Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Báo cáo cuối kỳ môn lịch sử văn minh thế giới đế quốc đông la mã ở châu âu thời trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.47 KB, 16 trang )

lOMoARcPSD|12114775

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÁO CÁO CUỐI KỲ
MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

ĐẾ QUỐC ĐÔNG LA MÃ Ở CHÂU ÂU THỜI TRUNG
ĐẠI

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1/2022

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................3
1


lOMoARcPSD|12114775

PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................................4

1. GIỚI THIỆU VỀ ĐẾ QUỐC ĐÔNG LA MÃ.......................................................4
1.1.

Lịch sử hình thành......................................................................................................4

1.2.

Vị trí địa lý và vùng lãnh thổ.....................................................................................4


1.3.

Tên gọi.........................................................................................................................5

2. CÁC CUỘC CHIẾN CỦA ĐẾ QUỐC ĐÔNG LA MÃ........................................5
2.1.

Cuộc tái chiếm các tỉnh miền Tây.............................................................................5

2.2.

Chiến tranh chống lại quân Ả Rập...........................................................................5

2.3.

Chiến tranh chống lại người Bulgaria......................................................................5

2.4.

Đông La Mã dưới thời Basileos II.............................................................................6

2.5.

Alexios I và cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất..........................................................6

2.6.

Ioannes II, Manouel I và Cuộc thập tự chinh lần thứ hai......................................7

2.7.


Cuộc thập tự chinh lần thứ tư...................................................................................7

2.8.

Hồi kết của Đế quốc....................................................................................................8

2.9.

Tái chiếm Constantinopolis.......................................................................................8

2.10.

Sự trỗi dậy của Ottoman và những ngày cuối cùng của Đông La Mã..............9

3. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA ĐẾ QUỐC ĐƠNG LA MÃ.................................10
3.1.

Kinh tế.......................................................................................................................10

3.2.

Tơn giáo.....................................................................................................................11

3.3.

Văn học và nghệ thuật..............................................................................................12

3.4.


Ngoại giao..................................................................................................................12

3.5.

Ngôn ngữ...................................................................................................................13

3.6.

Di sản.........................................................................................................................13

3.7.

Kiến trúc....................................................................................................................14

PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................16

2


lOMoARcPSD|12114775

LỜI MỞ ĐẦU
Đam Mahatma Gandhi đã từng nói: “Hãy sống như ngày mai anh chết. Hãy học
như anh sẽ sống mãi mãi.” Trong sự biến chuyển không ngừng của thời đại, nhu cầu tìm
hiểu tri thức nhân loại ngày càng được mở rộng. Và để theo kịp thời đại, con người không
thể chỉ sống với vốn kiến thức hạn hẹp, khơng thể chỉ biết mỗi thành tựu, văn hố nơi
mình sinh ra mà phải biết về các châu lục, các đất nước khác nhau trên Trái Đất. Chính
bởi lẽ đó, môn học Lịch sử văn minh Thế Giới cho chúng ta tiếp cận, ngắm nhìn sự hình
thành và phát triển qua bao thời kì, biết ơn những đóng góp tiêu biểu đã xây dựng cho nền

tảng cho xã hội hiện đại như bây giờ, đánh giá được ảnh hưởng của các nền văn minh đối
với nhân loại… Từ đó liên hệ đối chiếu và giúp đất nước ngày càng được phát triển hơn.
Đã bao giờ bạn đến Châu Âu và tận mắt ngắm nhìn sự phồn vinh với vẻ đẹp cổ
kính, đồ sộ mà tự hỏi rằng: “Lịch sử hình thành một đế chế nơi trời Âu vào thời Trung cổ
được diễn ra như thế nào?” Có lẽ trong thời kì dịch bệnh như hiện nay điều đó dường như
là bất khả thi. Nhưng từ những kiến thức đã học cũng như những hiểu biết của bản thân,
trong bài báo cáo dưới đây, chúng ta sẽ cùng nhau đến với Châu Âu, quay về hàng triệu
năm trước để cùng khám phá sự trỗi dậy và suy tàn của đế chế Byzantine trong suốt một
thiên niên kỷ. Đây cũng là dịp để chúng ta cùng tận hưởng chuyến du lịch xa xơi mà
khơng cần phải đi đâu hay tốn bất kì chi phí nào.
Bài báo cáo về Đế quốc Đơng La Mã ở Châu Âu thời trung đại sẽ giúp ta khám
phá về lịch sử hình thành, về thành tựu, văn hố của một vùng đất bên kia bán cầu. Qua
đó giúp ta có kinh nghiệm, những hiểu biết sâu sắc, phong phú, áp dụng vào thực tiễn góp
phần phát triển và làm giàu đất nước.
Song, để hoàn thành bài báo cáo này, em xin chân thành cảm ơn giáo sư bộ mơn
Lê Quang Đức đã giúp em có được những kiến thức bổ ích trong suốt những năm học
cuối cấp. Tinh thần học tập nghiêm túc và hiệu quả. những kiến thức quý báu, là hành
trang để có thể vững bước vào tương lai.

3


lOMoARcPSD|12114775

PHẦN NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU VỀ ĐẾ QUỐC ĐÔNG LA MÃ
Nhắc đến Trung Đại người ta thường nghĩ ngay đến thời kỳ rực rỡ và kịch tính
nhất trong các giai đoạn lịch sử. Bởi lẽ, đây là thời kì hỗn loạn chứng kiến bao thăng
trầm, sự tranh giành lãnh thổ, các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực của các quốc gia,
dân tộc. Họ sẵn sàng đoạt lấy sự vĩ đại cho riêng mình bằng các cuộc chiến tranh đẫm

máu và tàn nhẫn. Những cuộc di cư lớn đã làm biến đổi thế giới, những truyền thống từ
ngàn thế kỉ dần trở nên lỗi thời và những tôn giáo mới xuất hiện- thế giới cổ xưa đang
chuẩn bị cho những thay đổi mới.
Và từ sự thay đổi này, cán cân quyền lực biến đổi thông qua bạo lực, một đế
quốc duy nhất đã nỗ lực phát triển và vươn lên dẫn đầu. Một lực lượng hùng mạnh có thể
tồn tại qua những biến đổi lớn và thống trị Châu Âu hơn một thiên niên kỷ- Đế chế
Byzantine.
1.1.

Lịch sử hình thành

Trong thế kỷ III, Đế chế La Mã trải qua thời kỳ đầy bất ổn, gần như sụp đổ với
áp lực từ các cuộc xâm lược của các bộ tộc, đấu đá nội bộ chính trị và suy thối kinh tế.
Trước khi thành lập, Đế quốc Đông La Mã nằm trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã. Đến
năm 330, Constantinus I nắm quyền và di dời từ thành La Mã về Constantinopolis, được
xem là lúc thành lập đế quốc Đông La Mã. Khi Constantinus I mất, Đông La Mã bị các
con trai ông phân chia thành 2 vùng Đông và Tây. Được điều hành riêng biệt, hai nửa
ngày càng trở nên xa lạ nhau, phía Tây thuộc phạm vi văn hóa Latin và phía Đơng ảnh
hưởng bởi nền văn hóa Hy Lạp. Sau khi Romulus Augustus bị hạ bệ, đế quốc Tây La Mã
sụp đổ. Nhưng đế quốc phía đơng vẫn phát triển một cách nhanh chóng, trở thành một
cường quốc có vai trị quan trọng ở châu Âu và được xem là một trong những trung tâm
đạo Ki-tơ.
1.2.

Vị trí địa lý và vùng lãnh thổ

Nằm ở phía đơng Đế quốc La Mã, vùng đất chủ yếu nói tiếng Hy Lạp trong suốt
thời Trung và Hậu Trung cổ. Được biết đến là Đế quốc Đông La Mã, Byzantine được gọi
là Đế quốc La Mã hay Đông Romania. Tập trung xung quanh Constantinople, nó được cai
trị trực tiếp bởi các Hồng đế, những người kế thừa các hoàng đế La Mã cổ đại sau sự sụp

đổ của Đế quốc Tây La Mã.
Lãnh thổ Đế chế Byzantine: Constantinople được lập nên 330 đến 1453, khi bị
người Thổ Nhĩ Kỳ tấn công, lật đỗ vương triều cũ, lập ra vương triều mới. Đổi thủ đô cũ
thành Istanbul. Trong suốt khoảng thời gian 1000 năm, Byzantine đã chiếm cũng như để
mất nhiều vùng đất. Như ở thế kỉ 6, lấy bán đảo Balkans từ tay người Gotic, lật được Đế
chế Vandals ở Bắc Phi. Đến thế kỉ 7, phần lớn đất Trung Đông và của Vandals đã lọt vào
tay Byzantine. Trong thời gian đó, hầu như các đế chế quanh Địa Trung Hải, biến mất trên
bản đồ. Chỉ còn duy nhất Byzantine tồn tại đến thế kỉ 15. Bán đảo Balkans bị rơi vào tay
kẻ khác, nhưng sau đó được lấy lại vào thế kỉ 9.
4


lOMoARcPSD|12114775

1.3.

Tên gọi

Byzantine được bắt nguồn ở Tây Âu khi nhà sử học người Đức Hieronymus
Wolf xuất hành tác phẩm Corpus Historiæ Byzantinæ. Thuật ngữ “Byzantine” xuất phát
từ “Hy Lạp”, thành phố được đặt tên là Constantinople trước khi nó trở thành thủ đơ. Tên
cũ của thành phố rất ít khi được sử dụng, ngoại trừ trong những hoàn cảnh lịch sử hoặc
trong thơ ca. Theo Montesquieu, các tác giả vẫn sử dụng thuật ngữ tên gọi Byzantine.
Thuật ngữ này sau đó biến mất cho đến thế kỷ 19, khi nó được sử dụng trong thế giới
phương Tây.
Trong bản đồ lịch sử hiện đại, Byzantine được gọi là Đế quốc Đông La Mã để
mô tả về đế quốc trong thời gian từ năm 395 đến 610, sau khi chuyển đổi ngôn ngữ từ
tiếng Latin sang tiếng Hy Lạp, kể từ sau năm 610 người ta mới bắt đầu sử dụng cái tên Đế
quốc Byzantine.
2. CÁC CUỘC CHIẾN CỦA ĐẾ QUỐC ĐÔNG LA MÃ

2.1. Cuộc tái chiếm các tỉnh miền Tây
Từ năm 533, khi Justinianus I phái tướng quân Belisarius đi giành lại các tỉnh cũ
ở Bắc Phi đã bị chiếm và đặt kinh đô ở thành Carthage. Thành công đến một cách dễ
dàng, nhưng tới năm 548 thì các bộ lạc lớn mới chịu thần phục. Trong khi đó ở Ý, vương
quốc Ostrogoth bị chia rẽ nội bộ. Phải tới năm 540, chiến thắng mới đến, khi Belisarius
chiếm được Ravenna. Năm 535-536, Theodahad đã ra lệnh cho Agapetus I thỉnh cầu
quân Byzantine rút khỏi Sicilia, Dalmatia, Ý. Agapetus tuy rằng đã thất bại, ơng ta đã
thành cơng việc đả kích Anthimus, bất chấp sự ủng hộ và bảo vệ của hoàng hậu Theodora.
2.2.

Chiến tranh chống lại quân Ả Rập

Các cuộc tấn công của quân đội Ả Rập vào bờ biển Dalmatia đã bị chặn lại trong
những năm đầu dưới thời Basileos I và khu vực này lại bình yên trở lại, cho phép các nhà
truyền giáo cải đạo người Serbia sang Đạo Chính Thống.Tuy nhiên nỗ lực giành lại Đảo
Malta cuối cùng đã kết thúc khi người Ả Rập với sự ủng hộ của dân, đã tàn sát đội quân
của Đông La Mã. Ở mặt trận phía đơng, tuyến phịng thủ đã được củng cố vững chắc và
quân Đông La Mã tiến hành các cuộc viễn chinh.
Dưới triều đại của Mikael và cũng là người kế vị ông, các cuộc tấn công vào
Abbas vẫn được diễn ra. Sicilia lại bị quân Ả Rập chiếm và chỉ sau hai năm, thành phố
Thessaloniki quan trọng thứ hai đã bị Arab cướp phá. Hải qn nhanh chóng tăng cường
để củng cố. Đảo Síp, vốn dĩ đã bị chiếm đã được thu hồi và một hạm đội Đông La Mã đã
tấn công vào cảng Laodicea. Mặc dù vậy, quân Đông La Mã cũng bị tổn thất khi họ chiếm
lại đảo Crete.
Nhân lúc Bulgaria đang suy yếu sau sự ra đi của Sa hoàng Simeon I vào năm
927, quân Đông La Mã liền tập trung lực lượng về mặt trận phía đơng. Năm 943, Iốnnis
Kourkouas đã giành một số thắng lợi nổi bật, đặc biệt là cuộc tái chiếm thành Edessa. Nó
cịn vơ cùng nổi tiếng với việc đem về thánh vật Mandylion, có mang chân dung của
Jesus.


5


lOMoARcPSD|12114775

2.3.

Chiến tranh chống lại người Bulgaria

Các cuộc tranh đấu vẫn tiếp tục giữa hai thế lực Constantinopolis và Vatican,
làm thúc đẩy câu hỏi về việc ai sẽ kiểm soát những người. Sau khi hiệp ước hịa bình kết
thúc, Sa hồng Simeon đã đem quân tấn công vào đế quốc, nhưng đội quân của ông ta bị
đẩy lùi bởi quân Đông La Mã. Tuy vậy, quân Đông La Mã đã thất trận ở trận
Boulgarophygon và phải chấp nhận cống nộp hàng năm cho Bulgaria. Nhân lúc
Constantinopolis đang trở nên loạn lạc, Simeon đem quân lớn tấn công về kinh thành của
đế quốc. Mặc dù tường thành có vẻ bất khả xâm phạm, triều đình Đơng La Mã đã mời
Simeon. Tuy nhiên có một cuộc nổi loạn quy mơ lớn đã phá hỏng đi kế hoạch, thế là ông
ta xâm lược Đông La Mã và đánh chiếm Adrianople. Đông La Mã đứng trước nguy cơ
diệt vong khi phải đối mặt với một thế lực hùng mạnh chỉ đang cách xa Constantinopolis
chỉ vài ngày đường cũng như đang phải đối phó với cả hai kẻ thù ở phía bắc và cả phía
nam.
Khơng lâu sau, một đội quân do Leōn Phokas và Romanos I Lekapenos dẫn dắt
tiến vào Bulgaria đã bị đánh tan tác, thế là quân Bulgaria mặc sức phá hoại vùng Bắc Hy
Lạp. Adrianople lại bị cướp vào năm 923 và 924, quân Bulgaria vây hãm
Constantinopolis. Simeon đột ngột qua đời và kéo theo đó là sự suy thối của Bulgaria.
Nhờ đó, Bulgaria và Đơng La Mã có phạm vi n bình, đủ để cho Đông La Mã tập trung
quân sự đánh bại Ả Rập. Năm 968, quân đội Nga Kiev đã tấn công và tàn phá Bulgaria,
tuy nhiên 3 năm sau hoàng đế Iōannēs I Tzimiskēs đã đánh bại Sviatoslav và sáp nhập
Đông Bulgaria.
2.4.


Đông La Mã dưới thời Basileos II.

Người Bulgaria tiếp tục chống đỡ, nhưng hoàng đế Basileos II xem việc đánh
bại được Bulgaria là mục tiêu lớn nhất của mình. Cuộc tấn cơng đầu tiên của Basil II đã
chấm dứt trong thảm bại tại trận Cổng Trajan. Những năm tiếp theo, trong khi Basileos II
bận đối đầu với các cuộc nổi loạn ở Anatolia, Bulgaria tiếp túc mở rộng sự kiểm soát bán
đảo Balkan. Chiến tranh đã diễn ra gần 20 năm. Quân Bulgaria đã bị tổn thất nặng nề,
Basil II đã chinh phục dần dần các thành trì. Kết cục, quân Bulgaria đã thảm bại ở trận
Kleidion. Quân lính Bulgaria hầu hết đều bị bắt khi cịn sống, để trừng phạt họ cũng như
để làm cảnh cáo kẻ địch dám uy hiếp mình, Basil Đệ Nhị đã ra lệnh trong chọc mù mắt 99
người trong 100 người lính và để cho người thứ 100 một con mắt, để người lính đó có thể
dẫn được 99 người lính mù về. Nhìn thấy đội quân một thời hùng mạnh của mình trở nên
như vậy, Sa hồng Samuil đã chết vì cú sốc lớn này. Thành trì cuối cùng của Bulgaria đã
chính thức sụp đổ vào năm 1018, và Bulgaria đã trở thành một phần của đất nước Đông
La Mã. Chiến thắng này đã khôi phục biên giới sông Donau, vốn bị mất từ thời nhà
Heraclius.
2.5.

Alexios I và cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất

Sau thất bại Manzikert, đế quốc đã khôi phục lại phần nào nhờ những nỗ lực của
các hồng đế. Sau khi lên ngơi, Alexios I đã đối diện với một cuộc tấn công như bão táp
của người Norman bởi Robert Guiscard và con trai ông ta đứng lên lãnh đạo. Vào năm
1085, cái chết của Robert Guiscard đã tạm thời đẩy lùi cuộc xâm lược của người Norman.
6


lOMoARcPSD|12114775


Sultan Seljuk qua đời vào một năm sau, Vương quốc lâm vào nội chiến tranh giành quyền
lực giữa các thế lực. Bằng tài năng dẫn dắt binh lính và sự nhạy bén của chính bản thân,
Alexios đã tiến hành tấn công bất ngờ quân Pecheneg; bị bất ngờ, quân Pecheneg thảm
bại thảm hại.
Sau khi giành được chiến thắng tại trận Levounion, đã làm Alexios củng cố được
sự ổn định phần nào ở châu Âu và hướng sự quan tâm chú ý tới vấn đề khó khăn kinh tế
cũng như là sự yếu kém của các hàng phòng thủ xung quanh Constantinopolis. Nhưng
ơng khơng có đủ nhân lực để tái chiếm lại các vùng bị mất, ngoại trừ khu vực màu mỡ
dọc bờ biển phía tây Tiểu Á. Tại Hội đồng Piacenza năm 1095, phái viên đã trình bày với
Giáo hồng Urban II về sự áp bức mà người Kito Giáo phải chịu, rằng nếu phương tây
khơng can thiệp, có thể họ sẽ phải chịu như vậy đến sau này. Urban II thấy lời đề nghị này
là cơ hội tốt để nối lại sự gắn kết giữa hai giáo hội. 27/11/1095, Giáo hoàng Urban II cùng
với Hội đồng Clermont đã kêu gọi mọi người hãy tiến hành một cuộc viễn chinh giành lại
Jerusalem và Levant từ tay người Hồi Giáo. Lời kêu gọi được Tây Âu hưởng ứng ngay
tức khắc.
2.6. Ioannes II, Manouel I và Cuộc thập tự chinh lần thứ hai
Trong suốt khoảng thời gian 25 năm của triều đại, Ioannes đã củng cố liên minh
với Đế chế La Mã ở Tây Âu, đánh bại hoàn toàn ở trận Beroia, và nhiều lần thân chinh đi
chinh chiến người Thổ ở Tiểu Á. Các chiến dịch đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở
phương đông, buộc người Thổ phải lui về và khơi phục lại nhiều thành trì, thành phố và
thị trấn ở Anatolia. Ơng cùng với hồng đế Đức liên minh chống lại Norman, Roger II.
Ổn định được phía tây, Ioannes hướng mình về phía đơng. Các tiểu vương quốc
Danishmend nhanh chóng bị đánh bại, và qn Đơng La Mã chiếm lại Cilicia. Ioannes
cũng tranh thủ dùng ảnh hưởng của mình ép buộc Raymond, Hồng thân xứ Antioch thừa
nhận sự bảo hộ của Đông La Mã. Nhằm thể hiện vai trị và sức mạnh của mình, Ioannes
với tư cách là người lãnh đạo của liên quân của Đế chế dẫn quân vào Đất Thánh; tuy
nhiên hy vọng của ông đã tan biến bởi sự phản bội của các đồng minh. Năm 1142,
Ioannes lại đặt vấn đề về chủ quyền của ông, nhưng cái chết đột ngột của ông trong một
tai nạn đã làm gián đoạn kế hoạch của Ioannes. Chụp lấy thời cơ, Raymond xua quân xâm
lược Cilicia nhưng bị đánh tan nát và buộc phải thân hành đến kinh đô Constantinopolis

để cầu xin tha thứ.
Cuối thời kỳ Phục Hưng Komnenos. Người kế thừa ngôi vị là Manouel I
Komnenos, con trai thứ 4 của ông, đã thi thành một chính sách mạnh mẽ đối với các thế
lực, kể cả phía đơng lẫn phía tây. Ơng liên minh với Jerusalem và gửi một đội quân gia
nhập liên quân Thập Tự. Manouel củng cố lại địa vị của mình đối với các quốc gia Thập
Tự, và ảnh hưởng của Đông La Mã với Antioch và Jerusalem được củng cố bằng hiệp
ước. Manouel cũng tiến hành các cuộc chiếm đóng nhằm mục đích là thu hồi lại lãnh thổ
tại miền Nam của nước Ý nhưng thất bại do các bất đồng. Năm 1167, Manouel đánh
chiếm đất nước Hungary và giành chiến thắng trận Sirmium, buộc người Hung phải cắt
đất cầu hòa. Đến năm 1168, hầu hết toàn bộ vùng biển Adriatic đã thuộc quyền kiểm sốt
của Đơng La Mã. Manouel cũng thiết lập mối quan hệ liên minh với Giáo hoàng La Mã
cũng như là đối với các quốc gia Công giáo Tây Âu, và thành công trong việc điều tiết các
7


lOMoARcPSD|12114775

hoạt động của đoàn quân Thập Tự khi họ hành quân qua lãnh thổ của đế quốc Đông La
Mã.
2.7. Cuộc thập tự chinh lần thứ tư
Vào năm 1198, Giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc thập tự chinh
mới hướng đến Ai Cập, trung tâm quyền lực mới của thế giới Hồi Giáo. Quân Thập Tự
đến thành Venezia nhưng lại ít hơn so với dự tính trước đó và họ cũng khơng đủ kinh phí
để trả cho việc th tàu của người Venezia, để đến Ai Cập. Tổng đốc của Venezia mong
muốn phá vỡ đi sự sự liên kết giữa Giáo hồng và qn thập tự, vì Venezia liên kết chặt
chẽ thương mại với Ai Cập. Vì thế, ơng ta đề nghị sẽ trả lại chi phí thuê tàu cho quân thập
tự đổi lại họ sẽ phải đánh chiếm cảng Zaga ở Damaltia, quân viễn chinh đồng ý. Thành
phố thất thủ sau một cuộc bao vây nhanh chóng. Innocent và hội đồng hồng y đành phải
nhắm mắt làm ngơ trước hành động này.
Sau cái chết của Theobald III, Bá tước Champagne, quyền lãnh đạo Thập tự

chinh thuộc về Bonifatius Montferrat, một người bạn của Philip of Swabia. Cả Boniface
và Philip đều đã kết hôn với các vị vua Byzantine. Trên thực tế, anh rể của Philip là
Alexios Angelos, con trai của hoàng đế mù bị phế truất Isaac II Angelos, đã đến châu Âu
và liên lạc với quân Thập tự chinh. Alexios đề nghị thống nhất Nhà thờ Byzantine với
Rome, trả cho Thập tự chinh 200.000 đồng bạc, sẽ tham gia cuộc thập tự chinh và cung
cấp tất cả các vật dụng họ cần để đến Ai Cập. Innocent biết về kế hoạch chuyển hướng
Thập tự chinh đến Constantinople nhưng cấm mọi cuộc tấn công vào thành phố, nhưng
bức thư của Giáo hoàng đã đến sau khi hải quân rời Zara.
2.8. Hồi kết của Đế quốc
Sau khi các cuộc Thập tự chinh Latinh cướp phá Constantinopolis vào năm
1204, hai công quốc Byzantine, vương quốc Nicaea và Eripus, đã treo cờ của họ. Đế chế
còn lại, Đế chế Trebizond, do Alexios đứng đầu được thành lập chỉ vài tuần trước khi
quân Thập tự chinh cướp phá Constantinopolis. Trong ba lãnh địa, Eripus và Nicaea có cơ
hội tốt nhất để khơi phục thành phố. Đế chế Nicene đã giành được nhiều chiến thắng
trước quân đội Latinh. Nhưng đến giữa thế kỷ 13, phần lớn quyền thống trị của đế chế ở
miền nam Anatolia đã bị mất vào tay người Hồi giáo. Sự sụp đổ của Vương quốc Rum
sau cuộc xâm lược của người Mông Cổ năm 1242-43 tạm thời kết thúc. Các cuộc đột kích
của Seljuk ở phía đơng cho phép quân đội Nicea nỗ lực hết sức để chống lại Đế chế
Latinh ở phía bắc.
2.9. Tái chiếm Constantinopolis
Đế chế Nicaea, được thành lập dưới triều đại Laskarid, đã tiến hành các cuộc
chiến tranh với Đế quốc Latinh. Quân đội Nicaea tiêu diệt người Latinh và đồng minh của
họ tại Poimanenon và Pelagonia. Constantinopolis bị chiếm lại vào năm 1261 trong khi
Epirus bị đánh bại trong cuộc đua tái chiếm thành phố. Điều này dẫn đến sự hồi sinh ngắn
ngủi dưới thời Mikhael VIII Palaiologos, nhưng đế chế chiến tranh đã bị tàn phá bởi
những kẻ thù xung quanh đế chế. Mikhael tiếp tục các chiến dịch chống lại người Latinh,
thu hút quân đội từ Tiểu Á và thu thuế cao khiến nông dân kiệt quệ và gây nhiều phẫn uất.
Ở Constantinopolis, các dự án xây dựng khổng lồ đã được hoàn thành để sửa chữa những
thiệt hại do cuộc Thập tự chinh thứ tư gây ra, nhưng khơng có nơng dân nào ở Tiểu Á
8



lOMoARcPSD|12114775

thích thú hoặc cảm thương khi các cuộc tấn cơng của ghazis diễn ra thường xuyên và thuế
cao luôn đè nặng lên vai họ.
Mikhael đã chọn mở rộng đế chế thay vì bảo vệ các lãnh thổ của mình ở Tiểu Á,
nhưng không mấy thành công. Để ngăn thủ đô khỏi bị cướp phá và tấn công bởi người
Latinh, ông buộc Giáo hội phải đầu hàng trước cuộc họp ở Rome, một giải pháp tạm thời
khiến nông dân căm ghét Mikhael và Constantinopolis lên đến đỉnh điểm. Những nỗ lực
của Andronikos II và sau này của cháu trai Andronikos III. được coi là một nỗ lực tuyệt
vọng để khôi phục lại vinh quang của đế chế. Tuy nhiên, việc sử dụng lính đánh thuê của
Andronikos II thường gây phản tác dụng, khi lính đánh thuê Catalan tàn phá cảnh quan và
sự phẫn nộ đối với Constantinopolis ngày càng tăng.
2.10. Sự trỗi dậy của Ottoman và những ngày cuối cùng của Đông La Mã
Đông La Mã đã bị tàn phá bởi cuộc nội chiến sau cái chết của Andronikos III.
Cuộc nội chiến kéo dài 6 năm không chỉ tàn phá đế chế mà còn tạo điều kiện cho Vua
Serbia Stefan IV Dushan tràn ngập lãnh thổ của đế chế. Năm 1354, một trận động đất ở
Gallipoli đã tàn phá các pháo đài và cho phép người Ottoman hình thành ảnh hưởng của
riêng họ ở châu Âu. Khi cuộc nội chiến ở Đông La Mã kết thúc, người Ottoman đánh bại
các hiệp sĩ Serbia và buộc họ phải làm việc dưới sự bảo vệ của Ottoman. Với thất bại của
người Serbia trong trận Kosovo, phần lớn người Balkan nằm dưới ách thống trị của Đế
chế Ottoman.
Các hồng đế Đơng La Mã nhiều lần yêu cầu phương Tây giúp đỡ, nhưng Giáo
hoàng hứa sẽ chỉ xem xét hoàn trả khoản viện trợ khi Giáo hội Chính Thống Đơng hợp
nhất trở lại với Giáo hội Công giáo Rôma. Người dân và các giáo sĩ Chính thống giáo đã
quyết định chống lại việc chinh phục những vùng lãnh thổ cuối cùng cịn sót lại của Đế
chế Đông La Mã do các hành động của quân Thập tự chinh vào năm 1204. Năm 1422,
quân Ottoman bao vây Constantinopolis khơng thành cơng, nhưng hồn tồn chinh phục
Makedonia và Thessalonica.

Lúc bấy giờ Constantinopolis chỉ còn là một đống đổ nát và hoang tàn, dân số
giảm đi rất nhiều. Ngày 2 tháng 4 năm 1453, Sultan Mehmed đưa 80.000 binh lính và
hàng trăm nghìn dân qn bao vây thành phố. Mặc 7.000 binh sĩ Đông La Mã và 2.000
binh sĩ Latin của Đồng minh, thành phố cuối cùng đã thất thủ sau một cuộc bao vây lớn
trước cuộc tấn công lớn cuối cùng của Ottoman vào ngày 29 tháng 5 năm 1453. hai tháng
liên tiếp. Hồng đế Đơng La Mã cuối cùng, Constantine XI, được nhìn thấy lần cuối khi
ném áo chồng hồng gia của mình vào một góc. Sau đó, anh ta rút kiếm và xơng vào kẻ
thù sau khi nhìn thấy những bức tường, vốn đã từng là kiên cố, đã sụp đổ.
Kết luận về thất bại của Đế chế Byzantine và Ottoman - Sự sụp đổ của một đế
chế hùng mạnh
Mối quan hệ giữa Đế chế Byzantine và Đế chế Ottoman thể hiện sự đối đầu giữa
hai thế lực có sự so sánh sức mạnh rất chênh lệch: Đế chế Byzantine đã tồn tại hơn 1000
năm và đang suy tàn, thực ra nó là một đế chế quá lâu đời. Nhà nước Ottoman được
thành lập vào cuối thế kỷ 13 và đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đây là một đế chế trẻ
trung và tràn đầy năng lượng. Những mâu thuẫn giữa hai đế chế là không thể tránh khỏi
9


lOMoARcPSD|12114775

khi quyền lực của Ottoman ngày càng mở rộng. Vì vậy, mối quan hệ giữa hai đế chế ln
trong tình trạng đối đầu căng thẳng mà “Cán cân quan hệ”, “Cán cân quyền lực” dần
nghiêng về Đế chế Ottoman non trẻ. Sự thật này đã khiến cho mối quan hệ này trở nên vô
cùng "ngang trái". Trong hơn một thế kỷ rưỡi đối đầu, người Byzantine luôn phải chịu
thất bại và bất lực nhìn lãnh thổ. Đế chế bị người Thổ Ottoman chiếm từ nước này sang
nước khác, cuối cùng chỉ cịn lại thành phố Constantinople. Nói một cách khách quan, khi
một đơn vị trở nên cũ và yếu, nó được thay thế bằng một đơn vị mới, và do mối quan hệ
chung giữa hai đế chế trong thế kỷ 14 và 15, sự kiện năm 1453 xuất hiện như một tất yếu
lịch sử đối với người Byzantine.
Cuộc xâm lược của Ottoman đối với Đế chế Byzantine kéo dài hơn một thế kỷ

rưỡi với chiến thuật "chia tay" hoặc "thôn tính theo từng gói nhỏ". vùng đất này họ vượt
qua eo biển Dardanell và dần dần chiếm đóng và thay thế vị trí của người Byzantine ở
Balkans; Sau khi bình định vùng Balkan, người Thổ chiếm lại phần còn lại của Tiểu Á và
chinh phục kinh đô lớn Constantinople, từng bước người Ottoman khuất phục người
Byzantine và cuối cùng chấm dứt sự tồn tại của họ vào giữa thế kỷ 15.
Với sự tiêu diệt hoàn toàn. Từ Đế chế Byzantine, Đế chế Ottoman thay thế hồn
tồn vai trị lịch sử của người Byzantine ở Tiểu Á và vùng Balkan về kinh tế, chính trị và
văn hóa. Điều này cũng như nhiều cuộc đổi ngôi khác trong lịch sử Trung Đông diễn ra
không hề suôn sẻ, kẻ thua - người thắng là điều khó tránh khỏi. Văn hóa Hồi giáo tiếp tục
được phổ biến ở Trung Đông bởi Đế chế Ottoman, và dần dần thay thế dịng. Văn hóa Cơ
đốc giáo cổ đại của Đế chế Byzantine. Đế chế Ottoman đã thay thế hiệu quả Đế chế Ả
Rập Hồi giáo trước đây và đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo thế giới Hồi giáo trong nhiều thế
kỷ tới.
3. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA ĐẾ QUỐC ĐƠNG LA MÃ
3.1. Kinh tế
Đế chế Đơng La Mã có một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất ở Châu
Âu và Địa Trung Hải trong nhiều thế kỷ. Đặc biệt là châu Âu không thể theo kịp sức
mạnh kinh tế của người Đông La Mã cho đến cuối cùng. Constantinopolis là một trung
tâm rất quan trọng trong mạng lưới thương mại vào nhiều thời điểm bao gồm gần như
toàn bộ Âu-Á và Bắc Phi, đặc biệt là điểm đến phía tây cuối cùng của Con đường Tơ lụa
nổi tiếng. Cho đến nửa đầu thế kỷ thứ 6 và hoàn toàn trái ngược với sự suy tàn ở phía tây,
nền kinh tế của Đơng La Mã đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, đại dịch Justinianus
và các cuộc chinh phạt của người Ả Rập đã làm thay đổi đáng kể sự thịnh vượng của ơng
và góp phần vào một thời kỳ trì trệ và suy tàn. Những cải cách của nhà Isaurios và đặc
biệt là sự gia tăng dân số dưới thời Konstantinos V, các cơng trình cơng cộng và cùng với
các biện pháp đánh thuế đã đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ tái kích hoạt kéo dài
đến năm 1204 bất chấp sự thu hẹp của lãnh thổ. Từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 12, Đế chế
Đông La Mã là biểu tượng của sự sang trọng và du khách từ khắp nơi trên thế giới bị ấn
tượng bởi sự giàu có tích lũy được ở thủ đô. Tuy nhiên, cuộc Thập tự chinh lần thứ tư đã
gây ra sự ngừng sản xuất Sức mạnh của nền kinh tế Đông La Mã và sự thống trị thương

mại của Tây Âu ở phía đơng Địa Trung Hải, những sự kiện là một thảm họa kinh tế đối
với đế chế cổ sinh học, đã cố gắng kích hoạt lại nền kinh tế, nhưng nhà nước Đơng La Mã
10


lOMoARcPSD|12114775

sẽ khơng hồn tồn kiểm sốt đạt được chúng. sức mạnh kinh tế quốc gia hoặc đối ngoại.
Nó cũng dần mất đi ảnh hưởng đối với các hình thức thương mại, cơ chế định giá và
quyền, quyền kiểm soát việc lưu thông kim loại quý và, theo một số học giả, thậm chí cả
việc đúc tiền xu.
Các tác phẩm cổ điển được truyền bá nhiều lần ở phía đơng La Mã. Do đó, khoa
học Đơng La Mã ln gắn liền với triết học cổ đại và siêu hình học. Mặc dù người Đông
La Mã đạt được những thành tựu to lớn trong việc ứng dụng khoa học vào các thời điểm
khác nhau, nhưng kể từ thế kỷ thứ 6. Các học giả Đông La Mã của thế kỷ 20 cống hiến
chủ yếu cho nghiên cứu mới nhằm phát triển lý thuyết mới hoặc mở rộng ý tưởng của các
tác giả cổ đại. Sự uyên bác của họ đã bị trì hoãn đặc biệt là trong những năm đen tối của
dịch hạch và sự chinh phục của người Hồi giáo, nhưng sau đó nó được gọi là một giai
đoạn gọi là kỉ nguyên Phục hưng Đông La Mã vào cuối năm đầu tiên, các học giả Đông
La Mã đã được xác nhận trong các chuyên gia trong sự phát triển khoa học của người Ả
Rập. Người Đông La Mã cũng được ghi nhận với những tiến bộ công nghệ, đặc biệt là
trong kiến trúc và công nghệ chiến tranh. Trong thế kỷ cuối cùng của đế chế, các nhà ngữ
văn Đông La Mã chịu trách nhiệm chính trong việc phổ biến và ghi chép các nghiên cứu
về ngữ pháp cổ đại và văn học Hy Lạp cho đến đầu thời kỳ Phục hưng. ở Ý Trong thời
gian này, thiên văn học và toán học được giảng dạy ở Trebizond; Y học cũng thu hút sự
quan tâm của hầu hết các học giả.
Trong lĩnh vực luật, những cải cách của Justinianus I đã có ảnh hưởng rõ ràng
đến sự phát triển của luật học, và Ecloga Leo III. cũng ảnh hưởng đến sự hình thành của
hệ thống pháp luật Xlavơ.
3.2.


Tơn giáo

Để chứng minh quyền lực phổ quát của Tòa Thượng Phụ thành
Constantinopolis, Hoàng đế Justinianus I đã ra lệnh xây dựng Đại thánh đường Hagia
Sophia, cơng trình này được hồn thành chỉ trong 4 năm rưỡi.
Sự tồn tại của một đế chế ở phía đơng đảm bảo vai trị tích cực của hồng đế
trong các cơng việc của Giáo hội. Nhà nước Đơng La Mã thừa hưởng thói quen hành
chính và tài chính trong việc giải quyết các vấn đề tơn giáo từ thời kỳ đa thần, và điều này
vẫn đúng với Giáo hội Kitơ ngày nay. Theo mơ hình của Eusebius ở Caesarea, người dân
Byzantine xem hoàng đế như một đại diện hoặc sứ giả của Chúa Kitô, với trách nhiệm
đặc biệt trong việc truyền bá đạo Thiên chúa giữa những người ngoại giáo và cho những
điều nằm ngồi tơn giáo, Như Cyril Mango đã chỉ ra, tư duy chính trị của Đơng La Mã có
thể được tóm gọn trong một phương châm: "Một Chúa, một đế chế, một tơn giáo".
Tín lý Kitô giáo được định ra bởi bảy Công đồng Đại kết đầu tiên, và sau đó bổn
phận của hồng đế đó là áp đặt lên nhân dân của mình. Một sắc lệnh của đế quốc năm
388, sau đó được đưa vào bộ luật dân sự, ra lệnh cho cư dân của đế quốc phải "xưng nhận
là Kitô hữu"; và coi tất cả những ai không tuân theo luật pháp là "điên rồ và ngu ngốc" và
là tín đồ của "tín điều dị giáo".
Sự khác nhau chính giữa Hồi giáo, Kito giáo Chính thống, Cơng giáo La Mã
11


lOMoARcPSD|12114775

Nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp rất quan trọng đối với sự thống nhất và tồn tại
của đế chế. Ở Hoa Kỳ, sự phân chia hiến pháp giữa nhà thờ và nhà nước đơi khi rất khó
hiểu. Quyền lực chính trị mà các tổ chức tơn giáo đã đạt được. Nhưng trong nhà thờ và
nhà nước của Đế chế Byzantine là một và phát triển mạnh mẽ. Điều làm cho nó khác biệt
với Giáo hội Latinh là Giáo hội khơng bao giờ tách khỏi nhà nước La Mã, nó tất nhiên

cũng bị đàn áp và bắt bớ, nhưng khi trở thành quốc giáo thì nó vẫn ở đó, cố gắng duy trì
quyền tự trị của nó.
Sứ mệnh đến Nga: Tuy nhiên, khi Nhà thờ Đông La Mã cử các đồn truyền như
vậy, họ cũng đóng vai trị là phái viên của nhà nước Byzantine và các nhà lãnh đạo ngoại
giáo đã cải đạo cũng trở thành đồng minh chính trị của đế chế, hoặc ít nhất là trong tương
lai họ hy vọng sẽ trở thành. Ví dụ điển hình nhất của chính sách ngoại giao kinh tế này là
vào thế kỷ thứ 9 khi các nhà truyền giáo Cyrin và Methodius, sau này được phong thánh,
đã phát minh ra kinh sách và nghi lễ được người Bulgari và người Slav ở Balkan áp dụng.
Vào thế kỷ thứ 10, nó cũng được sử dụng bởi người Slav ở Nga, đó là lý do tại sao chữ
viết Nga được gọi là "Cyrillic" hoặc "Syrillic", từ có nghĩa là Cyril.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là những bất đồng tôn giáo dễ dàng trở thành chia
rẽ chính trị trong Đế chế Byzantine và ngược lại. Sự ổn định chính trị và sự thống nhất
của đế chế đã bị mất. Chịu ảnh hưởng của những xung đội ý thức hệ. Xung đột ý thức hệ
đôi khi được coi là "môn thể thao yêu thích" của người Byzantine là đua xe ngựa, nhưng
xung đột Cuộc khủng hoảng này đã để lại những hậu quả lâu dài tàn khốc.
3.3.

Văn học và nghệ thuật

Có bốn yếu tố văn hóa khác nhau cần xem xét trong văn học Byzantine: Hy Lạp,
Kitô giáo, La Mã và phương Đơng. Văn học Byzantine thường được chia thành năm
nhóm: các nhà sử học và người ghi chép, biên niên sử, người hoài nghi và tiểu luận, và
các nhà văn sử thi. Hai nhóm cịn lại bao gồm các nhóm văn học mới: văn học giáo hội và
thần học, và thơ ca bình dân.
Trong số hai đến ba nghìn tuyển tập văn học Byzantine hiện có, chỉ có 330 là sử
thi, lịch sử, khoa học và giả khoa học. Trong thời kỳ hoàng kim của văn học thế tục
Byzantine, kéo dài từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 12, văn học tôn giáo đã phát triển sớm hơn
nhiều, với người La Mã là thành phần nổi bật nhất của nó.
3.4.


Ngoại giao

Sau khi Tây La Mã sụp đổ, thách thức chính đối với người Byzantine là duy trì
quan hệ với các nước láng giềng. Vì các quốc gia này có xu hướng thiết lập các thể chế
chính trị, nên họ thường noi gương Constantinopolis. Bộ máy ngoại giao Byzantine cố
gắng thu phục các quốc gia láng giềng tham gia vào mạng lưới quan hệ quốc tế và xuyên
quốc gia. Mạng lưới này xoay quanh việc ký kết các hiệp ước và liên quan đến việc kết
nạp các nhà cai trị mới vào gia đình các vị vua và thích ứng với các thái độ, giá trị và thể
chế xã hội của Byzantine. Trong khi các nhà văn phương Tây cổ điển quan tâm đến việc
tạo ra sự khác biệt về đạo đức và luật pháp giữa chiến tranh và hịa bình, thì người
Byzantine xem ngoại giao như một hình thức chiến tranh bằng các phương tiện khác. Ví
dụ, mối đe dọa từ Bulgaria có thể được đối phó bằng cách giúp đỡ Kiev của Nga.
12


lOMoARcPSD|12114775

Ngoại giao lúc đó được hiểu là chức năng thu thập thơng tin vượt ra ngồi chức
năng chính trị thuần túy. Văn phòng ở Constantinople đã lo việc tiếp nhận và các câu hỏi
lý lịch cho các trường hợp liên quan. "Người bản xứ" và do đó có thể có vai trị tình báo
cơ bản với John B. Bury. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm về thơng tin liên lạc.
Nhìn bề ngồi, cơng việc chính của văn phịng lễ tân là đảm bảo rằng các phái đoàn nước
ngoài được chăm sóc chu đáo và có đủ nguồn ngân sách để duy trì hoạt động và tất cả các
thơng dịch viên chính thức, những người cần có vai trị an ninh đều tham gia.
Người Byzantine được hưởng lợi rất nhiều từ các hoạt động ngoại giao. Ví dụ,
các nhiệm vụ ở thủ đô thường ở lại trong nhiều năm. Một thành viên của các gia đình
hồng gia xung quanh thường phải ở lại Constantinopolis, anh ta không chỉ là một con tin
khả dĩ mà còn là một lời cam kết hữu ích trong trường hợp hồn cảnh chính trị của đất
nước mà anh ta đến phải thay đổi. Một phương pháp quan trọng khác là dìm khách bằng
nhung. Lụa sang trọng. Theo D. Obolenskiy, nền văn minh Châu Âu cổ đại được bảo tồn

nhờ vào kỹ năng và sự khéo léo của nền ngoại giao Byzantine và là một trong những đóng
góp cuối cùng từ phương Đơng La Mã dành cho lịch sử châu Âu.
3.5.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ ban đầu của chính quyền đế quốc, xuất phát từ La Mã, là tiếng Latinh,
và nó vẫn là ngơn ngữ chính thức của đế chế cho đến thế kỷ thứ 7 khi nó được thay thế
hoàn toàn bằng tiếng Anh. Người Hy Lạp dưới thời trị vì của Heraclius. Ngơn ngữ Latinh
sẽ sớm bị các tầng lớp giáo dục từ bỏ, nhưng sẽ tiếp tục được sử dụng, đôi khi là một
phần của các nghi lễ văn hóa ở đế quốc. Ngồi ra, tiếng Latinh dân gian vẫn là một ngôn
ngữ thiểu số trong đế chế và trong số các cư dân Traco-La Mã, từ đó nó đã khai sinh ra
ngơn ngữ tiền Romania.
Nhiều ngôn ngữ khác cũng tồn tại trong đế chế đa sắc tộc này, và một số ngôn
ngữ nhận được quy chế chính thức hạn chế ở các tỉnh của họ vào những thời điểm khác
nhau. Đặc biệt là vào thời Trung cổ cao. Cổ, Syria và Aramaic đã được sử dụng rộng rãi
bởi các tầng lớp có học ở các tỉnh miền đông. Tương tự, các ngôn ngữ Copt, Armenia và
Gruzia trở nên quan trọng đối với hệ thống giáo dục ở các tỉnh, và các mối quan hệ ngoại
giao quan trọng sau này đã khiến tiếng Slavonic, Vlach và Ả Rập trở nên quan trọng trong
đế chế và trong phạm vi ảnh hưởng của nó.
Ngồi ra, Constantinopolis từ lâu đã trở thành trung tâm thương mại quan trọng
nhất ở Địa Trung Hải và hơn thế nữa, hầu như tất cả các ngôn ngữ thời Trung cổ đều được
sử dụng trong đế chế vào một thời điểm nào đó, thậm chí cả tiếng Trung Quốc. Khi đế chế
gần tuyệt chủng, các cơng dân của nó ngày càng trở nên đồng nhất về văn hóa, và tiếng
Hy Lạp gắn liền với bản sắc và tôn giáo của họ.
3.6.

Di sản

Các nghiên cứu gần đây đã nhìn nhận Đế chế Đơng La Mã một cách công bằng

hơn và tập trung vào những thành tựu của nó. Averil Cameron cho rằng người Byzantine
đã đóng góp khơng thể phủ nhận vào sự hình thành của châu Âu thời trung cổ, và cả
Cameron và Obolensky đều cơng nhận vai trị cơ bản của người Byzantine trong việc hình
thành. Chính thống giáo, vốn là trung tâm của lịch sử và xã hội Hy Lạp và Bungari. ,
13


lOMoARcPSD|12114775

Serbia và một số quốc gia khác trong thời Trung cổ. Người Đơng La Mã cịn lưu giữ và
sao chép nhiều tài liệu cổ và do đó được coi là những người trơng coi và truyền đạt kiến
thức cổ, có đóng góp lớn trong việc hình thành văn hóa châu Âu hiện đại và là tiền đề
của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng và văn hóa Chính thống Xlavơ.
3.7.

Kiến trúc

Trong Đế chế Byzantine, những thành tựu của kỹ thuật xây dựng trước đó càng
được hồn thiện, chẳng hạn như các mái vịm có đường kính lớn, mái vịm bằng gạch,
các cấu trúc liền kề, cân đối và hợp lý. Đế chế Byzantine, bao gồm các quốc gia Đông Địa
Trung Hải, được thành lập do sự tan rã và phân chia của Đế chế La Mã. Byzantine lấy thủ
đô của họ là Constantinople (theo tên của hoàng đế La Mã Constantine). I) - một thành
phố ở phía nam của Biển Đen. Đế chế tồn tại hơn một thiên niên kỷ, có tác động lớn đến
kiến trúc của thời Trung cổ và thời kỳ Phục hưng ở châu Âu, và sau cuộc chinh phục
Osman Constantinople của Ottoman vào năm 1453, đã dẫn trực tiếp đến kiến trúc của Đế
chế Ottoman.
Sự phát triển của kiến trúc Byzantine được chia thành 3 giai đoạn:
Kiến trúc Biiantine sơ khai (thế kỷ 4 - 6), đây cũng là thời kỳ hoàng kim của nhà
nước Byzantine. Việc xây dựng Constantinople đã được nâng cao rất nhiều và thành phố
này được mệnh danh là "thành phố vàng". Cây cầu nối đơng và tây. “Kiến trúc có nhiều

loại hình: thành quách, cổng thành, cung điện, quảng trường, cống dẫn nước,… đặc biệt là
nhà thờ được phát huy trong q trình xây dựng, quy mơ ngày càng đồ sộ, hình dáng
ngày càng bề thế, kiến trúc cung điện. vẫn theo phong cách kiến trúc La Mã Ngược lại,
nhà thờ cần có một thiết chế mới, vì Cơ đốc giáo là quốc giáo, khi truyền sang, phương
Đơng cịn được gọi là phương Đông. của một tác giả. Tuyệt phẩm là Hagia Sophia Thời
kỳ này còn được gọi là thời kỳ hoàng kim của kiến trúc
Kiến trúc giữa Byzantine (thế kỷ 7 - 12), do đất đai bị thu hẹp vì sau khi bị
ngoại xâm xâm lược nên quy mô và số lượng kiến trúc hiện nay đã giảm, đặc điểm kiến
trúc là trên một diện tích đất nhỏ, vẫn lấy sự phát triển làm cao độ chính, nhưng khơng có
những mái vịm lớn hơn với vị trí trung tâm. Cơ ngơi được thể hiện qua việc xây dựng
một cơng trình tiêu biểu của kiến trúc Byzantine, nhưng nó lại nằm ở Venice, về phía tây
là Nhà thờ S.Marco
Kiến trúc Byzantine muộn (thế kỷ 13 và 15), kiến trúc Byzantine không thể
được xây dựng trong thời kỳ này vì nhà nước đã bị phá hủy bởi các cuộc xâm lược của
quân Thập tự chinh. Tòa nhà nhỏ, về chủ yếu là trang trí bên trong, cho đến khi bị người
Thổ Nhĩ Kỳ phá hủy (1453) thì kiến trúc khơng có gì đặc sắc. Kiến trúc Byzantine nói
chung đã làm nên thời kỳ hoàng kim do tổng hợp những thành tựu nổi tiếng của nó.
Những phát hiện về vịm gạch Tây Á, việc sử dụng các cột cổ điển từ thời Hy Lạp cổ
đại, và khám phá sự vĩ đại của kiến trúc La Mã cổ đại.

14


lOMoARcPSD|12114775

PHẦN KẾT LUẬN

Cho đến nay là một trong những câu chuyện dài nhất và phong phú nhất trong
sử sách của chúng ta, lịch sử của Đế chế Byzantine đầy rẫy những âm mưu, kẻ sốn
ngơi, những kẻ thống trị và chinh phục đầy tham vọng, tất cả đều không thể che giấu vẻ

đẹp của Đế chế Đông La Mã giàu có và huy hồng. . Nhưng thời gian trơi qua thật tàn
nhẫn, và bất kỳ đế chế hùng mạnh nào đến một lúc nào đó cũng sẽ sụp đổ và chịu sức ép
của nhiều kẻ thù muốn mở rộng biên giới và đánh cắp của cải của họ.
Vì vậy, một đế chế đã trải dài gần một thiên niên kỷ, một cuộc đời gần như chưa
từng có trong lịch sử, đã kết thúc ở một bước ngoặt cơ bản của lịch sử, một kết thúc định
mệnh được quyết định bởi bối cảnh chính trị. Giá trị thay đổi nhanh chóng. Và nó là kết
thúc này: sự sụp đổ bi thảm. của Đế chế Byzantine, sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến châu Âu
trong nhiều thế kỷ.
Bộ môn lịch sử văn minh Thế Giới là một kho báu quý giá, cung cấp đủ kiến
thức liên quan đến nhu cầu thực tế của học viên. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết và khả
năng tiếp thu thực tế còn hạn chế nên vẫn còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết
sức nhưng chắc chắn bài báo cáo còn nhiều chỗ khó tránh khỏi những sai sót và thiếu
chính xác, kính mong thầy xem xét và góp ý để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn.

15


lOMoARcPSD|12114775

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Byzantine Empire | History, Geography, Maps, & Facts. (n.d.). Encyclopedia Britannica.
:443/place/Byzantine-Empire
2. Chiến tranh giữa Đông La Mã và Ottoman. (n.d.). Quan Hệ Giữa Đế Quốc Ottoman và
Đế Quốc Byzantine (1299 – 1453).
/>3. Đông

La

Mã.


(n.d.).

Văn

Minh

Phương

Tây:

Đế

Quốc

Byzantine.

/>4. lịch

sử

Byzantine.

(n.d.).

Lịch

Sử

Đế


Quốc

Byzantine.

/>5. Kiến Trúc. (n.d.). Kiến Trúc Byzantine - Sự Tiếp Nối Của Kiến Trúc La Mã Cổ Đại.
/>
16



×