Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.21 KB, 14 trang )


Bộ GIáO DụC V ĐO TạO Bộ TƯ PHáP


TRƯờng đại học luật h nội


Nguyễn đình thơ








Hon thiện pháp luật trọng ti thơng mại
của việt nam trong điều kiện hội nhập quốc tế





LUậN áN TIếN Sĩ LUậT HọC














H nội - 2007

Bộ GIáO DụC V ĐO TạO Bộ TƯ PHáP


TRƯờng đại học luật h nội


Nguyễn đình thơ





Hon thiện pháp luật trọng ti thơng mại
của việt nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Chuyên ngnh: Luật Kinh tế
M số: 62 38 50 01


LUậN áN TIếN Sĩ LUậT HọC





Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Dũng
PGS.TS. Dơng Đăng Huệ










H nội 2007


24
2. Pháp luật TTTM của Việt nam, về cơ bản, đã thể hiện đợc
những nguyên tắc chung về TTTM trên thế giới, tiếp thu những điểm
hợp lý và phổ biến trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thơng mại
bằng trọng tài của một số nớc và xu thế phát triển của TTTM trên
thế giới. Tuy vậy, quá trình thực hiện đến nay cho thấy các quy định
của pháp luật TTTM của chúng ta đã bộc lộ những bất cập, dẫn đến
quá trình thực hiện có những vớng mắc, cha tạo ra đợc một cơ chế
thật sự thông thoáng cho hoạt động của TTTM. Thực tế này đòi hỏi
pháp luật TTTM phải đợc tiếp tục hoàn thiện mới có thể đáp ứng
đợc yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và trong
thời gian tới.
3. Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng của giới luật gia là nghiên

cứu để góp phần hoàn thiện cơ sở pháp luật cho TTTM hoạt động có
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, công việc này chỉ có thể thành công khi
chúng ta nắm bắt đợc bản chất của TTTM, các yếu tố chi phối sự
thành công hay thất bại trong hoạt động của nó, tình hình và xu thế
phát triển của TTTM của các nớc trên thế giới và đặc biệt là các yêu
cầu mới mà nền kinh tế nớc ta đang đặt ra cho các cơ quan tài phán
kinh tế, trong đó có TTTM. Tác giả đã dành nhiều thời gian và công
sức cho việc nghiên cứu những vấn đề này và coi những thành công,
kết quả nghiên cứu chúng là cơ sở lý luận và thực tiễn để đa ra các
kiến nghị cụ thể của mình nhằm hoàn thiện pháp luật TTTM mại của
nớc ta thời gian tới.
4. Trên cơ sở nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện các vấn đề
lý luận và thực tiễn của TTTM trên thế giới và Việt Nam ta, luận án
đã đa ra một loạt các kiến nghị liên quan đến thể chế, thiết chế và
các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động của TTTM. Những kiến
nghị này sẽ là những nội dung quan trọng, cơ bản mà cơ quan có
trách nhiệm soạn thảo Luật Trọng tài thơng mại (đã đợc đa vào
Chơng trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội Khóa XII (2007
-2012) sẽ phải quan tâm giải quyết.


1
LờI Mở ĐầU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Cùng với việc thực hiện chủ trơng đổi mới quản lý kinh tế
theo cơ chế thị trờng định hớng XHCN, Việt Nam đang tích cực
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những yêu cầu của quá
trình hội nhập này là bảo đảm tôn trọng và thực thi những quy định
của các tổ chức quốc tế cũng nh những cam kết trong các hiệp định.
Điều đó đòi hỏi Nhà nớc ta phải đổi mới hệ thống pháp luật, nhất là

pháp luật kinh tế để đảm bảo sự tơng thích của nó với pháp luật quốc
tế và các nớc trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu
cầu: Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với
khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nớc,
các tổ chức quốc tế về thơng mại, đầu t, dịch vụ và các lĩnh vực
khácChuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi
nớc ta gia nhập WTO. Khẩn trơng đổi mới thể chế kinh tế, hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các
quy định, thông lệ quốc tế.
Trong lĩnh vực pháp luật về tài phán kinh tế, Pháp lệnh
TTTM (đợc Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội thông qua ngày
25/02/2003, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2003), là một văn
bản pháp luật đợc xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản
pháp luật về trọng tài ở Việt Nam, có tiếp thu một số nội dung cơ bản
của Luật Mẫu UNCITRAL. Pháp lệnh đã khắc phục đợc những bất
cập của các văn bản pháp luật về trọng tài trớc đó, mà bớc chuyển
biến có tính đột phá là đã tạo ra đợc mặt bằng pháp lý chung cho
hoạt động của trọng tài trong nớc và trọng tài quốc tế ở Việt Nam;
xây dựng đợc mối quan hệ hỗ trợ giữa Toà án và trọng tài; tạo ra
đợc cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, qua
thời gian thi hành từ ngày 1/7/2003 đến nay cho thấy, Pháp lệnh
TTTM cha phát huy đợc đầy đủ vai trò của mình trong đời sống
kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình hình này chủ yếu là do: nhận
thức của giới doanh nhân về trọng tài cha đầy đủ; chất lợng đội ngũ
TTV cha cao; kinh nghiệm của các Thẩm phán trong việc thực hiện
hỗ trợ trọng tài cha nhiều; tổ chức và hoạt động của các TTTT còn
nhiều yếu kém và đặc biệt là các quy định pháp luật về TTTM cha
đợc hoàn thiện đến mức cần thiết. Pháp lệnh TTTM 2003 với t cách
là nguồn pháp luật chủ yếu của pháp luật về TTTM đã bộc lộ không ít


2
hạn chế, bất cập làm ảnh hởng đến hoạt động của TTTM ở nớc ta
trong thời gian qua.
Trong khi đó, thực tiễn sôi động của hoạt động kinh doanh,
thơng mại trong nền kinh tế thị trờng tất yếu dẫn đến việc tranh
chấp phát sinh ngày càng nhiều về số lợng, lớn về quy mô, đa dạng
về nội dung và phức tạp về tính chất. Đồng thời, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế với việc phải thực hiện đúng các nghĩa vụ quy định
trong các hiệp định đa phơng và song phơng, tôn trọng tập quán
thơng mại quốc tế đòi hỏi pháp luật về TTTM phải đợc tiếp tục sửa
đổi, bổ sung để hoàn thiện, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn
định và minh bạch, đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết các tranh
chấp thơng mại. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ
bản về TTTM và thực trạng pháp luật TTTM, phát hiện ra những bất
cập trong quy định pháp luật để từ đó đề xuất những phơng hớng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật TTTM là vấn đề hết sức cần thiết hiện
nay. Đề tài Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thơng mại của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế đợc thực hiện là nhằm góp
phần đạt đợc mục đích đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề pháp luật về trọng tài đã đợc giới luật gia trong nớc
và ngoài nớc quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, khi Nghị định 116/CP
ngày 5/9/1994 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế phi chính phủ đã tỏ ra có nhiều bất cập và việc soạn
thảo Pháp lệnh TTTM đang đợc tiến hành một cách khẩn trơng thì
các nhà khoa học pháp lý của Việt Nam lại càng có nhiều bài viết,
nghiên cứu về vấn đề này. TS. Nguyễn Am Hiểu có bài Một số đặc
điểm của pháp luật trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện nay
(Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 5, 1997); PGS.TS. Nguyễn Nh
Phát có bài Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế (Tạp

chí Nhà nớc và pháp luật, số 11, 2001; TS. Dơng Thanh Mai có
bài Việc tiếp nhận luật mẫu của UNCITRIAL về Trọng tài thơng
mại Quốc tế ở một số nớc và việc xây dựng Dự thảo Pháp lệnh
Trọng tài của Việt Nam (Tạp chí Nhà nớc và pháp luật số 9, 1998);
PGS.TS. Dơng Đăng Huệ có bài Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở
Việt Nam - Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của nó (Thông tin khoa học pháp lý - Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý Bộ T pháp, số 5, 1999). Các bài viết này đã đề cập

23
cầu khách quan khác nên việc hoàn thiện pháp luật TTTM hiện nay
vẫn còn là vấn đề thời sự, cần quan tâm nghiên cứu.
2. Việc hoàn thiện pháp luật TTTM, muốn thành công, cần
phải đợc dựa trên những yêu cầu (nguyên tắc) nhất định. Vì vậy,
việc tìm ra các yêu cầu đó là điều mà luận án cần phải quan tâm giải
quyết. Theo tác giả luận án, có rất nhiều yêu cầu mà pháp luật TTTM
trong tơng lai, cần phải đáp ứng. Trong số các yêu cầu này, đáng lu
ý nhất là yêu cầu cần phải mở rộng thêm thẩm quyền của TTTM để
tạo cơ hội tốt hơn cho các nhà kinh doanh trong việc sử dụng TTTM
nh một cơ chế hữu hiệu nhằm giải quyết một cách kịp thời và đầy đủ
các tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, do yêu cầu của hội nhập, pháp luật
TTTM cần phải đợc xây dựng theo hớng bảo đảm tốt hơn quyền tự
định đoạt của các bên tranh chấp trong việc giải quyết các vấn đề phát
sinh từ việc yêu cầu TTTM giải quyết các tranh chấp cho mình. Trong
số các quyền tự định đoạt này có quyền của các bên tranh chấp là các
doanh nghiệp Việt Nam đợc lựa chọn TTTT thơng mại nớc ngoài,
TTV nớc ngoài và pháp luật nớc ngoài để giải quyết các tranh chấp
cho mình.
3. Việc hoàn thiện pháp luật TTTM Việt Nam cần phải đợc
tiến hành một cách đồng bộ, trên nhiều phơng diện. Theo tác giả,

trớc hết, phải thay Pháp lệnh TTTM 2003 bằng một đạo luật về
TTTM và sau đó là phải nghiên cứu để hoàn thiện một loạt các quy
định trong pháp luật hiện hành đã tỏ ra không còn phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội mới của nớc ta cũng nh yêu cầu của hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Luận án đã đa ra 10 nhóm kiến nghị với
tổng cộng 20 đề xuất giải quyết các vấn đề đang tồn tại của pháp luật
TTTM hiện hành. Ngoài những kiến nghị về mặt thể chế, luận án còn
đa ra các kiến nghị về mặt thiết chế và các kiến nghị trong các lĩnh
vực khác nhằm tạo cơ chế pháp luật hoàn thiện hơn cho TTTM nớc
ta hoạt động trong tơng lai.

Kết luận
1. Trọng tài thơng mại với tính chất là một hình thức tài phán
t, đã và đang đợc các nhà kinh doanh trên thế giới a chuộng và tin
dùng trong việc giải quyết tranh chấp. ở Việt Nam, do còn nhiều hạn
chế nên TTTM cha thể hiện đợc các u thế của mình, cha khẳng
định đợc uy tín mà TTTM các nớc đã làm đợc trong giới doanh
nhân.

22
Thứ mời, về nguyên tắc ra quyết định trọng tài.
Để khắc phục bất cập trong quy định tại Điều 42 của Pháp lệnh
TTTM về nguyên tắc ra quyết định trọng tài, đề nghị bổ sung thêm
vào Điều này nh sau:Trong trờng hợp không đạt đợc đa số, quyết
định trọng tài đợc lập theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng trọng
tài.
3.2.1.3. Những kiến nghị nhằm bảo đảm sự thống nhất trong
các quy định pháp luật khác có liên quan đến Trọng tài thơng mại.
Thứ nhất, thống nhất về nội hàm của khái niệm hoạt động
thơng mại, tranh chấp kinh doanh, thơng mại trong các văn bản

pháp luật, tạo điều kiện cho việc xác định thẩm quyền của Trọng tài
thơng mại.
Thứ hai, thống nhất việc xác định yếu tố nớc ngoài trong
quan hệ thơng mại.
Thứ ba, cần có quy định hớng dẫn, giải thích thống nhất về
nguyên tắc áp dụng pháp luật nớc ngoài.
3.2.2. Các giải pháp về mặt thiết chế có liên quan đến Trọng tài
thơng mại.
Cần tăng cờng tổ chức và hoạt động của các cơ quan Toà án,
thi hành án dân sự, trong đó chú ý nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn của Thẩm phán và Chấp hành viên để thực hiện tốt nhiệm vụ hỗ
trợ hoạt động giải quyết tranh chấp của TTTM, thi hành quyết định
trọng tài.
3.2.3. Các giải pháp khác liên quan đến Trọng tài thơng mại.
Cần tuyên truyền sâu, rộng pháp luật trọng tài thơng mại.
Tăng cờng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trọng tài.
Kết luận chơng 3
1. Pháp luật TTTM ở nớc ta, mà văn bản có tính chất nền tảng
là Pháp lệnh TTTM năm 2003, về cơ bản đã khắc phục đợc nhiều
yếu kém, hạn chế của Nghị định 116/CP trớc đó, làm cho pháp luật
TTTM nớc ta trở nên hoàn thiện hơn, không chỉ phù hợp với thực
tiễn kinh tế - xã hội của Việt Nam mà còn phù hợp với pháp luật quốc
tế về TTTM. Tuy nhiên, do yêu cầu của hội nhập quốc tế và các yêu

3
đến trọng tài và pháp luật trọng tài ở nớc ta trong thời gian trớc khi
có Pháp lệnh TTTM năm 2003, đồng thời đã đề xuất các yêu cầu
cũng nh giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật trọng tài trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau khi Pháp lệnh TTTM đợc ban hành, PGS.TS. Dơng

Đăng Huệ đã có bài Pháp lệnh Trọng tài thơng mại năm 2003-
Động lực mới cho sự phát triển của trọng tài phi chính phủ ở nớc
ta, trong đó đã phân tích, bình luận một cách tổng hợp về các quy
định của Pháp lệnh nh một bớc đột phá trong pháp luật về trọng tài
ở nớc ta. Nguyên Chánh án Toà án nhân dân tối cao, nguyên Chủ
tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Hng có bài Tố tụng trọng tài
trong Pháp lệnh Trọng tài thơng mại, trong đó chủ yếu trình bày
về quy trình tố tụng trọng tài theo quy định của Pháp lệnh. Một số
luận án thạc sĩ Luật học cũng đã nghiên cứu về pháp luật TTTM ở
nớc ta nh: Về pháp luật Trọng tài thơng mại ở nớc ta hiện nay
(Luận án của Nguyễn Thị Thu Thuỷ, năm 2003); Pháp lệnh Trọng
tài thơng mại năm 2003- Cơ sở pháp lý mới cho sự thành lập và hoạt
động có hiệu quả của Trọng tài thơng mại Việt Nam (Luận án của
Huỳnh Thị Thanh Thảo, năm 2003); Vai trò của Toà án trong hoạt
động giải quyết tranh chấp thơng mại bằng trọng tài ở Việt Nam
(Luận án của Vũ ánh Dơng, năm 2006); Pháp luật giải quyết tranh
chấp thơng mại bằng hình thức trọng tài (Luận án của Phạm Thị
Phơng Thuỷ, năm 2004). Các luận án này chủ yếu đề cập đến những
vấn đề chung về TTTM nh khái niệm, đặc điểm, bản chất của trọng
tài và các quy định trong Pháp lệnh TTTM dới góc độ là những điểm
mới; về thực trạng tổ chức và hoạt động giải quyết tranh chấp của các
Trung tâm TTTM trong nớc, nguyên nhân của tình hình và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật mang tính đơn lẻ. Riêng luận án thạc sĩ của
Vũ ánh Dơng nghiên cứu ở một phạm vi hẹp hơn nhng là vấn đề
mới lần đầu tiên đợc quy định trong Pháp lệnh TTTM - vấn đề mối
quan hệ giữa Toà án và trọng tài và đề xuất một số kiến nghị cụ thể
nhằm khắc phục những điểm còn bất cập của quy định pháp luật TTTM
liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
Cũng đã có một số luận án tiến sĩ Luật học nghiên cứu về tài
phán kinh tế, trong đó có đề cập đến TTTM với t

cách là một hình
thức giải quyết tranh chấp kinh tế nh: Giải quyết tranh chấp kinh tế
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam của Đào Văn Hội,
năm 2003; Tài phán kinh tế ở nớc ta hiện nay của Trần Văn

4
Trung, năm 2003. Các luận án này đều có đề cập đến TTTM, nhng
dới góc độ là một hình thức tài phán kinh tế tồn tại song song với tài
phán Toà án. Vì vậy, nội dung các luận án chỉ dành một phần (ít hơn
so với phần về tài phán Toà án) để nghiên cứu về phơng thức giải
quyết tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài; việc nghiên cứu
một cách đầy đủ về pháp luật TTTM cha đợc thực hiện.
Các bài viết và công trình nghiên cứu nói trên chỉ đề cập đến
TTTM ở một phạm vi nhất định, nh: đặc điểm của TTTM, mối quan
hệ giữa Toà án và trọng tài, tài phán trọng tài, tố tụng trọng tàihoặc
đúc rút những điểm mới của Pháp lệnh TTTM. Mặt khác, cũng cha
có công trình nào nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật TTTM dới
góc độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vì vậy, có thể nói, đây
vẫn là vấn đề còn mới trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần phải
nghiên cứu giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề
lý luận cơ bản về TTTM, phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập
của pháp luật TTTM ở nớc ta, đề xuất phơng hớng, giải pháp hoàn
thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt
Nam đang tích cực tham gia.
Để đạt đợc mục đích trên, luận án phải hoàn thành một số
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
TTTM và pháp luật TTTM; phân tích làm rõ những yếu tố chi phối

chất lợng hoạt động của TTTM.
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật TTTM Việt Nam, qua
đó tìm ra sự tơng đồng và bất tơng đồng trong các quy định của
pháp luật TTTM Việt Nam với pháp luật TTTM quốc tế và các nớc
khác.
- Nghiên cứu làm rõ thực trạng hoạt động của các Trung tâm
TTTM ở nớc ta, tìm ra những vớng mắc phát sinh từ thực tiễn giải
quyết tranh chấp của các Trung tâm này trong thời gian qua.
- Phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật
TTTM làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về lĩnh vực này.

21
các bên phải chịu do việc Toà án từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời gây nên.
3. Đề nghị quy định thời điểm các bên đợc quyền yêu cầu Toà án
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là khi đơn kiện đợc TTTT thụ
lý (đối với trọng tài thờng trực) và khi Hội đồng Trọng tài đợc thành
lập (đối với trọng tài vụ việc).
Thứ bảy, về vấn đề địa điểm trọng tài.
Đề nghị bỏ đoạn nhng phải bảo đảm thuận tiện cho các bên
trong việc giải quyết ở cuối Điều 23 Pháp lệnh TTTM để bảo đảm
cho HĐTT đợc chủ động trong việc giải quyết tranh chấp.
Thứ tám, về tiêu chuẩn Trọng tài viên.
Trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nớc ngoài
phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nớc, đề nghị vẫn nên quy định
về tiêu chuẩn TTV, nhng nên linh động hơn nhằm tạo ra một đội
ngũ TTV thật sự có chất lợng, đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết
tranh chấp bằng TTTM trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay và trong tơng lai.

Thứ chín, về lựa chọn pháp luật nớc ngoài, áp dụng pháp
luật nớc ngoài và lựa chọn Trọng tài viên nớc ngoài.
- Đề nghị không nên giới hạn quyền của các bên đợc lựa chọn
TTV nớc ngoài chỉ đối với những vụ tranh chấp có yếu tố nớc
ngoài, mà nên quy định cho phép các tổ chức, cá nhân Việt Nam cũng
đợc quyền chọn TTV là ngời nớc ngoài để giải quyết tranh chấp.
- Để các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
nớc ngoài hoạt động theo Luật Đầu t tại Việt Nam đợc quyền lựa
chọn áp dụng pháp luật nớc ngoài trong việc giải quyết tranh chấp,
đề nghị Khoản 1 Điều 7 Pháp lệnh TTTM cần đợc sửa đổi, bổ sung
nh sau: i vi v tranh chp gia các bên Vit Nam, Hi ng
Trng ti áp dng pháp lut ca Vit Nam gii quyt tranh chp.
Trờng hợp vụ tranh chấp có một bên hoặc các bên là Doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài tại Việt Nam thì
đợc quyền thoả thuận áp dụng pháp luật nớc ngoài theo nguyên tắc
quy định tại Khoản 2 Điều này.

20
HĐTT có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì đơng nhiên quyết
định trọng tài có hiệu lực thi hành.
Thứ năm, về thời hiệu khởi kiện.
1. Đề nghị sửa lại cách tính thời hiệu khởi kiện cho phù hợp
với quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Thơng mại là thời
hiệu khởi kiện tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
2. Sau khi Toà án xác định trọng tài không có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp thì việc đơng sự khởi kiện tại Toà án phải áp
dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
chứ không phải theo quy định của Pháp lệnh TTTM. Bởi vậy, câu
cuối cùng của Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh TTTM cần đợc sửa đổi
nh sau: Thời hiệu khởi kiện ra Toà án theo quy định của Bộ luật Tố

tụng dân sự, nhng không tính thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện
tại trọng tài đến ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều này.
3. Khoản 6 Điều 53 Pháp lệnh TTTM không quy định về thời
hiệu khởi kiện trong trờng hợp sau khi Toà án huỷ quyết định trọng
tài. Do vậy, để bảo đảm thống nhất về thời hiệu khởi kiện, cần sửa đổi
khoản này bằng cách bổ sung thêm câu sau đây: Thời hiệu khởi kiện
ra Toà án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nhng không
tính thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện tại trọng tài đến ngày Toà
án ra quyết định quy định tại Điều này.
Thứ sáu, về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1. Đề nghị Luật TTTM cần quy định Tòa án hỗ trợ trọng tài
trong việc thu thập chứng cứ đang do ngời thứ ba nắm giữ và triệu
tập nhân chứng tham gia tố tụng trọng tài. Theo đó, các biện pháp
khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 33 Pháp lệnh TTTM cần bổ sung
thêm biện pháp thu thập chứng cứ đang do ngời thứ ba nắm giữ;
triệu tập nhân chứng tham gia tố tụng. Quy định này phù hợp với
Luật Mẫu UNCITRAL (Điều 27) và Luật Trọng tài của các nớc trên
thế giới.
2. Đề nghị cần quy định trách nhiệm của Toà án phải có văn
bản thông báo cho các bên đơng sự về việc không chấp nhận yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và quyền khiếu nại, thủ tục
giải quyết khiếu nại đối với việc Toà án không áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; trách nhiệm của Toà án đối với những thiệt hại mà

5
- Đề ra các phơng hớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
TTTM đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam, phục vụ cho
việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu:

Luận án không có mục đích nghiên cứu tất cả các vấn đề của
pháp luật TTTM, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về pháp
luật TTTM, thực trạng pháp luật cũng nh thực trạng hoạt động của
các Trung tâm TTTM ở nớc ta, phát hiện những điểm còn hạn chế,
bất cập trong các quy định của pháp luật thực định, trên cơ sở đó, đề
xuất những phơng hớng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
TTTM đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng
phơng pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin,
quán triệt quan điểm, chủ trơng của Đảng và Nhà nớc ta về xây
dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm
quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan tài
phán kinh tế.
Các phơng pháp nghiên cứu cụ thể đợc sử dụng trong quá
trình nghiên cứu là phơng pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, luật
học so sánh
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án:
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể đợc các nhà lập pháp
tham khảo để hoàn thiện pháp luật TTTM, nhất là trong việc bảo đảm
sự tơng thích của pháp luật TTTM Việt Nam với pháp luật quốc tế và
các nớc trên thế giới. Luận án cũng là tài liệu tham khảo tốt cho các
nhà kinh doanh về TTTM và các quy định pháp luật TTTM để áp dụng
trong giải quyết tranh chấp. Các kết quả nghiên cứu của luận án cũng
rất bổ ích cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về TTTM ở
các trung tâm đào tạo cán bộ khoa học pháp lý ở nớc ta.
7. Những đóng góp mới của luận án:
Là công trình ở cấp độ luận án tiến sĩ Luật học nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về TTTM và pháp luật TTTM của


6
Việt Nam kể từ khi Pháp lệnh TTTM năm 2003 ra đời, luận án có
những điểm mới về khoa học sau đây:
- Chứng minh đợc rằng, TTTM đích thực chỉ có thể ra đời, tồn
tại và phát huy tác dụng trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất
định. Những điều kiện đó là: tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tôn
trọng sự thoả thuận của các nhà kinh doanh trong mọi lĩnh vực hoạt
động, trong đó, có lĩnh vực giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ
với nhau. Cũng chính dựa trên những cơ sở này mà luận án cũng đã
giải thích đợc tại sao trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trớc
đây không thể có TTTM đích thực mà chỉ có thể có những biến dạng
của nó dới hình thức Trọng tài kinh tế nhà nớc.
- Làm rõ về mặt lý luận khái niệm TTTM và bản chất của nó
với t cách là phơng thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả
thuận; phân tích một cách đầy đủ các u thế của TTTM làm cơ sở cho
việc nhận thức đúng đắn vai trò, tác dụng của TTTM, qua đó, giúp
các thơng nhân tin tởng và sử dụng trọng tài nh một giải pháp hữu
hiệu cho việc giải quyết tranh chấp.
- Xác định và phân tích một cách sâu sắc 7 yếu tố chi phối chất
lợng hoạt động của TTTM (tính chất của chế độ chính trị - kinh tế
của mỗi quốc gia, trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ hoàn
thiện của pháp luật về TTTM và các văn bản pháp luật khác có liên
quan, truyền thống văn hoá và nhận thức của giới doanh nhân về
TTTM, yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, sự hỗ trợ của nhà nớc
đối với TTTM và cuối cùng là phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên
môn của các TTV), qua đó tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề
xuất các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hơn nữa chất lợng hoạt
động của các Trung tâm TTTM ở nớc ta trong thời gian tới.
- Nêu và phân tích đợc những điểm tơng đồng và khác biệt
trong các quy định của pháp luật TTTM Việt Nam với pháp luật

TTTM quốc tế, qua đó phát hiện những vấn đề cụ thể cần phải đợc
sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật TTTM
Việt Nam theo xu hớng nhất thể hoá pháp luật TTTM đang diễn ra
trên thế giới hiện nay.
- Phát hiện đợc những bất cập của các quy định của pháp luật
TTTM hiện hành trong nhiều vấn đề, đặc biệt là trong các quy định
về thoả thuận trọng tài nhằm định hớng cho các giải pháp hoàn
thiện.

19
2. Đề nghị sửa đổi khái niệm hoạt động thơng mại trong Pháp
lệnh TTTM cho phù hợp với quy định của Luật Thơng mại năm
2005.
3. Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 5 Pháp lệnh TTTM để có căn
cứ giải quyết các trờng hợp vụ tranh chấp có thoả thuận trọng tài mà
thoả thuận đó không thực hiện đợc hoặc không thể thực hiện đợc.
4. Đề nghị huỷ bỏ quy định tại điểm 1.2.b. của Nghị quyết số
05/2003/NQ- HĐTP ngày 31/7/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hớng dẫn thi hành một số quy định của Pháp
lệnh TTTM, vì quy định này trái với Điều 5 Pháp lệnh TTTM và
không phù hợp với thông lệ chung về TTTM trên thế giới.
Thứ ba, về yêu cầu Toà án xem xét huỷ bỏ quyết định
trọng tài.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 54 Pháp lệnh TTTM cho phù
hợp với quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh. Cụ thể: Khoản 2 và
Khoản 4 Điều 54 cần bổ sung thêm đoạn: trừ trờng hợp đã có quyết
định giải quyết của Toà án theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh
này.
Thứ t, về xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
Hội đồng trọng tài.

1. Đề nghị pháp luật TTTM của Việt Nam cần tiếp nhận quy
định tại Điều 4 của Luật Mẫu UNCITRAL để giải quyết trờng hợp
khớc từ quyền khiếu nại đối với thẩm quyền của HĐTT. Một khi các
bên đã biết rằng trọng tài không có thẩm quyền nhng vẫn im lặng
hoặc vẫn tham gia tố tụng nhng không có phản đối thì đợc coi là đã
chấp nhận thẩm quyền của trọng tài hoặc đợc coi là từ bỏ quyền
phản đối của mình.
2. Đề nghị bổ sung vào Điều 30 Pháp lệnh TTTM để quy định
rõ trong thời gian Toà án đang xem xét giải quyết đơn khiếu nại của
đơng sự về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của HĐTT thì HĐTT
vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp bình thờng để bảo đảm tính
nhanh chóng của trọng tài. Nếu sau đó Toà án quyết định HĐTT
không có thẩm quyền thì HĐTT ra quyết định đình chỉ tố tụng trọng
tài. Trờng hợp quyết định trọng tài đã đợc công bố thì các bên có
quyền yêu cầu Toà án huỷ quyết định đó. Nếu Toà án quyết định

18
luật khác có liên quan.
3.1.5. Việc hoàn thiện pháp luật trọng tài thơng mại phải phù hợp
với đặc điểm tập quán kinh doanh của ngời Việt Nam.
3.2. Những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật
Trọng tài thơng mại Việt Nam.
3.2.1. Những giải pháp về mặt thể chế.
3.2.1.1. Giải pháp tổng thể:
Cần ban hành Luật TTTM thay thế cho Pháp lệnh TTTM hiện
nay. Với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và
đang tiếp tục đa nền kinh tế đất nớc hoà nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, thì việc ban hành Luật TTTM không chỉ là ý muốn
riêng của chúng ta, mà còn là đòi hỏi cấp thiết của tiến trình hội nhập
quốc tế.

3.2.1.2. Những kiến nghị cụ thể cần đa vào Luật Trọng tài
thơng mại.
Thứ nhất, về thoả thuận trọng tài.
1. Hình thức thoả thuận trọng tài quy định tại Điều 9 Pháp lệnh
TTTM cần đợc xây dựng lại cho phù hợp với quy định trong Luật
Mẫu của UNCITRAL.
2. Đề nghị bỏ quy định thoả thuận trọng tài vô hiệu khi không
quy định hoặc quy định không rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp tại Khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh TTTM
.
Luật TTTM và các văn bản hớng dẫn nên quy định cơ chế giải
quyết bảo đảm cho ý chí của các bên về việc sử dụng trọng tài để giải
quyết tranh chấp đợc thực hiện, phù hợp với Luật Mẫu UNCITRAL.
Thứ hai, về thẩm quyền của Trọng tài thơng mại.
1. Đề nghị nên quy định thẩm quyền của TTTM theo phơng
pháp loại trừ nh quy định của pháp luật trọng tài nhiều nớc thên thế
giới. Theo đó, TTTM không đợc giải quyết một số loại tranh chấp
nhất định (ví dụ các tranh chấp về hôn nhân gia đình, về giám hộ,
thừa kế, phá sản, tranh chấp hành chính,), ngoài các loại tranh chấp
đó ra thì đều thuộc thẩm quyền của TTTM.

7
- Phân tích đợc một cách cụ thể, đầy đủ các yêu cầu của hội
nhập kinh tế quốc tế và sự tác động của chúng đối với việc hoàn thiện
pháp luật về TTTM ở nớc ta. Theo tác giả, trong số các yêu cầu đó
đáng lu ý nhất là yêu cầu về việc mở rộng thẩm quyền của TTTM và
mở rộng quyền của các bên tranh chấp là các nhà kinh doanh Việt
Nam nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà kinh doanh trong nớc
với các nhà kinh doanh nớc ngoài trong việc sử dụng trọng tài nh
một phơng thức giải quyết tranh chấp.

- Đề ra những phơng hớng, giải pháp cụ thể để hoàn thiện
pháp luật TTTM đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam.
8. Kết cấu của luận án:
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận án có 3 chơng.
nội dung của luận án
Chơng 1
những vấn đề lý luận về trọng ti thơng mại
V PHáP LUậT TRọNG TI THƯƠNG MạI
1.1. Trọng tài thơng mại - một sản phẩm tất yếu của
nền kinh tế thị trờng.
1.1.1. Khái niệm, bản chất và u thế của Trọng tài thơng mại.
1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thơng mại.
Trong khoa pháp lý, Trọng tài thơng mại đợc nghiên cứu
dới những góc độ khác nhau, nhng chủ yếu dới hai phơng diện:
trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp và trọng tài là một
thiết chế giải quyết tranh chấp.
Qua phân tích, tác giả đa ra khái niệm: TTTM là một phơng
thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thoả thuận đa vụ việc ra
trớc một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán quyết, bên thứ
ba này có thể là một TTV hoặc một HĐTT; phán quyết của bên thứ
ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.

8
1.1.1.2. Bản chất của Trọng tài thơng mại.
Sự hình thành TTTM là một tất yếu khách quan. Quyền lực của
trọng tài là quyền lực hợp đồng hay quyền lực đại diện, do các
bên tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Phán quyết của trọng tài không
mang tính quyền lực nhà nớc mà mang tính đại diện cho ý chí của
các bên tranh chấp, có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.

Pháp lệnh TTTM của Việt Nam thể hiện khá đầy đủ bản chất
phi nhà nớc và tính tài phán của trọng tài, phù hợp với những nguyên
tắc chung trong thông lệ quốc tế.
1.1.1.3. Ưu thế của Trọng tài thơng mại.
So với các hình thức giải quyết tranh chấp khác nh thơng
lợng, hoà giải, Toà án, TTTM có những u thế nổi bật sau đây: (1)
Bảo đảm bí mật kinh doanh và uy tín nghề nghiệp của các bên tranh
chấp; (2) Trọng tài giải quyết mang tính thân thiện, tạo ra khả năng
tiếp tục duy trì đợc quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên; (3) Thủ tục
giải quyết của trọng tài đơn giản, bảo đảm giải quyết nhanh chóng
các tranh chấp, tiết kiệm đợc thời gian; (4) Trọng tài giải quyết có
tính linh hoạt, bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên; (5) Trọng
tài giải quyết bảo đảm tính chính xác cao, nhất là những vụ
việc có nội dung tranh chấp từ những vấn đề kinh tế- kỹ thuật
chuyên sâu; (6) Trọng tài không đại diện cho quyền lực t pháp của
Nhà nớc nên rất phù hợp để giải quyết những tranh chấp mà các
bên có quốc tịch khác nhau; (7) Phán quyết trọng tài đợc công nhận
và thi hành ở nớc ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những u điểm đó thì
trọng tài cũng có một số hạn chế. Với u thế của mình, TTTM đợc
các nhà kinh doanh ở các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển a
chuộng và đã trở thành một phơng thức giải quyết tranh chấp phổ
biến.
1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Trọng tài thơng mại.
Trên thế giới, nhất là ở những nớc có nền kinh tế thị trờng
phát triển, trọng tài ra đời từ rất sớm. ở Việt Nam, trọng tài ra đời khá
muộn. Vào đầu những năm sáu mơi của thế kỷ trớc, trọng tài ở
Việt Nam ra đời và đợc chia thành hai loại: trọng tài giải quyết tranh
chấp trong n
ớc (TTKT nhà nớc) và trọng tài giải quyết tranh chấp
quốc tế (HĐTT Ngoại thơng và HĐTT Hàng hải). TTKT nhà nớc


17
Những hạn chế này cần phải đợc khắc phục sớm để pháp luật
TTTM Việt Nam thật sự hội nhập với pháp luật TTTM quốc tế và
các nớc trên thế giới, góp phần phát huy vai trò, tác dụng của TTTM
trong hoạt động giải quyết tranh chấp ở nớc ta.
4. Ngoại trừ TTTT Quốc tế Việt nam mỗi năm thụ lý giải quyết
trung bình khoảng 20 vụ tranh chấp, các Trung tâm TTTM khác ở
nớc ta tồn tại mang tính hình thức, hoạt động cầm chừng. Từ những
hạn chế, bất cập của pháp luật TTTM và thực tiễn hoạt động kém hiệu
quả của các Trung tâm TTTM đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ phải tiếp
tục hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Muốn vậy, chúng ta phải xác
định đợc những yêu cầu, định hớng cơ bản cho mục tiêu hoàn thiện
pháp luật TTTM và có những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm cho
hoạt động giải quyết tranh chấp của TTTM đáp ứng đợc đòi hỏi của
nền kinh tế thị trờng trong điều điều kiện hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay và trong tơng lai.

Chơng 3
PHƯƠNG HƯớng hon thiện pháp luật
về trọng ti thơng mại Việt Nam
3.1. quan điểm và định hớng hoàn thiện pháp luật
Trọng tài thơng mại của Việt Nam.
Việc hoàn thiện pháp luật TTTM trong điều kiện nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế phải đáp ứng đợc các tiêu chí nh sau:
3.1.1. Pháp luật trọng tài thơng mại phải đáp ứng đợc những đòi
hỏi cơ bản của nền kinh tế thị trờng định hớng x hội chủ nghĩa
của Việt Nam.
3.1.2. Pháp luật trọng tài thơng mại phải bảo đảm tơng thích với

với pháp luật trọng tài quốc tế và pháp luật trọng tài của các nớc
trên thế giới.
3.1.3. Pháp luật trọng tài thơng mại phải thể hiện sự minh bạch,
thống nhất.
3.1.4. Việc hoàn thiện pháp luật trọng tài thơng mại phải đợc
tiến hành trong sự đồng bộ với việc hoàn thiện các lĩnh vực pháp

16
thời hiệu yêu cầu xem xét thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu khởi
kiện; thẩm quyền và thủ tục tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu;
việc yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng tài Những vớng mắc
này đòi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ để TTTM nớc ta hoạt động
đợc thuận lợi và có hiệu quả.
Kết luận chơng 2
1. Pháp luật TTTM hiện hành của Việt Nam mà xơng sống
của nó là Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi
cho hoạt động của TTTM so với thời gian trớc đây. qua nghiên cứu
các quy định của pháp luật TTTM Việt Nam, có sự liên hệ với những
quy định của pháp luật trọng tài các nớc khác, có thể kết luận rằng,
pháp luật TTTM của Việt Nam là tơng đối tiến bộ.
2. Pháp luật TTTM đã tạo mặt bằng pháp lý chung cho hoạt
động của tất cả các TTTT trên cả nớc với t cách là tổ chức tài phán
phi chính phủ; tạo cơ chế hỗ trợ của Nhà nớc đối với hoạt động của
trọng tài thông qua việc quy định mối quan hệ giữa Toà án và trọng
tài; thừa nhận rộng rãi quyền tự định đoạt của các bên trong giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài; mở rộng phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp cho TTTM thông qua việc định nghĩa khái niệm
hoạt động thơng mại theo hớng tiếp cận định nghĩa thơng mại
trong Luật Mẫu UNCITRAL về TTTM quốc tế và Luật Thơng mại
của những nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển Những quy định

này đã tạo ra một cơ chế hữu hiệu trong giải quyết tranh chấp của
TTTM Việt Nam, góp phần thúc đẩy hoạt động thơng mại phát triển.
3. Pháp luật TTTM ở nớc ta vẫn còn một số hạn chế, bất
cập, ảnh hởng đến sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động của TTTM
trong giải quyết tranh chấp phát sinh. Trong số các hạn chế đó, có hai
hạn chế cơ bản say đây cần phải khắc phục:
Thứ nhất, hình thức văn bản pháp luật về TTTM còn thấp (chỉ
mới ở tầm Pháp lệnh), cha ngang tầm với ý nghĩa và vai trò to lớn
của TTTM.
Thứ hai, quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong việc
lựa chọn TTV là ngời nớc ngoài để giải quyết các tranh chấp nội
địa (giữa các bên là chủ thể kinh doanh Việt Nam) cha đợc bảo
đảm.

9
thực chất không phải là TTTM theo đúng nghĩa của trọng tài, mà là
một cơ quan nhà nớc giải quyết tranh chấp kinh tế. Khi chuyển đổi
từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trờng, hệ thống TTKT
nhà nớc giải thể và thay vào đó là trọng tài phi chính phủ đợc thành
lập theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994. Đối với trọng tài giải quyết
tranh chấp quốc tế, TTTT Quốc tế Việt Nam đợc thành lập năm
1993 trên cơ sở sáp nhập HĐTT Ngoại thơng và HĐTT Hàng hải.
Sau khi Pháp lệnh TTTM đợc ban hành và có hiệu lực từ
1/7/2003 thì các TTTT trên cả nớc hoạt động theo quy định của
Pháp lệnh này. Trừ TTTT Quốc tế Việt Nam ngày càng khẳng định
đợc vai trò, vị thế của mình thì các TTTT khác hoạt động còn rất hạn
chế.
1.2. Những yếu tố chi phối chất lợng hoạt động của
trọng tài thơng mại.
1.2.1. Chế độ chính trị - kinh tế của mỗi quốc gia: Chế độ chính trị -

kinh tế của một quốc gia quyết định bản chất của trọng tài. Điều này
giải thích tại sao bản chất của trọng tài ở các nớc XHCH trớc đây
và các nớc TBCN hiện nay là hoàn toàn khác nhau.
1.2.2. Trình độ phát triển của nền kinh tế: Nền kinh tế càng phát
triển thì các quan hệ thơng mại ngày càng đa dạng, phức tạp, do đó,
khả năng phát sinh tranh chấp ngày càng nhiều và đây chính là điều
kiện để TTTM phát huy tác dụng nh một phơng thức giúp các nhà
kinh doanh giải quyết nhanh, gọn các tranh chấp phát sinh.
1.2.3. Mức độ hoàn thiện của pháp luật về trọng tài và pháp luật
khác có liên quan: Pháp luật trọng tài là cơ sở nền tảng cho hoạt
động giải quyết tranh chấp của trọng tài nên mức độ hoàn thiện của
nó có ảnh hởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của TTTM.
1.2.4. Truyền thống văn hoá và nhận thức của giới doanh nhân về
Trọng tài thơng mại: Truyền thống văn hoá không chỉ ảnh hởng
đến quá trình kinh doanh mà còn ảnh hởng đến sự lựa chọn trọng tài
là phơng thức giải quyết tranh chấp và ảnh hởng đến quá trình giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài.
1.2.5. Sự ảnh hởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ thơng mại quốc tế, thúc
đẩy thơng mại trong nớc, tạo điều kiện phát triển hoạt động trọng

10
tài. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật trọng tài bảo
đảm tơng thích với pháp luật trọng tài trên thế giới, đòi hỏi TTV
phải nâng cao trình độ và bản lĩnh nghề nghiệp, từ đó chất lợng hoạt
động của TTTM đợc nâng cao.
1.2.6. Sự hỗ trợ của Nhà nớc đối với Trọng tài thơng mại: Sự hỗ
trợ của Nhà nớc đối với TTTM là rất quan trọng. Vấn đề là Nhà
nớc tác động đến hoạt động trọng tài đến đâu và nh thế nào để bảo
đảm sự tác động đó là tích cực, có lợi cho sự phát triển của trọng tài.

1.2.7. Phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của các Trọng tài
viên: TTTM hoạt động có hiệu quả hay không, có hấp dẫn các nhà
kinh doanh hay không phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ TTV. Tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thơng mại luôn luôn đa dạng và phức
tạp, đòi hỏi phải có đội ngũ TTV có phẩm chất đạo đức và trình độ
chuyên môn để giải quyết.
1.3. Khái niệm và cơ cấu của pháp luật trọng tài thơng
mại.
1.3.1. Khái niệm pháp luật trọng tài thơng mại.
Pháp luật trọng tài thơng mại là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nớc ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động giải quyết tranh
chấp của Trọng tài thơng mại.
1.3.2. Cơ cấu của pháp luật trọng tài thơng mại.
Pháp luật TTTM thờng đợc cơ cấu bao gồm: (1) Thoả thuận
trọng tài; (2) Trọng tài viên: (3) Trung tâm Trọng tài; (4) Tố tụng
trọng tài; (5) Xem xét yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; (6) Công
nhận, cho thi hành quyết định trọng tài và một số các quy định khác
có liên quan đến hoạt động trọng tài.
1.4. hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu đặt ra
đối với việc hoàn thiện pháp luật Trọng tài thơng mại
của Việt Nam.
Việt Nam là nớc đang phát triển, khi tham gia vào nền kinh tế
thế giới thì thuận lợi nhiều và khó khăn cũng không ít, thời cơ lớn
nhng thách thức không nhỏ. Vừa qua, Việt Nam đã đợc kết nạp vào
Tổ chức Thơng mại Thế giới (WTO), trở thành thành viên thứ 150

15
2.1.9. Các quy định về thi hành quyết định của Trọng tài thơng
mại.

Theo quy định của Pháp lệnh TTTM, quyết định trọng tài
không những có tính chất chung thẩm, các bên phải thi hành (Điều 6)
mà còn đợc cơ quan thi hành án dân sự cỡng chế thi hành nếu bên
thua kiện không thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự nguyện
(Điều 57).
Tóm lại: Pháp luật TTTM, mà văn bản có hiệu lực cao nhất là
Pháp lệnh TTTM năm 2003 với những quy định tiến bộ hơn hẳn so
với trớc, đã tạo ra mặt bằng pháp lý chung cho hoạt động của TTTM
ở nớc ta. So sánh với pháp luật trọng tài các nớc trên thế giới thì
pháp luật TTTM Việt Nam cũng có những quy định tiến bộ, nhng
nhìn chung vẫn còn cứng, cha thật sự thông thoáng. Trong điều
kiện tăng cờng hội nhập quốc tế, cần tiếp tục hoàn thiện lĩnh vực
pháp luật này để thật sự phát huy đợc vai trò, vị thế của TTTM vốn
là phơng thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu đợc các nhà kinh
doanh a chuộng và tin dùng.
2.2. Thực trạng thựC HIệN pháp luật trọng tài thơng
mại ở Việt Nam và những vấn đề phát sinh.
2.2.1. Thực trạng hoạt động của Trọng tài thơng mại ở Việt Nam.
Trớc khi có Pháp lệnh TTTM, cả nớc có 6 Trung tâm TTKT
đợc thành lập theo Nghị định số 116/CP về TTKT phi chính phủ. Sau
khi Pháp lệnh TTTM có hiệu lực, cho đến tháng 8 năm 2006 mới có
một TTTT mới đợc thành lập thêm là TTTT Quốc tế Thái Bình
Dơng, nhng có 1 TTTT đã giải thể. Nhìn chung, hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh tại các Trung tâm TTTM Việt Nam là rất
hạn chế. Ngoài TTTT Quốc tế Việt Nam mỗi năm thụ lý khoảng trên
dới 20 vụ tranh chấp (riêng năm 2006, lần đầu tiên số vụ thụ lý hơn 30
vụ), các TTTT kinh tế còn lại có số vụ việc thụ lý là không đáng kể,
gần nh không hoạt động.
2.2.2. Những vấn đề phát sinh trong việc thi hành pháp luật trọng
tài thơng mại.

Qua thực tiễn thi hành pháp luật TTTM, đã phát sinh những
vớng mắc trong hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài chủ
yếu liên quan đến quy định về thẩm quyền của Trọng tài thơng mại;

14
tranh chấp thơng mại do các bên giao. Phải có ít nhất 5 TTV
sáng lập thì mới có thể thành lập Trung tâm TTTM.
2.1.6. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của Trọng tài thơng
mại.
Theo quy định của Pháp lệnh TTTM thì việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: (1) Nguyên
tắc thẩm quyền dựa trên thoả thuận trọng tài (Điều 3); (2) Nguyên tắc
khi giải quyết tranh chấp Trng ti viờn phi c lp, khỏch quan, vụ
t, phi cn c vo phỏp lut v tụn trng tho thun ca cỏc bờn
(Điều 3); (3) Nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp
(Điều 7); (4) Nguyên tắc xét xử không công khai (Điều 38); (5)
Nguyên tắc xét xử một lần (Điều 6); (6) Nguyên tắc ra quyết định
trọng tài (Điều 42).
2.1.7. Các quy định về mối quan hệ giữa Toà án và Trọng tài
thơng mại.
Pháp lệnh TTTM quy định mối quan hệ giữa Toà án và trọng
tài đợc coi là một bớc đột phá phù hợp với thông lệ đã đợc ghi
nhận trong pháp luật trọng tài quốc tế và pháp luật trọng tài của các
nớc trên thế giới. Cụ thể: (1) Toà án hỗ trợ việc thi hành thoả thuận
trọng tài; (2) Toà án có quyền xem xét tính hợp pháp của thoả thuận
trọng tài; (3) Toà án giúp các bên trong việc chọn TTV trong những
tình huống cần thiết; (4) Toà án ra quyết định áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho trọng tài hoạt
động; (5) Toà án thực hiện lu giữ hồ sơ đối với trọng tài vụ việc; (6)
Toà án xem xét và huỷ quyết định trọng tài khi có yêu cầu.

2.1.8. Các quy định về tố tụng trọng tài thơng mại.
Ngoài quy định về thoả thuận trọng tài đợc coi là hòn đá
tảng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, về TTV và các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp của trọng tài, Pháp lệnh TTTM quy
định về tố tụng trọng tài tại Chơng V, gồm những bớc nh sau: (1)
Gửi đơn kiện và thụ lý đơn kiện; (2) Gửi bản tự bảo vệ, đơn kiện lại;
(3) Thành lập HĐTT; (4) Lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ trọng tài và
pháp luật áp dụng; (5) Cung cấp và thu thập chứng cứ cho vụ tranh
chấp; (6) Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc; (7) áp dụng, thay đổi,
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; (8) Hoà giải; (9) Phiên họp giải
quyết tranh chấp; và (10) Ra quyết định trọng tài.

11
của tổ chức này, đánh dấu bớc hội nhập toàn diện của nền kinh tế
đất nớc với nền kinh tế thế giới. Việc giải quyết tranh chấp trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải hoàn thiện pháp
luật TTTM theo xu hớng phát triển chung của TTTM trên thế
giới.
Thứ nhất, phải nhất thể hoá các quan niệm khoa học pháp
lý về TTTM để làm cho các quy định, khái niệm trong pháp luật
của Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực chung về TTTM trên
thế giới.
Thứ hai, bảo đảm hơn nữa quyền của các bên trong việc
sử dụng TTTM giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những
thách thức lớn cho đội ngũ TTV và các tổ chức trọng tài.
Kết luận chơng 1
1. tTTM là cơ chế giải quyết tranh chấp thơng mại có hiệu
quả, đợc hình thành và phát triển trong mọi nền kinh tế thị trờng,
bất luận tính chất của nền kinh tế thị trờng đó là TBCN hay XHCN,

là XHCN hay định hớng XHCN.
2. TTTM là phơng thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa
chọn để giải quyết tranh chấp cho mình. Với tính chất là cơ quan tài
phán t, TTTM tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp,
bảo đảm giải quyết nhanh, gọn tranh chấp xảy ra, giúp các bên bảo vệ
đợc bí mật kinh doanh và uy tín trên thơng trờng. Nhng cũng do
tính chất là cơ quan tài phán t, nên TTTM không có quyền lực nhà
nớc để thực thi toàn bộ các công việc mà TTV phải làm để giải
quyết trọn vẹn các công việc đợc giao. Vì vậy, muốn bảo đảm cho
TTTM hoạt động có hiệu quả thì Nhà nớc phải thông qua Toà án mà
thực hiện sự hỗ trợ hoạt động của TTTM. Kết luận này có ý nghĩa
thực tiễn rất lớn vì nó là cơ sở phơng pháp luận cho việc Nhà nớc
phải luôn luôn quan tâm đến hoạt động của TTTM, mặc dù về bản
chất thì TTTM là một tổ chức phi nhà nớc.
3. Chất lợng và hiệu quả hoạt động của TTTM phụ thuộc vào
nhiều yếu tố nh tính chất của chế độ chính trị - kinh tế, trình độ phát
triển của nền kinh tế, văn hoá pháp lý của giới thơng nhân, sự quan
tâm, hỗ trợ của Nhà nớc, nhng quan trọng nhất là yếu tố pháp lý.

12
Nếu thiếu một hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với bản chất của
trọng tài, với trình độ phát triển của nền kinh tế và với xu hớng hội
nhập kinh tế quốc tế thì TTTM không thể phát triển đợc. Kết luận này
lý giải tại sao chúng ta luôn luôn phải quan tâm đến việc hoàn thiện
pháp luật TTTM, để pháp luật đó luôn là cơ sở pháp lý hữu hiệu cho sự
phát triển của TTTM.
4. Trong các văn bản pháp luật liên quan đến TTTM có hai bộ
phận. Một bộ phận liên quan trực tiếp đến trọng tài mà văn bản quan
trọng nhất của nó là Luật (Pháp lệnh) TTTM và một bộ phận khác
gồm các văn bản mặc dù không trực tiếp quy định các vấn đề về trọng

tài nhng lại có tác dụng gián tiếp ảnh hởng đến hoạt động của trọng
tài, đó là mảng pháp luật có liên quan. Kết luận về tính chất hai bộ
phận này của pháp luật về TTTM cho chúng ta thấy rằng, muốn cho
TTTM hoạt động có hiệu quả, thì việc quan tâm đến một mảng (bộ
phận) nào đó của pháp luật là không đủ, mà phải quan tâm đến cả hai
mảng (bộ phận) của pháp luật là bộ phận pháp luật về trọng tài và bộ
phận pháp luật có liên quan.

Chơng 2
Thực trạng pháp luật về trọng ti
thơng mại ở việt nam
2.1. những quy định hiện hành của pháp luật trọng tài
thơng mại.
Pháp lệnh TTTM có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Ngày
31/7/2003, Uỷ ban Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết số
05/2003/NQ-HĐTP hớng dẫn thi hành một số quy định của Pháp
lệnh TTTM. Ngày 15/01/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số
25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
TTTM. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự, các văn bản pháp luật về
kinh doanh thơng mại, về thi hành án cũng có những quy định liên
quan đến TTTM.
2.1.1. Các quy định về thoả thuận trọng tài.
Thoả thuận trọng tài là sự nhất trí của các bên về việc đa ra
trọng tài giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh. Đây là vấn đề
then chốt, là hòn đá tảng trong việc giải quyết tranh chấp thơng

13
mại bằng trọng tài, bởi lẽ, không có thoả thuận trọng tài thì các bên
không thể đa tranh chấp ra giải quyết tại TTTM. Thông qua thoả
thuận trọng tài, các bên tranh chấp thống nhất giao cho trọng tài

quyền xem xét nội dung tranh chấp và đa ra phán quyết.
2.1.2. Các quy định về thẩm quyền của Trọng tài thơng mại.
Pháp lệnh TTTM 2003 đã đa ra một khái niệm mới là khái
niệm hoạt động thơng mại, cho phép trọng tài giải quyết mọi tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thơng mại.
Ngoài thẩm quyền chung về đối tợng trọng tài thì vấn đề thẩm
quyền theo lãnh thổ không đợc đặt ra. Thẩm quyền của các TTTT là
giống nhau, việc TTTT nào có quyền giải quyết vụ tranh chấp là do
các bên lựa chọn. Tác giả luận án thấy rằng, đa số các nớc đều quy
định trọng tài có thẩm quyền rất rộng. Trọng tài có thể giải quyết tất
cả các loại tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đợc xác lập trên
cơ sở bình đẳng và thoả thuận của các bên.
2.1.3. Các quy định về hình thức Trọng tài thơng mại.
Trớc đây, Nghị định số 116/CP không quy định hình thức
trọng tài vụ việc, mà chỉ quy định một loại trọng tài duy nhất là trọng
tài thờng trực với tên gọi là Trung tâm TTKT. Pháp lệnh TTTM năm
2003 đã chính thức thừa nhận hai hình thức trọng tài cùng tồn tại
(Điều 19) l trọng tài thờng trực v trọng tài vụ việc.
2.1.4. Các quy định về Trọng tài viên.
Hiệu quả giải quyết tranh chấp thơng mại phụ thuộc phần lớn
vào đội ngũ TTV, do vậy pháp luật của các nớc đều đa ra những
tiêu chuẩn nhất định làm cơ sở cho các bên lựa chọn TTV. Pháp lệnh
TTTM năm 2003 vẫn tiếp tục duy trì một số điều kiện nhất định đối
với ngời muốn làm TTV. Tuy nhiên, so với Nghị định số 116/CP thì
các điều kiện này đã đợc đơn giản hoá rất nhiều.
2.1.5. Các quy định về địa vị pháp lý của Trung tâm Trọng tài
thơng mại.
Pháp lệnh TTTM quy định Trung tâm Trọng tài là tổ
chức phi chính phủ, có t cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng (Khoản 1 Điều 16). Đây là một hình thức tổ chức

hoạt động của các TTV nhằm thực hiện việc giải quyết các

×