trách.
3.3.2. Các cung thờ Bà Thiên Hậu ở Cà Mau
Không có bằng chứng rõ ràng về thời điểm xây dựng các
cung thờ, chỉ biết rằng cung Thiên Hậu ở thành phố Cà Mau đã

13
trải qua ít nhất hai lần trùng tu là vào năm 1903 và năm 1928.
Người ta tương truyền rằng: Đầu tiên, người Hoa gốc Hải Nam
xây dựng Thiên Hậu miếu, sau này ngôi miếu bị sụp đổ, nhóm
người Hoa gốc Phước Kiến xây dựng lại qui mô rộng lớn hơn
mang tên Thiên Hậu cung.
Kết cấu chung bên trong của một cung thờ (lấy cung thờ
Cà Mau làm chuẩn) là hương án và bài vị của Bà Thiên Hậu
(giữa), Phướ
c Đức (trái), Thành Hoàng (phải). Hai bên chánh
điện là phù điêu long - hổ, chiêng trống ở hai bên, một kệ tủ
đựng các hộp giải xăm. Bên ngoài ở giữa sân là bàn thờ Thiên
phụ-Địa mẫu, bên trái là miếu thờ Hỏa Đức nương nương.
- Cung thờ ở thị trấn Ông Đốc: Trong nội điện phối tự
thêm hai vị thần Thuận Phong Nhĩ và Thiên Lý Nhãn, bên ngoài
xây dựng một khuôn viên riêng thờ Phật Bà Nam Hải với các yếu
tố biển như cá chép, cá hóa long.
- Cung thờ ở Thới Bình: Trong nội điện phối tự Tiền hiền-
Hậu hiền, Quan Thánh Đế Quân, Phật Bà Quan Âm, đặc biệt là
không phối tự thần Thành hoàng. Phía trước sân, bên trái là miếu

thờ Ông Tà thay vì Hỏa Đức nương nương như ở những cung thờ
khác.
- Cung thờ ở xã Phú Hưng huyện Cái Nước: Bên ngoài
cung sát gốc cây cổ thụ có bố trí miếu thờ các Chư vong.
- M
ột vài so sánh về sự phối tự: Những vị thần như Bà
chúa Thai Sinh - Bảo sản, Tài bạch tinh quân được phối tự trong
cung thờ ở miền Trung nhưng ở Cà Mau từ lâu đã trở thành các
gia thần. Vị trí các thần Thành hoàng, Quan Thánh, Hỏa Đức,
Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ có sự thay đổi tùy từng
cung thờ do đặc điểm địa lý, đặc điểm cộng đồng.

14
3.4. HOẠT ĐÔNG THỜ TỰ TRONG NĂM
Một năm có 13 ngày lễ, các ngày lễ này vừa có nét riêng
của tín ngưỡng vừa tích hợp với Phật giáo và các tín ngưỡng
khác như cúng vía Ngọc Hoàng, thần Hổ, thần Nông…
3.4.1. Lễ cúng nghênh tiếp Thánh Mẫu hồi cung: Lúc 22
h

30, mùng ba tết, lý sự hội làm thủ tục xin keo, nếu xin được keo,
chủ lễ hô khẩu lệnh “Thiên Hậu Thánh Mẫu hồi loan”.
3.4.2. Lễ cúng vay lộc Bà: Ngày rằm tháng giêng âm lịch
người Hoa tổ chức hình thức cho vay tiền Bà. Ban tổ chức ghi
danh tánh và số tiền (từ 200 đến 1.000 đ) của người vay vào sổ
3.4.3. Lễ cúng vía Bà (ngày 23 tháng 3 âm lịch): Chiều
ngày 22, trong khu vực thờ tự diễn ra nghi thức treo mũ áo mới
(bằng giấy) khá độc
đáo. Ngày 23 tháng 3 âm lịch là ngày chính
của lễ hội, khởi là đám rước bắt đầu từ Đồng tâm cổ nhạc xã đi

đến Giác Thiền tự rồi đi đến Quan Đế miếu sau đó trở về cung.
Buổi tối của ngày lễ, trong sân của cung thờ các hoạt động văn
nghệ quần chúng của người Hoa được tổ chức đến 12 giờ.
3.4.4. Lễ cúng rằm tháng bảy: Vào ngày cuối cùng củ
a
tháng sáu người ta lập bàn thờ cúng ông Tiêu để làm lễ mở cửa
ngục, Ngày rằm tháng bảy, ban trực lý, lý sự hội tổ chức cúng
chay tại bàn thờ ông Tiêu và tổ chức phát chẩn.
3.4.5. Lễ cúng cuối năm: Cộng đồng người Hoa thường
làm lễ đưa tiễn thần linh về trời vào ngày 24 tháng chạp và tổ
chức bàn giao giữa ban trực lý cũ và các ban trực lý mới.



15
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA
MIẾU, LĂNG VÀ CUNG THỜ

4.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
4.1.1. Miếu là đơn vị thờ tự đầu tiên của cộng đồng lưu
dân khai phá vùng đất mới: Trước những khó khăn thử thách của
vùng đất mới, điều mà lưu dân có thể làm được là xây dựng các
miếu thờ thần bằng tất cả
những gì có được với khả năng trong
tay để làm chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng. Sau này, một số
miếu đặc trưng khi đầy đủ điều kiện đã thay đổi hình thức: miếu
Bà Thiên Hậu trở thành Thiên Hậu cung, miếu cá voi trở thành
lăng Ông. Khảo sát miếu thờ ở Cà Mau ngày hôm nay, cho phép
ta hình dung được đời sống tâm linh của những người lưu dân

một thời xa xưa đã đến
đây khai phá vùng đất mới.
4.1.2. Sự biến đổi tín ngưỡng: Khi vào khu vực Cà Mau,
tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Hậu bị mất dần tính chất
ban đầu mà bị biến đổi do áp lực về yếu tố địa lý và tộc người.
Cộng đồng người Hoa ở thị trấn Ông Đốc tương đối đông
và có đời sống kinh tế phát triển, do áp lực từ yếu tố trội trong tín
ng
ưỡng thờ Quan Công của tộc người Hoa, người ta đưa thêm
yếu tố Quan Đế vào lăng thờ cá voi. Trong khi đó, cộng đồng
người Hoa ở Thới Bình rất ít, người Việt và Khơme đa số thì
Thành hoàng về với đình làng, miếu Ông Tà thay thế cho miếu
Hỏa Đức nương nương.
4.1.3. Sự độc tôn của Bà Chúa Xứ trong miếu và Bà Thiên
Hậu trong cung thờ: Bà Chúa Xứ và Bà Thiên Hậu là hai vị Nữ
thần có vị trí t
ối thượng trong tâm thức cư dân Cà Mau. Quá trình

16
khảo sát cho thấy: trong miếu Bà Chúa Xứ, cung thờ Bà Thiên
Hậu thì không có nhân vật nào thứ hai quan trọng hơn (ngay cả
Phật Bà Quan Âm), ngược lại, người ta không phối tự hai vị thần
này vào nơi thờ tự khác (điều này chưa hẳn đúng với các địa
phương khác).
4.1.4.Tính thực tế: Ở Cà Mau, vị trí xây dựng với miếu,
lăng và cung thờ ở Cà Mau cũng đủ nói lên tính thực tế.
Miếu thờ
thường được xây dựng ở ngã ba sông vừa tạo sự
thuận lợi cho mỗi cá nhân khi ra vào xóm ấp và thực hiện hành vi
thờ tự của mình vừa thuận lợi cho cộng đồng khi tổ chức cúng

bái, đồng thời vị trí này cũng khẳng định được phạm vi bước
vào địa giới một xóm ấp. Miếu thờ ở đây có vai trò giống như
của một cổng làng ỏ miền Bắ
c, miền Trung.
Sinh hoạt khai thác đánh bắt hải sản là vùng ven biển, do
đó việc xây dựng lăng thờ phải đáp ứng yêu cầu này cho ngư phủ
trước khi ra khơi và đáp ứng nhu cầu lễ hội khi thực hiện việc
nghinh thỉnh Ông từ biển vào lăng.
Cung thờ Bà Thiên Hậu luôn ở vị trí trung tâm của thị trấn,
thị tứ đáp ứng nhu cầu chính là kinh doanh thương mại. Mặc dù
cung th
ờ Bà Thiên Hậu và lăng thờ cá voi cũng cùng ở thị trấn
Ông Đốc nhưng vị trí của lăng thì ở ven biển trong khi vị trí cung
thờ ở ngay trung tâm chợ.
Bên trong những thiết chế này, những hình thức tín
ngưỡng được cộng đồng thực hiện cũng đều mang tính thực tế.
Người ta thờ “Chúa Xứ Nương Nương”; “Sơn Lâm Chủ Tướng”,
“Thiên Hậu Thánh Mẫu”, “Thủy Long Thần Nữ”, thầ
n Tài , thần
Đất được phối tự trong các miếu, lăng và cung thờ đều có mục
đích cụ thể.

17
4.1.5. Tính hỗn dung tín ngưỡng: Sự hỗn dung trong tập
tục thờ cúng ở các miếu thờ rất phổ biến và phức tạp, vấn đề này
có thể khái quát như sau:
Có sự hỗn dung về đối tượng thờ: tín ngưỡng thờ Nữ thần
của người Việt và người Hoa; tín ngưỡng thờ đá của người
Khơme(Ông Tà); tín ngưỡng liên quan đến nghề nghiệp, môi
trường sinh sống (thần Thủ

y, thần Hỏa, thần Nông).
Tính hỗn dung còn thể hiện ở nhiều góc độ:
- Nhìn ở góc độ dân tộc học, ta thấy có sự hỗn dung tín
ngưỡng của cả ba dân tộc: Việt (thờ Tổ Cô, Chúa Xứ…), Hoa
(Quan Công, Thiên Hậu) và Khơme (Ông Tà).
- Nhìn ở góc độ tôn giáo tín ngưỡng, ta thấy ở đây lại có
sự hội tụ của cả ba tôn giáo: Phật, Nho (thứ bậc) và Đạo (nữ
thần). rất rõ nét.
4.1.6. Tính trội c
ủa tín ngưỡng thờ Mẫu: Kết quả khảo sát
ở Cà Mau, miếu cộng đồng có số lượng nhiều nhất là miếu Bà
Chúa Xứ (28 miếu) và miếu Bà Thủy Long (05 miếu). Trong khi
đó miếu Thành hoàng chỉ có bốn miếu.
Miếu Bà Chúa Xứ ở huyện Thới Bình có mật độ miếu
nhiều hơn các nơi khác vì vùng đất này xưa kia đã từng là nơi ẩn
náu của quan quân Nguyễn Ánh trong giai đoạn giao chiến vớ
i
Tây Sơn, khi trú ẩn tại đây, ông đã để lại rất nhiều cung tần, mỹ
nữ, và họ buộc phải định cư kéo theo các thế hệ đến ngày nay.
(hiện nay các tên sông, tên rạch đều có tên của các bà như: rạch
Bà Đặng, rạch Bà Móp, rạch Bà Hội…). Có lẽ vì các bà có vị trí
ưu thế trong xã hội cho nên những tập tục, những tín ngưỡng
thiên về các bà có vai trò nổi trội hơn, đặc biệt là những yế
u tố

18
của Đạo giáo rất phù hợp với nữ giới qua việc thờ Nữ thần cùng
với các hình thức như lên đồng, múa bóng.
Đối với lăng và cung thờ, sự hiện diện của Nữ thần cũng
bộc lộ tính trội của tín ngưỡng thờ Mẫu qua việc phối tự các Nữ

thần Hỏa Đức nương nương, bàn thờ Địa Mẫu ở các cung thờ,
miế
u thờ Thủy Long thần nữ ở lăng Ông.
4.2. VAI TRÒ CỦA MIẾU, LĂNG VÀ CUNG THỜ TRONG
CỘNG ĐỒNG
4.2.1. Góp phần điều hòa các mối quan hệ xã hội: Sự uy
linh của thần thánh có tác dụng làm giảm bớt đi những hành vi
gian trá, lừa dối, trộm cắp Người ta có thể qua mặt mọi người
nhưng không thể che dấu được lương tâm. Thần linh trong các
miếu, lăng và cung thờ là sự hiện diệ
n thường trực có tác dụng
như một lời cảnh báo, nhắc nhở đối với lương tâm của con người
trên thế gian.
4.2.2. Góp phần tích cực vào các hoạt động xã hội: Miếu,
lăng và cung thờ thực hiện chức năng xã hội của mình. Là nơi tập
trung cộng đồng nên miếu, lăng và cung thờ là nơi huy động các
nguồn lực để thực hiện các hoạt động xã hội một cách d
ễ dàng và
mang tính dân chủ.
4.2.3. Tạo lại trạng thái cân bằng trong tâm lý con người:
Cuộc sống thực tại vốn mang nhiều rủi ro bất trắc xảy đến từ
những thiên tai, chiến tranh, địch họa, những tai nạn bất ngờ
cướp đi sinh mạng, tài sản làm tàn phế cả một cuộc đời. Người ta
đến với thần linh để đạt được tâm lý an tâm, hoặc giải tỏa những
ẩn
ức không tâm sự được cùng ai.

19
4.3. GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA MIẾU, LĂNG VÀ CUNG THỜ
4.3.1. Giá trị nhân văn: Tính nhân văn trong tập tục thờ

cúng thể hiện ở việc đền ơn thần thánh bằng những phẩm vật cần
thiết tương ứng với lời nguyện ước. Mặt khác, tín ngưỡng trong
nơi thờ tự có một tác dụng góp phần xây dựng đạo đức xã hội,
điều chỉnh nhân cách giúp con người cư
xử với nhau nhân ái hơn
hiếu nghĩa với tổ tiên, nhân nghĩa trong đối xử với đồng loại.
4.3.2. Giá trị cộng đồng: Hành vi cúng bái trong miếu,
lăng và cung thờ vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính cộng
đồng. Mọi người trong cộng đồng đều có nghĩa vụ tham gia vào
việc cử hành nghi lễ, không kể sang hèn, tuổi tác, giới tính, đồng
thời cũng được hưởng những quyền lợi do cộng đồng mang lại.
4.4. V
ẤN ĐỀ QUẢN LÝ MIẾU, LĂNG THỜ CÁ VOI VÀ
CUNG THỜ BÀ THÊN HẬU
4.4.1. Xu hướng biến đổi hiện nay
- Việc trùng tu tôn tạo và ngay cả việc phát sinh những
miếu thờ mới ở địa phương hiện nay là thực trạng rất phổ biến và
điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền. Bên cạnh đó,
đang có xu hướng tái hiện hình thức múa bóng.
- Một số hiện tượng có xu hướ
ng Hoa hóa trong lăng thờ:
Đó là xu hướng thỉnh hoặc đấu giá thánh đăng để gây quỹ và việc
tổ chức cải tạo miếu Bà Thủy Long giống như hình thức thiết chế
tín ngưỡng của người Hoa. Một hiện tượng mới nữa là đưa thêm
hình thức hát bả trạo vào sinh hoạt cúng tế.
4.4.2. Ý kiến đề xuất
- Cần xem xét lại việc quản lý nhà nước trong xây dựng
thi
ết chế tín ngưỡng ở địa phương.


20
- Cần tổ chức cuộc hội nghị hoặc hội thảo khoa học về
múa bóng để nâng cao nhận thức cho người quản lý.


KẾT LUẬN

Trong sự phát triển của người Việt ở Nam Bộ vào khoảng
thế kỷ XVI, một bộ phận lưu dân đã đến vùng đất Cà Mau định
cư ở vùng ven sông rạch và ven biển. Bên cạnh đó lưu dân người
Hoa c
ũng đã định hình địa bàn cư trú của mình ở vị trí trung tâm
thị tứ, thị trấn. Sự cộng cư của cộng đồng ba dân tộc Việt, Hoa,
Khơme đã xây dựng nên những sắc thái văn hóa đặc thù. Do đó,
việc sưu tầm và nghiên cứu văn hóa truyền thống của cư dân Cà
Mau là việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, để nghiên cứu toàn cảnh
văn hóa ở khu vực Cà Mau thì bước
đầu phải đi vào từng thành
tố văn hóa cụ thể mà tín ngưỡng là một trong những biểu hiện rõ
nét nhất của văn hóa địa phương được cư dân thực hiện trong các
cơ sở thờ tự.
1- Với điều kiện địa lý đặc thù của vùng bán đảo chứa
đựng nhiều tiềm năng cho sự sống của các loài động thực vật,
khu vực bán đảo Cà Mau đã t
ừng là điểm hấp dẫn đối với các lưu
dân đến từ nhiều vùng miền kể cả người Hoa. Các yếu tố mở về
địa lý, kinh tế, chính trị đã nhanh chóng thu hút nhiều lớp lưu dân
đến định cư để rồi sau đó hình thành nên một cộng đồng xã hội
gồm cộng đồng ba dân tộc Việt, Hoa, Khơme ước tính trên ba
trăm năm. Địa hình đặc thù của vùng sông nước nh

ất là yếu tố
thủy triều đã qui định địa bàn cư trú và từ đó hình thành nên cách
thế ứng xử của người dân địa phương và do đó, vị trí các cơ sở

21
thờ tự được xây dựng ở đây cũng phải đáp ứng theo điều kiện
của môi trường tự nhiên.
Vì là vùng đất cuối cùng của công cuộc khẩn hoang Nam
Bộ nên cơ cấu xã hội theo hình thức phong kiến của triều đình
nhà Nguyễn không được thực thi một cách trọn vẹn ở Cà Mau.
Thiết chế đình làng (kể cả chùa chiền, thánh thất …) rất ít so với
diệ
n tích của địa bàn Cà Mau. Cho nên để bù đắp vào sự thiếu
hụt này người ta đã xây dựng những miếu thờ thần ở ven sông,
ven biển, đồng thời tiếp nhận một cách nhanh chóng các tín
ngưỡng của cộng đồng người Hoa. Đây là điểm đặc thù đối với
tình hình tín ngưỡng ở địa phương.
2- Đối với cư dân vùng sông nước, người ta xây dựng
những ngôi miếu trên địa bàn cư trú của mình
để đáp ứng nhu
cầu tâm linh và là nơi tập trung sức mạnh của cộng đồng. Những
ngôi miếu thường được xây dựng ở vị trí ngã ba sông, nơi hợp
lưu dòng chảy của một con sông cái với một con sông nhỏ đi vào
một xóm ấp. Chính vị trí ngã ba sông này là nơi thường xảy ra tai
nạn đắm thuyền vì khi có sự chênh lệch về dòng triều thường tạo
ra hiện tượng dòng nước xoáy rất nguy hiể
m đến tài sản và tính
mạng của người dân, họ thường lập miếu ở đây để cầu sự phù hộ
của thần linh. Hơn nữa, vị trí này thường là nơi khởi đầu để đi
vào một xóm ấp bên trong, những ngôi miếu này có tác dụng như

cổng chào khi đi vào đình làng miền Bắc.
Sự khiếm khuyết các ngôi đình là nguyên nhân dẫn đến
việc xây dựng những ngôi miếu có c
ấu trúc và sinh hoạt tín
ngưỡng giống như ở đình làng. Các bài văn tế, các danh xưng
trong ban trị sự của miếu không khác gì ở đình. Có những ngôi

22
có miếu kết cấu đầy đủ như ngôi đình nhưng vẫn gọi là miếu vì
không có sắc phong.
Kết quả khảo sát miếu thờ ở bốn đoạn sông cho thấy miếu
thờ Mẫu chiếm số lượng vượt trội trong khi miếu Thành Hoàng
và miếu Ông Tà có số lượng khiêm tốn hơn. Sự kiện này một lần
nữa khẳng định vị trí ưu trội yếu t
ố nữ trong tâm thức của người
Việt Nam. Đây chính là một trong những hằng số của văn hóa
Việt Nam: NGUYÊN LÝ MẸ.
Một bộ phận cư dân ven biển đã xây dựng lăng thờ ở Cà
Mau tương đối muộn. Trước khi có lăng, tín ngưỡng thờ cá voi
được thực hiện ở những ngôi miếu với hài cốt cá. Khi điều kiện
xã hội ổn định, ngư dân ngư
phủ ở đây mới xây dựng lăng thờ
cùng với hệ thống nghi lễ dần dần được định hình mà đỉnh cao là
lễ hội Nghinh Ông được tổ chức hàng năm vào ngày 15 tháng 2
âm lịch. Sự tiếp thu tín ngưỡng thờ cá voi cũng diễn ra theo trình
tự: tiếp nhận, sàng lọc và định hình. Do đó, tín ngưỡng thờ cá voi
ở Cà Mau vừa mang nét chung cuủa vùng duyên hải vừa mang
nét riêng của vùng biển địa phương.
3- Tín ngưỡng th
ờ Bà Thiên Hậu được du nhập cùng với

cuộc di dân người Hoa vào Cà Mau theo con đường biển. Sự lan
tỏa của tín ngưỡng này từ ven biển vào trong đất liền và thấm sâu
vào nhiều vùng dân tộc, vùng sinh sống khác nhau. Đặc điểm nổi
trội của tín ngưỡng này là có sự thích nghi, biến đổi theo đặc
điểm của từng vùng cụ thể, cho nên các cung thờ ở địa phương
có sự phối tự khác nhau. Trên nền tảng của m
ột xã hội trọng nữ,
tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu đã nhanh chóng được tiếp nhận bởi
cộng đồng người Việt, người Khơme và họ thực hành tín ngưỡng
này như tín ngưỡng của tộc người mình.

23
4- Khi mới du nhập, lăng và cung thờ đều khởi sự bằng
hình thức miếu thờ. Khi đủ điều kiện, người ta cải tạo miếu thành
lăng thờ cá voi và cung thờ Bà Thiên Hậu. Điều này cho thấy
miếu thờ là đơn vị thờ tự đầu tiên của cộng đồng lưu dân khai
phá vùng đất mới.
Đặc điểm nổi trội của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ
và Bà
Thiên Hậu ở Cà Mau là sự độc tôn trong các miếu và cung thờ.
Hơn nữa, khi lan tỏa vào từng vùng miền, từng cộng đồng dân
tộc cụ thể nó có sự thích nghi và biến đổi rõ nét. Điều này nói lên
tính bất biến và khả biến trong cùng một hiện tượng văn hóa.
5- Các hình thức tín ngưỡng được thờ trong miếu, lăng và
cung thờ đã tạo ra nhiều hệ quả xã hội tích cực, tạo sự cố k
ết
cộng đồng, tạo ra sự điều hòa các mối quan hệ xã hội và thực sự
đã đóng góp nhiều cho các hoạt động xã hội. Một số tính chất
của miếu, lăng, cung thờ như tính cộng đồng, tính hỗn dung, tính
trội của tín ngưỡng thờ Mẫu… cho thấy tính thống nhất và đa

dạng trong các tập tục và hình thức thờ cúng.
Miếu, lăng và cung thờ là nơi hội t
ụ những giá trị văn hóa.
Bản thân sự tồn tại của các nơi thờ tự này cũng đã nói lên giá trị
của nó trong cộng đồng vì đã đáp ứng được những nhu cầu mà xã
hội đòi hỏi. Sự hội tụ các tín ngưỡng của nhiều vùng miền, nhiều
dân tộc vào trong các miếu, lăng và cung thờ ở Cà Mau thể hiện
tính hòa đồng, khoan dung của người Việt Nam, có sự chấp nh
ận
văn hóa Việt và văn hóa khác Việt trong cùng một không gian
thờ tự. Ở một phương diện khác, đây cũng là tính đa nguồn trong
các hình thức tín ngưỡng: Một mặt, sự hiện diện các đặc trưng
của văn hóa sông ngòi, văn hóa biển và văn hóa thành thị. Mặt
khác, ở nơi đây cũng hội tụ nguồn gốc tín ngưỡng văn hóa của ba

×