Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.9 KB, 17 trang )



đại học quốc gia h nội
khoa luật



chu thị trang vân





hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát
v tòa án Việt Nam

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật
M số : 62 38 01 01




tóm tắt luận án tiến sĩ luật học



h nội - 2009




Công trình đợc hoàn thành
tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội





Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TSKH Lê Văn Cảm



Phản biện 1: PGS.TS Thái Vĩnh Thắng
Trờng Đại học Luật Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh
Viện Nhà nớc và Pháp luật
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn
Bộ T pháp

Luận án đợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nớc tại
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2009.




Có thể tìm hiểu luận án tại Th viện Quốc gia
và Trung tâm t liệu - Th viện Đại học Quốc gia Hà Nội




danh mục các công trình khoa học
của tác giả đ công bố liên quan đến luận án
1. Chu Thị Trang Vân (2003), "Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phơng diện là những
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án nhân dân", Khoa học, (Chuyên san Kinh tế
- Luật), (3), tr. 60-67.
2. Chu Thị Trang Vân (2003), "Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phơng diện là những
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án nhân dân", Khoa học, (Chuyên san Kinh tế
- Luật), (4), tr. 73-81.
3. Chu Thị Trang Vân (2005), "Về cơ chế điều chỉnh pháp luật", Khoa học, (Chuyên san Kinh tế - Luật),
(2), tr. 35-41.
4. Chu Thị Trang Vân (2005), "Về áp dụng pháp luật trong các trờng hợp không xử lý hình sự", Nhà nớc
và pháp luật, 8(208), tr. 68-75.
5. Chu Thị Trang Vân (2006), "Về áp dụng pháp luật tơng tự", Khoa học (Chuyên san Kinh tế - Luật),
(2), tr. 31-37.
6. Chu Thị Trang Vân (2006), "Đặc trng của áp dụng pháp luật hình sự", Nhà nớc và pháp luật, 3(215),
tr. 54-60.
7. Chu Thị Trang Vân (2006), "Tiếp cận quyền lực t pháp và việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án từ
góc độ lịch sử", Nhà nớc và pháp luật, 10(222), tr. 47-51
8. Chu Thị Trang Vân (2007), "Sự phân công quyền lực t pháp trong áp dụng pháp luật hình sự", Nhà nớc
và pháp luật, 5(229), tr. 28-35.
9. Chu Thị Trang Vân (2007), "Sự sáng tạo của Tòa án trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự", Nghiên
cứu lập pháp, (Số chủ đề Hiến kế lập pháp), 27(106), tr. 46-49.
10. Chu Thị Trang Vân (2008) Không xử lý hình sự: Chính sách, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, Đề tài
cấp Đại học Quốc gia, mã số QL.06.04, (Chủ nhiệm đề tài), nghiệm thu đạt loại Tốt (Quyết định
nghiệm thu 1373/QĐ-KHCN ngày 11/04/2008 của Giám đốc Đại học Quốc gia).
1
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các hình thức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật (ADPL) là hình thức

thực hiện pháp luật đặc biệt, là hoạt động phổ biến của các cơ quan nhà nớc trong
việc thực hiện các chức năng của mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận
và thực tiễn. Trong điều kiện xây dựng một Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN), tất cả những hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật đợc thực hiện, trong đó
bao gồm cả ADPL có tầm quan trọng đặc biệt. Suy cho cùng, pháp luật chỉ phát huy
đợc hiệu lực, chính sách và đờng lối của Đảng và Nhà nớc chỉ có thể đợc thực
hiện khi mà pháp luật, đờng lối và chính sách đó đợc thể hiện trong hoạt động thực
tế của bộ máy nhà nớc, trong đời sống hàng ngày, hàng giờ của mọi công dân. Là
một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt mang tính tổ chức và quyền lực nhà nớc,
ADPL do các cơ quan nhà nớc thực hiện để bảo đảm cho pháp luật đợc thi hành mà
không phụ thuộc vào tính tự giác, tự thực hiện của các chủ thể khác trong xã hội.
Thông qua hoạt động ADPL, các quy phạm pháp luật tìm thấy sự liên kết vững chắc
với đời sống xã hội để chuyển hóa những yêu cầu chung vào những quan hệ xã hội cụ
thể. Chính vì vậy, hoạt động ADPL nói chung có những ảnh hởng và tác động sâu sắc
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đối với xã hội, hình ảnh thực tế của pháp luật đợc
nhìn thấy thông qua chính các hoạt động ADPL cụ thể.
Trong số các hoạt động ADPL, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự (PLHS) của Cơ
quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án có vị trí và ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Không giống nh trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hoạt động
áp dụng PLHS thoạt nhìn dờng nh không có những tác động xã hội rộng lớn bởi nó
chỉ liên quan từng cá nhân cụ thể. Tuy nhiên, không phải mọi giá trị đều đợc bảo vệ
bằng PLHS. PLHS chỉ bảo vệ những giá trị mà nhà nớc coi là quan trọng nhất đối với
sự phát triển chung của xã hội. Chính vì vậy, là hoạt động chuyển hóa các quy định
của PLHS, hoạt động áp dụng PLHS thực sự lại có những tác động xã hội sâu sắc. Việc
áp dụng PLHS đúng đắn một mặt bảo đảm việc trừng trị đúng ngời, đúng tội, đúng
pháp luật, bảo đảm cho tính toàn vẹn của những giá trị lớn lao mà PLHS bảo vệ, mặt
khác, có ý nghĩa giáo dục và răn đe chung đối với toàn xã hội. Ngợc lại, việc áp dụng
PLHS không đúng đắn không chỉ ảnh hởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất
của công dân, của con ngời mà còn làm xói mòn niềm tin của mỗi ngời dân vào tính
nghiêm minh và công bằng của pháp luật. Cũng chính vì vậy mà trong số các hoạt

động ADPL, áp dụng PLHS luôn đợc đặt trong những giới hạn khắt khe nhất về nội
dung và thủ tục.
Trong những năm qua, hoạt động áp dụng PLHS đã có những đóng góp quan trọng
trong việc bảo vệ sự phát triển bình thờng của xã hội trớc sự tấn công của các hành
vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt đợc, nhiều hạn chế vẫn còn tồn
tại và chậm đợc khắc phục. Nỗi lo lắng trớc thực tế vẫn còn những kẻ phạm tội cha
bị trừng trị và câu chuyện của những ngời bị oan sai là sự nhắc nhở thờng trực về
trách nhiệm phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS của các
CQĐT, VKS và Tòa án. Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đó là một trong những nội
dung đợc thể hiện rất rõ nét trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác t pháp trong thời gian tới
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến
lợc cải cách t pháp (CCTP) đến năm 2020. Xuất phát từ lý do nêu trên mà việc đảm
2
bảo cho hoạt động áp dụng PLHS có hiệu quả luôn là một yêu cầu mang tính thời sự,
đòi hỏi phải thờng xuyên đợc nghiên cứu sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
Hiện nay, những công trình nghiên cứu chuyên khảo về lý luận cũng nh thực tiễn
về hoạt động áp dụng PLHS của CQĐT, VKS và Tòa án còn hạn chế, nhất là những
công trình nghiên cứu có tính chất tổng hợp từ góc độ nghiên cứu lý luận liên ngành lý
luận, lịch sử nhà nớc và pháp luật và luật hình sự cho nên cách đặt vấn đề nghiên cứu
của luận án là hết sức cần thiết. Với lý do đó, tôi chọn đề tài "Hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam" làm
đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đây là một đề tài mà nội dung có tính liên ngành, quá trình nghiên cứu cho thấy đề
tài này không trùng lặp với bất cứ đề tài nào do cá nhân thực hiện từ trớc đến nay,
cũng nh do các cơ quan, tổ chức thực hiện ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, đề tài có
thể tham khảo đợc nhiều công trình khoa học có liên quan, đã đợc công bố. Đó là
những công trình dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đã đề cập đến hoạt động áp dụng
PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án ở những khía cạnh khác nhau.

Từ khía cạnh lý luận về hoạt động ADPL nói chung và áp dụng PLHS nói riêng có
các công trình khoa học nh bài viết của tác giả Nguyễn Minh Đoan (2002) "áp dụng
pháp luật - Một số vấn đề cần quan tâm" trên Tạp chí Luật học, Luận án tiến sĩ "Cơ
chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam" của Nguyễn Quốc Hoàn (2002), Luận án tiến sĩ
"áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay"
của tác giả Lê Xuân Thân. Từ góc độ liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ
quan t pháp nhằm thực hiện chức năng điều tra, truy tố, xét xử có các công trình nh
tác giả Trần Huy Liệu (2003) trong luận án "Đổi với tổ chức và hoạt động của các cơ
quan t pháp theo hớng xây dựng Nhà nớc pháp quyền Việt Nam", cuốn sách
chuyên khảo của TSKH Đào Trí úc chủ biên năm 2002 "Hệ thống t pháp và cải cách
t pháp ở Việt Nam hiện nay", Đề tài KX.04.06 thuộc Ch
ơng trình khoa học cấp nhà
nớc do TS. Uông Chung Lu làm chủ nhiệm (2006) về "Cải cách các cơ quan t
pháp, hoàn thiện hệ thống thủ tục t pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của
Tòa án trong Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân". Các
công trình khoa có thể tiếp cận từng nội dung cụ thể của đề tài từ góc độ khoa học luật
hình sự nh Giáo trình lý luận chung về định tội danh của tác giả Võ Khánh Vinh do
Nxb Công an nhân dân xuất bản năm 2003, tác giả Dơng Tuyết Miên (2004) với cuốn
sách "Định tội danh và quyết định hình phạt" của Nxb Công an nhân dân, bài viết
"Một số vấn đề về quyết định hình phạt quy định trong Bộ luật hình sự 1999" của tác
giả Đinh Văn Quế trong Tạp chí TAND năm 2005, sách "Tội phạm và cấu thành tội
phạm" của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa do Nxb Công an nhân dân xuất bản năm 2006.
Một số khác lại tập trung nghiên cứu các vấn đề về tố tụng hình sự (TTHS) nhằm tìm
kiếm những giải pháp hoàn thiện những trình tự, thủ tục TTHS với t cách là thủ tục
của việc áp dụng PLHS. Ngoài ra, các giáo trình Lý luận chung về nhà nớc và pháp
luật, Giáo trình Luật hình sự, Giáo trình Luật TTHS của các cơ sở đào tạo luật và rất
nhiều những công trình khác của các tác giả đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành
luật đã công bố cũng đã ít nhiều đề cập đến một phần nội dung liên quan đến đề tài.
Những công trình nói trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và đặc biệt là Tòa án nớc ta,

phúc đáp những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Trong số đó nhiều kiến giải, luận
điểm khoa học đã đợc vận dụng vào thực tiễn và thu đợc những kết quả khả quan.
3
Tuy nhiên vì các lý do khác nhau nên những công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng
lại từng mặt, từng vấn đề về hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án
nớc ta. Kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học nói trên cũng
nh nhiều bài viết trong các tạp chí và sách chuyên khảo luật trong nớc và nớc
ngoài, luận án đã tiếp cận nghiên cứu đề tài một cách toàn diện về cả lý luận và thực
tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích:
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận án là xây dựng cơ sở lý luận, đánh giá thực
tiễn và đề xuất các giải pháp cơ bản đảm bảo hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS của
các CQĐT, VKS và Tòa án trong giai đoạn hiện nay phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi
của công cuộc CCTP của Đảng và Nhà nớc ta.
* Nhiệm vụ
Để đạt đợc mục đích nói trên, luận án có nhiệm vụ:
+ Trên cơ sở lý luận về hoạt động ADPL làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn khái
niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên tắc của hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT,
VKS và Tòa án Việt Nam.
+ Phân tích các giai đoạn của quá trình áp dụng PLHS và sự tham gia của các
CQĐT, VKS và Tòa án trong quá trình đó để thực hiện chức năng của mình.
+ Xây dựng khái niệm hiệu quả áp dụng PLHS, chỉ ra các tiêu chí đánh giá hiệu
quả và các yếu tố có ảnh hởng, tác động đến hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT,
VKS và Tòa án.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Qua đó, tìm ra những mặt tích cực,
hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế đó.
+ Xác định yêu cầu của chiến lợc CCTP hiện nay ở nớc ta trong việc nâng cao
hiệu quả áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án, trên cơ sở đó đề xuất các giải

pháp định hớng đảm bảo hiệu quả áp dụng PLHS của các cơ quan này, đáp ứng yêu
cầu của CCTP.
* Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp và rộng của vấn đề nên luận án chỉ giới hạn nghiên cứu hoạt động
áp dụng PLHS trong phạm vi các CQĐT, VKS và Tòa án thực hiện chức năng điều tra,
truy tố và xét xử vụ án hình sự. Những hoạt động áp dụng PLHS trong giai đoạn thi
hành án hình sự không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.
Về thực tiễn, luận án giới hạn việc nghiên cứu thực tiễn ADPL hình sự của các cơ
quan nói trên từ năm 1945 đến nay để tìm ra những điểm cơ bản trong thực tiễn đó. Tuy
nhiên, do nguồn dữ liệu đợc lu trữ đôi chỗ không thống nhất nên nhiều giai đoạn lịch sử
có thể khuyết thiếu dữ liệu, đặc biệt là giai đoạn ngay sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Số liệu thực tiễn đợc thống kê cụ thể trong giai đoạn 10 năm trở lại đây (1997-
2007).
4. Cơ sở lý luận và các phơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm
4
trong các giai đoạn lịch sử cũng nh thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý
nh: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nớc và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình
sự, tội phạm học, luật TTHS và triết học, những luận điểm khoa học trong các công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học pháp lý chuyên ngành ở Việt Nam và nớc ngoài.
* Phơng pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận án sử dụng một số phơng pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng
vấn đề tơng ứng, đó là các phơng pháp nghiên cứu nh: lịch sử, so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê, quy nạp và diễn dịch
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Đề tài là công trình chuyên khảo có tính chất liên ngành trong khoa học pháp lý Việt
Nam nghiên cứu toàn diện, có hệ thống và có tính đồng bộ về cơ sở lý luận và thực tiễn

về hoạt động ADPL hình sự của các CQĐT, VKS và Tòa án ở cấp độ một luận án tiến
sĩ luật học, thể hiện là:
- Trên nền tảng lý luận chung về ADPL, đề tài đã luận giải đợc cơ sở lý luận về
hoạt động áp dụng PLHS giới hạn trong phạm vi hoạt động của các CQĐT, VKS và
Tòa án, qua đó phân tích bản chất và nét đặc trng ADPL hình sự và thấy đợc sự khác
biệt giữa hoạt động áp dụng PLHS và hoạt động ADPL trong các lĩnh vực phi hình sự
khác.
- Đề tài phân tích và chỉ ra những mối liên hệ biện chứng giữa hoạt động áp dụng
PLHS và hoạt động thực hiện các chức năng điều tra, truy tố và xét xử của các CQĐT,
VKS và Tòa án Việt Nam và luận giải về sự tham gia của từng cơ quan này trong hoạt
động áp dụng PLHS khi thực thi quyền lực nhà nớc.
- Đề tài phân tích mối quan hệ giữa pháp luật thủ tục và pháp luật vật chất trong
việc hình thành các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động áp dụng PLHS và phân tích nội hàm
của từng nguyên tắc.
- Khái quát một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động áp dụng PLHS của các
CQĐT, VKS và Tòa án Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay,
qua đó đa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở khoa học và thực tiễn (mà không trình
bày theo hớng liệt kê), tìm ra những hạn chế và phân tích nguyên nhân của những hạn
chế trong thực trạng này.
- Trên cơ sở xác định yêu cầu của chiến lợc CCTP hiện nay ở nớc ta trong việc
đảm bảo hiệu quả ADPL hình sự của các CQĐT, VKS và Tòa án, đề tài đã luận giải và
đa ra các giải pháp có căn cứ khoa học, có tính khả thi, phù hợp với yêu cầu của
CCTP.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* V
ề lý luận: Luận án là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đề cập một
cách có hệ thống và tơng đối toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án ở cấp độ một luận án tiến sĩ luật học.
* Về thực tiễn: Luận án góp phần vào việc xác định đúng đắn những nội dung cụ
thể của hoạt động áp dụng PLHS trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các

CQĐT, VKS và Tòa án cũng nh đa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm PLHS
và TTHS ở khía cạnh lập pháp và thực tiễn áp dụng. Những giải pháp mà luận án đa
ra có tính định hớng cho thực tiễn hoạt động của các CQĐT, VKS và Tòa án nhằm
5
nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS của các cơ quan này đáp ứng những yêu
cầu của chiến lợc CCTP quốc gia đến 2020.
Ngoài ra, luận án còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa
học pháp lý, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành lý luận về nhà nớc và pháp luật, TPHS, cũng nh phục vụ cho công tác
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, cũng nh giáo dục, cải tạo ngời phạm tội ở nớc ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục 204 tài liệu tham khảo và 10 phụ lục, nội dung
của luận án gồm 3 chơng, 9 tiết với 188 trang.

Nội dung cơ bản của Luận án
Chơng 1
Cơ sở Lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
cơ quan điều tra, viện kiểm sát v tòa án
Chơng này tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động áp dụng PLHS của
CQĐT, VKS và Tòa án. Cụ thể là trên cơ sở lý luận chung về ADPL đã phân tích làm
rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, các nguyên tắc chủ yếu và hiệu quả của hoạt động
áp dụng PLHS; phân tích làm rõ các giai đoạn của quá trình áp dụng PLHS và sự tham
gia từng CQĐT, VKS và Tòa án trong quá trình đó.
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự
Trong số các hình thức thực hiện pháp luật thì ADPL là một hình thức đặc biệt. Tính
đặc biệt của ADPL đợc phản ánh thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa XDPL,
thực hiện pháp luật và ADPL và đợc thể hiện ở chỗ hoạt động ADPL không chỉ đơn
thuần là một trong các hình thức thực hiện pháp luật mà nó còn là sự bảo đảm cho
pháp luật đợc thực hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào. áp dụng PLHS là một dạng

ADPL và mang đầy đủ các đặc điểm thuộc về bản chất của ADPL nói chung, đó là: (1)
Hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực nhà nớc; (2) Hoạt động đợc tiến hành với
những thủ tục đợc pháp luật TTHS quy định chặt chẽ; (3) Sự điều chỉnh cá biệt, cụ thể
các quan hệ xã hội; (4) Hoạt động sáng tạo của các chủ thể; (5) Đợc thực hiện dựa
trên cơ sở thực tế và pháp lý cụ thể; (6) Có hình thức thể hiện phổ biến là văn bản áp
dụng PLHS (Quyết định, Bản án hình sự);
Là một hoạt động ADPL nên bên cạnh những đặc điểm chung đã phân tích ở trên, áp
dụng PLHS có những đặc điểm riêng so với dạng ADPL trong các lĩnh vực khác: Thứ
nhất, hoạt động áp dụng PLHS có nội dung là sự áp dụng biện pháp trách nhiệm pháp
lý nghiêm khắc nhất của nhà nớc đối với ngời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị PLHS cấm (tội phạm); thứ hai, áp dụng PLHS là hình thức duy nhất để thực
hiện PLHS khi phát sinh quan hệ PLHS; thứ ba, áp dụng PLHS là một hoạt động thực
tiễn pháp lý tồn tại rất sớm và đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh pháp luật; thứ
t, chủ thể của hoạt động áp dụng PLHS là các cơ quan tiến hành TTHS bao gồm
CQĐT, VKS và Tòa án. Trong đó, Tòa án là chủ thể trung tâm.
Từ những phân tích các đặc điểm nói trên có thể rút ra một định nghĩa khoa học về
áp dụng PLHS là một hoạt động thực tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa
những quy phạm PLHS vào các trờng hợp cụ thể đối với ngời đ thực hiện hành
6
vi mà nhà nớc coi là tội phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nớc và đợc
thực hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định.
1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự
Nội dung chủ yếu của áp dụng PLHS chính là việc chuyển hóa hai nội dung cơ bản và
chủ yếu nhất của PLHS là tội phạm và hình phạt vào các trờng hợp cụ thể thông qua hoạt
động định tội danh (ĐTD) và quyết định hình phạt (QĐHP). ĐTD có thể diễn ra trong
các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhng quan trọng nhất là trong
giai đoạn xét xử. QĐHP về cơ bản chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử và do Tòa án thực
hiện.
1.3. Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật hình sự
Với bản chất là một hoạt động ADPL nên áp dụng PLHS là một quá trình gồm các

giai đoạn khác nhau, mang tính khách quan, bao gồm: phân tích thực tế; lựa chọn và
phân tích PLHS; đối chiếu cơ sở thực tế với cơ sở pháp lý; ra quyết định áp dụng PLHS
và tổ chức thực hiện quyết định áp dụng PLHS. Với nội dung chủ yếu là ĐTD và
QĐHP nên khi tiến hành, một mặt, CQĐT, VKS và Tòa án phải dựa vào BLHS trong
việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định trách nhiệm
hình sự (TNHS), mặt khác lại tuân theo những trình tự, thủ tục đợc quy định trong
BLTTHS. Mức độ tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục
đó của các cơ quan tuy khác nhau nhng đều xoay quanh một trục chính đợc xác định
bởi ba chức năng chủ yếu là điều tra, truy tố và xét xử. Do sự chuyên biệt hóa theo
từng giai đoạn của áp dụng PLHS đã từng bớc dẫn đến phân biệt về mặt chủ thể. Nếu
xem xét tất cả các yếu tố thì chỉ có hoạt động xét xử của Tòa án mới là hoạt động duy
nhất áp dụng PLHS. Các CQĐT, VKS tham gia vào quá trình đó và có tính chất hỗ trợ
cho hoạt động áp dụng PLHS của Tòa án.
1.4. Các nguyên tắc chủ yếu của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Những nguyên tắc áp dụng PLHS là những t tởng chỉ đạo làm nền tảng cho quá
trình vật chất hóa quy phạm pháp luật vào việc giải quyết vụ án hình sự thông qua việc
chi phối các giai đoạn của quá trình áp dụng PLHS. Xuất phát từ cơ sở lý luận trên
đây, các nguyên tắc áp dụng PLHS về cơ bản đợc hình thành (tích hợp) từ các nguyên
tắc của luật hình sự (vật chất) và luật TTHS (thủ tục). ở phạm vi rộng lớn hơn, các
nguyên tắc đó còn bị chi phối bởi các nguyên tắc của pháp luật nói chung. Tuy nhiên đối
với hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án, các nguyên tắc chi phối
trực tiếp bao gồm: (1) Nguyên tắc pháp chế, (2) Nguyên tắc xác định sự thật khách
quan, (3) Nguyên tắc bình đẳng, (4) Nguyên tắc dân chủ, công khai.
1.5. Hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án qua đó có thể có
thể đợc hiểu là tỷ lệ, thể hiện mối tơng quan giữa kết quả thực tế đạt đợc của các
CQĐT, VKS và Tòa án trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với mục đích
đợc xác định của các qui phạm PLHS và TTHS cho cơ quan này. Các tiêu chí đánh
giá hiệu quả gồm: mục đích của các qui phạm PLHS và TTHS đặt ra đối với các
CQĐT, VKS và Tòa án; kết quả đạt đợc trên thực tế giải quyết các vụ án hình sự. Các

chỉ báo về hiệu quả thể hiện thông qua thống kê về số lợng các vụ án hình sự đã đợc
giải quyết và chất lợng áp dụng PLHS. Bên cạnh đó tồn tại rất nhiều yếu tố ảnh hởng
đến hiệu quả áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án mang tính khách quan
(pháp luật về nội dung, thủ tục hay tổ chức bộ máy; các yếu tố kinh tế xã hội khác)
hoặc mang tính chủ quan (nh trình độ, năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ ).
7

Chơng 2
Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án Việt Nam
Việc tiếp cận nghiên cứu thực trạng hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS
và Tòa án qua các giai đoạn lịch sử cho thấy logic phát triển của bản thân hoạt động áp
dụng PLHS nhng rất phức tạp bởi do đã trải qua một quá trình lâu dài với những biến
cố lịch sử lớn lao, đợc chi phối bởi nhiều yếu tố đã tác động. Trong chơng này, trớc
khi đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thời gian gần đây, luận án đã đánh giá
có tính tổng quát về hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các CQĐT, VKS và Tòa
án Việt Nam từ 1945 đến nay.
2.1. Khái quát hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
PLHS không phải là một sản phẩm tự thân mà trái lại có mục tiêu rất rõ ràng, nó luôn
gắn liền và phản ánh những mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam qua từng giai đoạn
khác nhau. Dới ảnh hởng của những mục tiêu đó, PLHS và rộng hơn nữa là CSHS của
Đảng và Nhà nớc ta đã có những thay đổi trong mỗi thời kỳ lịch sử. Sự thay đổi tất yếu
dẫn đến sự thay đổi tơng ứng trong hoạt động áp dụng PLHS và tác động đến cả các
chủ thể của hoạt động này cũng nh mối liên hệ giữa các chủ thể đó trong thực tiễn áp
dụng PLHS. Xuất phát từ góc độ đó, luận án phân kỳ lịch sử thành 4 giai đoạn nh sau:
(1) Giai đoạn 1945 - 1954; (2) Giai đoạn 1954 - 1975; (3) Giai đoạn 1975 - 1985; (4) Giai
đoạn 1985 đến nay. Mỗi giai đoạn đó đợc gắn liền với một bớc phát triển trong hoạt
động áp dụng PLHS của các cơ quan có thẩm quyền theo hớng ngày càng độc lập với
nhau.

* Trong giai đoạn 1945 - 1954
Trong giai đoạn này, thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy do cha có điều kiện xây
dựng hệ thống pháp luật của Nhà nớc kiểu mới nên PLHS của chế độ cũ đợc áp dụng
với điều kiện không trái với nền độc lập dân tộc (Sắc lệnh 47 ngày 10/10/1945) và trên
cơ sở có sự phân hóa. Bên cạnh đó, trong thực trạng hoạt động áp dụng PLHS, bớc
đầu hình thành các nguyên tắc và đờng lối xử lý các vụ án hình sự nh nguyên tắc hồi
tố, nguyên tắc áp dụng tơng tự và nguyên tắc một cấp xét xử.
Theo Hiến pháp 1946 (Điều 63), hệ thống Tòa án của nớc Việt Nam dân chủ cộng
hòa bao gồm: Tòa án tối cao; các tòa phúc thẩm, các tòa đệ nhị cấp và các tòa sơ cấp
và là chủ thể có thẩm quyền áp dụng PLHS, Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống Tòa án ở
nớc ta lại có sự hình thành hơi khác so với cách quy định của Hiến pháp 1946, thể
hiện là hình thành Tòa án quân sự (TAQS). Tòa án thờng đợc hình thành muộn hơn
đôi chút so với các TAQS. Bên cạnh Tòa án, từ 9/1945 đến 1/1946, các ủy ban hành
chính các cấp cũng có thẩm quyền xét xử. Hệ thống Tòa án phụ thuộc chặt chẽ vào hệ
thống hành pháp. Giai đoạn 1945 - 1954 cha có VKS hay Viện công tố mà chỉ có
những tổ chức nằm trong các cơ quan khác thực hiện chức năng công tố trong quá trình
áp dụng PLHS. Về CQĐT, tháng 8/1945, cùng với việc thành lập chính quyền nhân
dân, các tổ chức đầu tiên của có chức năng điều tra hình sự (ĐTHS) đã đợc thành lập
đó là: Sở Liêm phóng (Bắc Bộ), Sở Trinh sát (Trung Bộ) và Quốc gia tự vệ cuộc (Nam
Bộ). Tuy nhiên, Cơ quan điều tra đầu tiên mang tính thống nhất của nớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa là Việt Nam Công an vụ đợc thành lập theo Sắc lệnh 23-SL ngày
8
21/2/1946 (thuộc Bộ Nội vụ) trên cơ sở hợp nhất các Sở Cảnh sát với các Sở Liêm
phóng toàn quốc.
* Trong giai đoạn 1954 - 1975
Trong giai đoạn này PLHS ngày càng trở thành công cụ quan trọng hơn trong việc
đấu tranh trấn áp những âm mu phản cách mạng, bảo vệ chính quyền đặc biệt là ở
những vùng giải phóng. Ngày 30/06/1955, Bộ T pháp đã ban hành Thông t số
19/VHH-HS, trong đó đã quy định chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng PLHS của chế độ
cũ. Bên cạnh đó tăng cờng xây dựng và nâng cao chất lợng hệ thống văn bản PLHS

bằng việc ban hành những văn bản có tính chất đơn lẻ. Các hớng dẫn xét xử của Tòa
án tối cao, án lệ đóng vai trò quan trọng trong thực tiễn áp dụng. Cũng trong giai đoạn
này, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, CSHS đợc áp dụng trực tiếp trong khi giải
quyết vụ án hình sự. Tình trạng thiếu thống nhất trong khi áp dụng các quy định PLHS
xảy ra phổ biến là ĐTD theo mô tả hành vi mà không theo tên tội. Về trình tự, thủ tục,
giai đoạn có thủ tục xét xử theo bút lục và thủ tục rút ngắn;
Đối với các CQĐT, VKS và Tòa án, tháng 5-1958, quyền công tố đã đợc tách ra
khỏi hệ thống Tòa án và thành lập Viện Công tố trung ơng theo mô hình tổ chức t
pháp của Liên Xô cũ. Khác với trạng thái phụ thuộc nh trong giai đoạn 1945 - 1954,
giai đoạn này ghi nhận mối liên hệ giữa Tòa án, Viện Công tố và CQĐT với t cách là
những cơ quan độc lập với nhau trong thực tiễn áp dụng PLHS, mặc dù vẫn còn tồn tại
một vài thủ tục hành chính trong tố tụng (hiện tợng định kiến trớc về chủ trơng xét
xử trớc khi mở phiên tòa)
* Trong giai đoạn 1975 - 1985
Mùa xuân năm 1975, miền Nam đợc hoàn toàn giải phóng, cả nớc độc lập thống
nhất. Tuy nhiên trong thời điểm này cha thực hiện đợc ngay sự thống nhất về mặt
Nhà nớc, do vậy trên thực tế về hình thức tạm thời tồn tại hai nhà nớc: Nhà nớc
Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nớc Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nghị quyết
ngày 2/7/1976 của Quốc hội đã đổi tên nớc ta là nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam và
hoạt động dựa trên nền tảng là Hiến pháp 1959 của nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 18/12/1980 Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới của thời kỳ cả nớc tiến
lên xây dựng XHCN.
Trong thực tiễn áp dụng PLHS, có thể thấy nổi lên một số đặc điểm sau đây: Về cơ
bản vẫn cha có những thay đổi căn bản so với giai đoạn trớc, PLHS vẫn mang tính
đơn lẻ mặc dù bắt đầu có những quy định cụ thể hơn liên quan đến việc ĐTD và
QĐHP; các hớng dẫn của TANDTC tiếp tục có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn áp
dụng PLHS (cả về nội dung và thủ tục tố tụng). Trong giai đoạn này việc áp dụng
PLHS vẫn đợc cho phép thực hiện theo thủ tục rút ngắn và bút lục nh giai đoạn trớc
đây mặc dù đã đợc quy định cụ thể hơn
Giai đoạn đầu sau khi giải phóng miền Nam, điểm đặc thù của hệ thống Tòa án ở

nớc ta là đã tồn tại trong một thời gian ngắn hai hệ thống Tòa án. Trong giai đoạn
này, mối quan hệ bên trong của hệ thống TAND trong quá trình áp dụng PLHS đối với
các vụ án cụ thể mang tính hành chính rõ rệt, nhất là đối với trình tự phúc thẩm thể
hiện thông qua việc thỉnh thị ý kiến ủy ban Thẩm phán TANDTC. Các quy định về tổ
chức và hoạt động của TAND trong Hiến pháp 1980 đã trở thành cơ sở pháp lý cho quá
trình cải cách hệ thống Tòa án và đợc cụ thể hóa trong Luật tổ chức TAND ngày
01/07/1981. Đối với hệ thống VKSND trong giai đoạn đầu sau khi giải phóng miền
Nam cũng hình thành hai hệ thống VKSND. Tuy nhiên, không giống nh TAND, trong
9
giai đoạn 1975 - 1985, về cơ bản, chức năng và vai trò của VKSND trong quá trình áp
dụng PLHS về cơ bản không có những thay đổi lớn và cũng khác lắm so với giai đoạn
trớc đây. Liên quan đến CQĐT, cho đến năm 1973, chức năng ĐTHS vẫn do Cục
ĐTHS thuộc Bộ Công an thực hiện theo Nghị định 32/CP ngày 22/2/1973 của Hội
đồng Chính phủ. Ngày 06/06/1975, Quốc hội khóa V đã quyết định việc hợp nhất giữa
Bộ Công an và Bộ Nội vụ thành Bộ Nội vụ. Tuy nhiên, trên phơng diện áp dụng
PLHS, việc phân công giữa điều tra trinh sát và điều tra tố tụng về cơ bản vẫn thực hiện
theo Luật về tổ chức VKSND và cơ quan Công an ngày 15/7/1960. Ngày 12/6/1981,
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 250/HĐCP quy định lại về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức Bộ Nội vụ và theo đó hoạt động điều tra trinh sát chính thức đợc
tách biệt với điều tra t pháp mặc dù vấn đề này đã đợc đặt ra ngay từ đầu trong giai
đoạn 1954 - 1975.
* Trong giai đoạn 1985 đến nay
Sau khi Hiến pháp năm 1980 và các luật tổ chức đợc ban hành thì việc ban hành
BLHS mới thống nhất đã trở nên cấp thiết. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua
BLHS quy định một cách hệ thống, toàn diện và thống nhất về những nguyên tắc, tội
phạm, hình phạt và những vấn đề liên quan đến việc xác định tội phạm, hình phạt,
chấm dứt thời kỳ PLHS đợc xây dựng một cách đơn hành. Trong quá trình áp dụng,
BLHS đã đợc sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Năm
1999, tại kỳ họp Quốc hội X (từ 18/11 đến 21/12/1999) đã thông qua BLHS mới và
đang có hiệu lực nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc đấu tranh phòng chống

tội phạm trong giai đoạn hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thực tiễn hoạt động áp dụng PLHS nổi lên một số điểm sau đây:
- BLHS là văn bản pháp lý quy định về tội phạm và hình phạt; là nguồn duy nhất và
trực tiếp của PLHS và là cơ sở pháp lý duy nhất về mặt nội dung (xác định tội phạm và
hình phạt) của hoạt động áp dụng PLHS. Sự ra đời của BLHS 1985 cũng đã khẳng định
không ADPL tơng tự trong lĩnh vực hình sự. Trong giai đoạn này, thực tiễn xét xử
đợc pháp lý hóa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện hệ thống
PLHS thực định.
- Chấm dứt hiệu lực hồi tố đầy đủ và có sự phân biệt giữa các trờng hợp tăng nặng
và các trờng hợp giảm nhẹ.
- Thủ tục áp dụng PLHS đợc hoàn thiện và thống nhất quy định trong BLTTHS
đợc thông qua ngày 26/3/1988, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1989. Sau ba lần sửa đổi,
bổ sung, BLTTHS năm 2003 tạo thành một chỉnh thể thống nhất chi phối toàn bộ hoạt
động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án.
- Các nguyên tắc áp dụng PLHS đợc quy định một cách có hệ thống và mang tính
thống nhất cao. Đặc biệt là ngày 17/3/2003, bằng Nghị quyết số 388/2003/NQ-
UBTVQH11 của
ủy ban Thờng vụ Quốc hội về việc bồi thờng thiệt hại cho ngời bị
oan do những ngời có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra đã làm thay đổi diện
mạo của ngành t pháp Việt Nam.
Trong giai đoạn này, mô hình tổ chức hệ thống TAND về cơ bản không có sự khác
biệt so với giai đoạn trớc nhng ngày càng đợc củng cố, là cơ quan duy nhất có quyền
xét xử để áp dụng những quy định của pháp luật về tội phạm và hình phạt. Cho đến năm
2002, Luật tổ chức TAND đã bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của
TANDTC, tạo điều kiện cho TANDTC tập trung thực hiện việc xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm, hớng dẫn ADPL và tổng kết kinh nghiệm xét xử. Mô hình tổ chức
10
của VKSND về cơ bản cũng không có khác biệt với giai đoạn trớc tuy nhiên, chức
năng và thẩm quyền của VKSND trong giai đoạn này có sự chuyển biến rõ rệt theo
hớng tập trung vào chức năng công tố và kiểm sát t pháp. Chức năng kiểm sát tuân

theo pháp luật đợc nhấn mạnh trọng thời kỳ đầu nhng lại bị thu hẹp từ năm 2001
trớc những yêu cầu của CCTP. Đối với CQĐT, trong khoảng thời gian từ 1985 - 1989,
hoạt động của CQĐT về cơ bản vẫn thực hiện theo Nghị định 250/HĐCP ngày
12/6/1981 của Hội đồng Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ
Nội vụ. Năm 1988, với việc ban hành BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
năm 1989, CQĐT đợc chia thành cơ quan chuyên trách và cơ quan không chuyên
trách. Năm 2004, ủy ban Thờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Số 23/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về tổ chức điều tra hình sự, theo đó quy định
tổ chức bộ máy, thẩm quyền điều tra cụ thể của CQĐT và các cơ quan khác đợc giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cho đến nay, ba cơ quan này đợc Nhà nớc giao cho chức năng điều tra, truy tố và
xét xử ngời thực hiện tội phạm bằng việc áp dụng PLHS để xác định TNHS đối với
ngời đó với các quy định PLHS và trình tự, thủ tục TTHS đợc pháp điển hóa cao và
tơng đối rõ ràng.
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thời gian gần đây
Xét ở mức độ tham gia của mỗi chủ thể trong quá trình áp dụng PLHS thì Tòa án
đóng vai trò quan trọng nhất, và giữ vị trí trung tâm, sự tham gia CQĐT, VKS có ý
nghĩa tiền đề, là những căn cứ cho việc ra quyết định áp dụng PLHS của Tòa án. Bởi
vậy việc phân tích, đánh giá về thực tiễn áp dụng PLHS trong giai đoạn hiện nay chủ
yếu thông qua kết quả áp dụng PLHS của Tòa án và phân tích kết quả đó theo nội dung
của hoạt động áp dụng PLHS.
* Những mặt tích cực trong hoạt động áp dụng PLHS
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động áp dụng PLHS về cơ bản đã đáp ứng đợc yêu
cầu của sự nghiệp đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, hệ thống các CQĐT, VKS
và Tòa án đã không ngừng khắc phục những khó khăn về mặt khách quan cũng nh
chủ quan để nâng cao chất lợng và hiệu quả áp dụng PLHS; cụ thể là:
- Xử lý, giải quyết nhanh các vụ án hình sự từ khâu điều tra, truy tố, xét xử, khắc
phục tình trạng tồn đọng án mặc dù số lợng các vụ án hình sử phải giải quyết hàng
năm là rất lớn. Đối với CQĐT, trung bình mỗi năm đã giải quyết hơn 51.000 vụ với
gần 60.750 bị can, trong đó đề nghị truy tố trung bình 50.540 vụ/ 79.430 bị can. Trong

quá trình điều tra vụ án hình sự, các CQĐT cũng đã đình chỉ trung bình mỗi năm 1.166
vụ/ 1.603 bị can. Trung bình mỗi năm, VKS phải giải quyết khoảng 51.540 vụ với hơn
80.000 bị can, qua đó VKS đã truy tố trung bình mỗi năm khoảng 49.100 vụ với
75.500 bị can. Qua thực hiện chức năng công tố, VKS đã đình chỉ trung bình khoảng
750 vụ với hơn 1.500 bị can. Đối với Tòa án, trung bình mỗi năm Tòa án giải quyết sơ
thẩm 53.300 vụ/ 85.513 bị cáo, phúc thẩm trên 14.000 vụ/ 23.000 bị cáo, đấy là còn
cha kể đến các vụ án xét xử lại theo thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm.
- Chất lợng áp dụng PLHS ngày càng đợc nâng cao. Từ năm 1997 đến năm 2007
tỷ lệ y án sơ thẩm của các phiên tòa phúc thẩm là rất cao (khoảng trên 70%), trong khi
đó tỷ lệ những vụ án phải điều tra lại hoặc xét xử lại chỉ chiếm khoảng từ 1,7% đến
dới 5%, phần còn lại thuộc về tăng án, giảm án hoặc điều chỉnh hình phạt bổ sung.
Bên cạnh đó, việc phân tích cụ thể các con số thu nhận đợc từ thực tế còn cho thấy tỷ
lệ y án sơ thẩm của các phiên tòa phúc thẩm tăng lên tơng đối đều qua các năm.
11
- Tập trung xử lý nghiêm khắc những vụ án thuộc những lĩnh vực nhạy cảm cao của
đời sống xã hội nh tham nhũng, ma túy, buôn lậu thông qua đó đã có ảnh hởng tốt
đến d luận xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào nhà nớc và pháp luật.
* Những mặt hạn chế của hoạt động áp dụng PLHS
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, hoạt động áp dụng PLHS cũng bộc lộ nhiều
thiếu sót có ảnh hởng trực tiếp đến những lợi ích thiết thân của các chủ thể có liên
quan, để lại những hậu quả rất nghiêm trọng mà thờng là rất khó khắc phục. Có thể
khái quát những hạn chế nh sau:
- Hoạt động áp dụng PLHS vẫn còn trờng hợp kết án oan ngời vô tội, ĐTD đối với
hành vi không cấu thành tội phạm, ĐTD sai và bỏ lọt tội phạm
- Việc QĐHP của Tòa án trong một số trờng hợp không tơng xứng với tội phạm
đã thực hiện (quá nhẹ hoặc quá nặng). Vẫn còn trờng hợp những trờng hợp tính chất
và mức độ phạm tội tơng đơng nhau nhng việc QĐHP không thống nhất, có sự
khác biệt quá xa giữa những Tòa án khác nhau.
* Nguyên nhân của những hạn chế trong định tội danh và QĐHP
Thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói

trên có thể đợc phân thành hai loại: (1) Những nguyên nhân khách quan là những
nguyên nhân tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của những chủ thể áp dụng. Về mặt lý
luận, điều cần đợc quan tâm trớc hết đó chính là pháp luật đợc áp dụng. Khi tiến
hành áp dụng PLHS, Tòa án cũng giống nh tất cả mọi chủ thể pháp luật khác không
thể thay đổi pháp luật dới bất cứ hình thức nào và cũng chính vì vậy, những hạn chế
còn tồn tại trong pháp luật hoàn toàn có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những
hạn chế trong quá trình thực hiện và áp dụng chúng. (2) Những nguyên nhân chủ
quan là những nguyên nhân thuộc về các CQĐT, VKS và Tòa án đã không thực hiện
đúng các yêu cầu của pháp luật khi giải quyết các vụ án hình sự. Nó có thể đợc bắt
đầu từ sự hạn chế về trình độ, từ sự vô trách nhiệm hoặc từ sự cố tình áp dụng không
đúng, không đầy đủ những quy định của pháp luật của các cá nhân có thẩm quyền.
Khái quát lại, nguyên nhân đã dẫn đến những hạn chế hoạt động áp dụng PLHS là do:
- Không bảo đảm cơ sở thực tế của ADPL trong việc định tội danh và QĐHP: (1)
Việc điều tra xét hỏi và tranh tụng phiến diện và không đầy đủ; (2) Kết luận của các
CQĐT, VKS và Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
- Không bảo đảm cơ sở pháp lý của áp dụng PLHS trong định tội danh và QĐHP:
(1) Có sai lầm trong việc áp dụng những quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS;
(2) Vi phạm thủ tục tố tụng trong các giai đoạn áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và
Tòa án.

Chơng 3
Yêu cầu v giải pháp đảm bảo hiệu quả hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của cơ quan điều tra, viện kiểm sát v
tòa án việt nam trong giai đoạn hiện nay
Những phân tích lý luận cũng nh những bằng chứng thực tiễn về áp dụng PLHS
của các CQĐT, VKS và Tòa án trong các chơng trên đã cho thấy ý nghĩa và tầm quan
trọng đặc biệt của vấn đề đảm bảo hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS trong bối cảnh
chung của CCTP hiện nay. Mặc dù CCTP nói chung có phạm vi rộng lớn hơn vấn đề áp
12
dụng PLHS nhng rõ ràng là chỉ trong hoạt động áp dụng PLHS, các nội dung của

CCTP mới đợc thể hiện một cách toàn diện nhất bởi sự tham gia đầy đủ của toàn bộ
các yếu tố cấu thành hệ thống t pháp.
3.1. Yêu cầu cải cách t pháp và những quan điểm mang tính nguyên tắc đảm
bảo hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án Việt Nam
Những quan điểm, định hớng và yêu cầu CCTP đợc thể hiện tập trung trong Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác t pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng
06 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lợc CCTP đến năm 2020. Trên cơ sở phân
tích các quan điểm chỉ đạo CCTP ở Việt Nam trong mối liên hệ với hoạt động áp dụng
PLHS đã xác định những quan điểm cơ bản mang tính nguyên tắc của việc đảm bảo
hiệu quả áp dụng PLHS là về hoạch định CSHS làm căn cứ cho việc xây dựng và hoàn
thiện PLHS; Về tổ chức và hoạt động của các CQĐT, VKS và Tòa án tham gia vào
hoạt động áp dụng PLHS và sự tuân thủ các nguyên tắc trong áp dụng PLHS, tôn trọng
vào bảo vệ quyền công dân và quyền con ngời.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam
Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS phải là giải pháp đồng bộ
tác động vào các yếu tố ảnh hởng đến hiệu quả áp dụng PLHS của CQĐT, VKS và
Tòa án, nhằm khắc phục những hạn chế và sai lầm của các cơ quan này trong quá
trình áp dụng PLHS và đợc chia thành bốn nhóm: (1) Nhóm giải pháp về xây dựng
và hoàn thiện PLHS: Hệ thống các quy định PLHS là cơ sở pháp lý trực tiếp của việc
áp dụng PLHS nên luận án kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung các quy định PLHS
hiện hành với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khi áp dụng PLHS,
tránh sự tùy tiện. Bên cạnh đó thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy vai trò quan trọng
của các văn bản không chứa đựng quy phạm PLHS mà chỉ là những văn bản nghiệp
vụ có tính chất nội bộ ngành (đặc biệt là Tòa án) nhng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong điều kiện hệ thống PLHS còn khái quát và nhiều điểm hạn chế. Với lý do đó,
cần
trao quyền giải thích PLHS cho Tòa án và thừa nhận án lệ trong thực tiễn áp dụng

PLHS. (2) Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục áp dụng PLHS:
Trình tự, thủ tục áp dụng PLHS có nhiều nội dung. Luận án tập trung đ
a ra các giải
pháp có ý nghĩa then chốt, còn vớng mắc và bất cập mà sự tồn tại đó có ảnh hởng
trực tiếp đến hoạt động áp dụng PLHS. Vì vậy, luận án kiến nghị sửa đổi một số quy
định của BLTTHS theo tinh thần nguyên tắc tranh tụng; hoàn thiện về thủ tục rút gọn
và hoàn thiện cơ chế pháp lý để minh oan và bồi thờng thiệt hại trong trờng hợp áp
dụng PLHS gây ra oan, sai. (3) Nhóm giải pháp về tổ chức và hoạt động của các
CQĐT, VKS và Tòa án trong hoạt động áp dụng PLHS. Đối với CQĐT cần phân định
rõ giữa điều tra trinh sát và điều tra t pháp không chỉ về hoạt động mà cả về chủ thể
tiến hành. Đối với VKS, chuyển đổi hệ thống VKSND thành Viện Công tố nhà nớc
và tổ chức phù hợp với hệ thống Tòa án theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị
hành chính. Đối với Tòa án, tạo mọi điều kiện để Tòa án đợc độc lập trong việc thực
hiện chức năng của mình, xác định rõ chức năng xét xử của Tòa án với CQĐT và
VKS. Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị
13
hành chính; phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý và thẩm quyền tố tụng trong các
cơ quan Tòa án. (4) Nhóm giải pháp về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực:
Nghiên cứu sớm xây dựng chế định pháp lý về các chức danh Điều tra viên, Thủ
trởng CQĐT theo hớng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên đối
với kết quả điều tra. Tăng cờng năng lực và trách nhiệm độc lập của Kiểm sát viên
trong thực hành quyền công tố bằng việc chuẩn hóa hệ tiêu chuẩn chức danh mới phù
hợp với sự điều chỉnh chức năng và thẩm quyền hoạt động của VKS. Bổ sung đội ngũ
Thẩm phán cho hệ thống tòa là việc làm cấp thiết để giải quyết tình trạng quá tải hiện
nay. Mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán. Chuyển đổi từ cơ chế tuyển chọn sang
cơ chế thi tuyển quốc gia.
kết luận
Hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án Việt Nam là một đề tài
rộng và mang tính tổng hợp, liên ngành. Việc nghiên cứu nội dung đề tài dù ở bình
diện nào cũng phải tiến hành theo phơng pháp soi sáng lý luận bằng kết quả của hoạt

động thực tiễn. Quá trình nghiên cứu đề tài luận án đã đạt đợc các kết quả chính nh
sau:
1. áp dụng PLHS là một hoạt động thực tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa
những quy phạm PLHS vào các trờng hợp cụ thể đối với ngời đã thực hiện hành vi mà
nhà nớc coi là tội phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nớc và đợc thực hiện theo
một trình tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định. Bên cạnh những đặc điểm của một
hoạt động ADPL nói chung, áp dụng PLHS có những đặc điểm riêng. Đó là sự áp dụng
các biện pháp trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất của nhà nớc đối với ngời thực hiện
tội phạm; là hình thức duy nhất để thực hiện PLHS khi phát sinh quan hệ PLHS; là hoạt
động thực tiễn tồn tại rất sớm trong lịch sử và đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh
pháp luật; là hoạt động chủ động của nhà nớc mà các chủ thể có thẩm quyền là các
CQĐT, VKS (công tố) và Tòa án.
2. Điểm đặc biệt của áp dụng PLHS chính ở chỗ sự tham gia của nhà nớc với vai
trò là chủ thể tổ chức thực hiện PLHS. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể và
những khác biệt về văn hóa, các cơ quan có thẩm quyền áp dụng PLHS có thể đợc tổ
chức khác nhau ở những giai đoạn khác nhau hoặc ở những nớc khác nhau. Tuy
nhiên, dù đợc tổ chức theo bất cứ hình thức nào, các cơ quan này cũng xoay quanh
một trục chính đợc xác định bởi ba chức năng chủ yếu là điều tra, truy tố và xét xử và
ở Việt Nam giao cho các CQĐT, VKS (công tố) và Tòa án. Trong đó, Tòa án chủ thể
trung tâm của hoạt động áp dụng PLHS, đồng thời cũng là chủ thể trung tâm của
QLTP. Các chủ thể khác (CQĐT, VKS) chỉ tham gia vào quá trình áp dụng PLHS bằng
việc áp dụng pháp luật thủ tục (TTHS) là chủ yếu và đã giúp hoàn chỉnh việc áp dụng
PLHS của Tòa án đợc khách quan và đúng luật.
3. Trong lý luận, áp dụng PLHS là một quá trình đa dạng và phức tạp đợc tiến
hành qua các giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, từ khía cạnh bản chất của hoạt động
ADPL, xét đến cùng hoạt động áp dụng PLHS là sự chuyển hóa hai nội dung cơ bản
nhất của PLHS là tội phạm và hình phạt. Tơng ứng với nó là hai hoạt động định tội
danh và QĐHP là nội dung cơ bản nhất. Những hoạt động chuyển hóa khác có chăng
chỉ nhằm mục đích làm sáng tỏ hai nội dung này.
4. Hoạt động áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và Tòa án Việt Nam đã trải qua

chiều dài từ khi thành lập nớc năm 1945 đến nay, gắn với những giai đoạn lịch sử
14
trọng đại của đất nớc và của chính sự phát triển của hệ thống pháp luật, đặc biệt là
PLHS. Luận án đã phác thảo một bức tranh thực trạng hoạt động áp dụng PLHS trong
lịch sử qua 4 giai đoạn lớn (1945-1954; 1954-1975; 1975-1985; 1985-nay), qua đó cho
thấy có rất nhiều yếu tố đã tác động đến thực trạng này nhng rõ nét nhất là liên quan
đến PLHS với t cách là cơ sở pháp lý đợc áp dụng; đến pháp luật về trình tự, thủ tục
áp dụng PLHS và tổ chức, hoạt động cũng nh mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng PLHS trong thực tiễn thực hiện chức năng đợc giao.
5. Thực tiễn áp dụng PLHS thời gian gần đây cho thấy các CQĐT, VKS và đặc biệt là
Tòa án đã có những nỗ lực không ngừng đảm bảo hiệu quả và chất lợng của việc áp dụng
PLHS. Điều đó đã góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mặc dù hàng
năm với sự gia tăng về số lợng và quy mô của những vụ phạm pháp hình sự, với áp lực về
số lợng những vụ án hình sự phải giải quyết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế,
đặc biệt là trong định tội danh và QĐHP thời gian gần đây đã dẫn đến oan sai và bỏ lọt
tội phạm gây ra bởi những nguyên nhân khách quan, chủ quan.
6. Sự ra đời của Nghị quyết 08 năm 2003 của Đảng cộng sản Việt Nam và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lợc CCTP đến năm
2020 đã đặt nền móng cho những thay đổi đáng kể về pháp luật, tổ chức hoạt động và
thực tiễn áp dụng PLHS của CQĐT, VKS và Tòa án Việt Nam cũng nh góp phần đa
ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của những cơ quan này. Đợc đặt
trong bối cảnh chung đó, việc đảm bảo hiệu quả áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS
và Tòa án về nguyên tắc phải đợc thực hiện trên cơ sở những quan điểm và định hớng
của CCTP. Các nội dung này đã đợc xác định rất rõ các văn kiện của Đảng và Nhà
nớc ta. Đến lợt mình, những mục tiêu, quan điểm và định hớng chung của CCTP nói
trên là cơ sở quan trọng để xác định những quan điểm, định hớng và hệ thống các giải
pháp cụ thể đối với vấn đề nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS của các CQĐT, VKS và
Tòa án. Luận án đã xác định các định hớng cơ bản: (1) Về chính sách hình sự, (2) Về
tổ chức và hoạt động của các CQĐT, VKS và Tòa án và (3) Về sự tuân thủ các nguyên
tắc trong áp dụng PLHS, tôn trọng vào bảo vệ quyền công dân và quyền con ng

ời.
7. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn, luận án đã luận giải và đa ra
các biện pháp đảm bảo và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS trong thời gian tới.
Đó là giải pháp đồng bộ tác động vào các yếu tố ảnh hởng đến hiệu quả áp dụng PLHS
của CQĐT, VKS và Tòa án, nhằm khắc phục những hạn chế và sai lầm của các cơ quan
này trong quá trình áp dụng PLHS. Luận án đã lựa chọn phân tích và lập luận cho việc
đa ra một số biện pháp cụ thể, trớc mắt bao gồm các nhóm giải pháp là: xây dựng và
hoàn thiện PLHS, pháp luật về trình tự, thủ tục áp dụng PLHS, về tổ chức và hoạt động
của các CQĐT, VKS và Tòa án trong quá trình áp dụng PLHS cũng nh xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng áp dụng PLHS này chính là cơ sở lý luận
và là tài liệu bổ ích cần thiết dành cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án tham khảo
trong quá trình hoàn thiện pháp luật hiện hành và thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội
phạm. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về mặt lý luận về áp dụng
PLHS dới góc độ nhận thức - khoa học và đánh giá tổng thể thực tiễn hoạt động này
của các cơ quan chức năng không những là hớng nghiên cứu quan trọng, mà còn là
việc làm cần thiết của khoa học pháp lý nớc ta hiện nay.

×