MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng là ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, làm tiền đề cho việc
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm đổi
mới, ngành xây dựng đó hoàn thành nhiều công trình trọng điểm do Nhà nước
đầu tư xây dựng, cải tạo, như quốc lộ 1A; đường Hồ Chí Minh; Thủy điện
Sơn La; Khu lọc dầu Dung Quất; các công trình phục vụ SEA Games 22;
công trình Trung tâm Hội nghị quốc gia... Những công trình nói trên cùng với
hàng trăm công trình khác đã làm thay đổi diện mạo đất nước, góp phần quan
trọng bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của toàn xã hội.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn đã đạt được thì tình hình
vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng xảy ra ngày càng nhiều, phương
thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây thất thoát nghiêm trọng cho ngân sách
nhà nước; nhiều vụ tham nhòng lớn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, gây
thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản của Nhà nước đó bị phát hiện, xử lý
nghiêm theo pháp luật (Ví dụ như: vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy
cung Thăng Long - Hà Nội; vụ Lã Thị Kim Oanh; vụ Công ty Dịch vụ kỹ
thuật dầu khí Vietsovpetro; vụ thi công xây dựng Kho cảng Thị Vải; vụ
Rusalka - Nha Trang do Nguyễn Đức Chi cầm đầu...). Qua công tác kiểm
tra, thanh tra, giám sát các dự án xây dựng lớn cũng cho thấy có nhiều dự án
vi phạm quy định về thẩm định dự án; vi phạm quy chế đấu thầu; thi công
sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết bị, không phê duyệt khối lượng phát
sinh, vi phạm các quy định về trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng,
về quản lý chất lượng, nghiệm thu, thanh toán công trình; vi phạm về thiết
kế, khảo sát; vi phạm quy định trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác,
sử dụng. Hơn nữa, tiêu cực, tham nhòng trong đầu tư xây dựng cơ bản xảy ra
1
ở hầu hết các khâu, từ lập dự án, khảo sát, thiết kế, đầu tư đến thi công, nghiệm
thu, quyết toán công trình, diễn biến rất phức tạp và ngày càng nghiêm trọng.
Công tác cấp phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng vẫn còn nhiều tồn tại,
một số địa phương tự đặt thêm các thủ tục ngoài quy định, việc kiểm tra thực
hiện xây dựng theo giấy phép và quản lý trật tự xây dựng còn bị buông lỏng,
xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm minh; tình trạng xây dưng sai phép, không
phép vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và quy
mô xây dựng gây ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường đô thị, thậm chí đó xảy
ra các sự cố nghiêm trọng gây thiệt hại cả về người và của nhưng kết quả phát
hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng cònn thấp.
Tình hình nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
nguyên nhân do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự yếu kém
trong quản lý kinh tế, sự bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống các quy định
pháp luật về quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát trong đầu tư xây dựng, vai
trò của cơ quan chủ quản trong việc tuân thủ pháp luật, năng lực quản lý yếu
kém và việc chấp hành kỷ cương, pháp luật của Nhà nước chưa nghiêm và
một phần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác
thanh tra xây dựng.
Để khắc phục tình trạng trên, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trong lĩnh vực xây dựng là một yêu cầu rất cấp thiết và phải tiến tới đưa những
việc này trở thành nề nếp thường xuyên. Từ đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây
dựng cú ý nghĩa cấp thiết cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra nói
chung và thanh tra xây dựng ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài
"Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay" có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn quan trọng đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, việc nghiên cứu về hoạt động thanh
tra xây dựng và pháp luật về thanh tra xây dựng nhìn chung còn mới mẻ, chưa
2
được quan tâm đầy đủ, do trên thực tế những công trình khoa học nghiên cứu
hoạt động thanh tra xây dựng còn rất ít.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, các công trình khoa học
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hai nhúm:
- Nhóm nghiên cứu về thanh tra và thanh tra chuyên ngành có một số
công trình tiêu biểu như: Luận văn tiến sĩ Luật học: “Những vấn đề pháp lý
cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước Việt Nam”
của tác giả Phạm Tuấn Khải; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Vai trò của Các cơ
quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Kim (năm 2004); Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực
trạng tổ chức và hoạt động thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta -
những vấn đề đặt ra và giải pháp” của tác giả Phạm Văn Khanh năm 1997”;
Đề tài khoa học "Xác định mức độ thất thoát trong đầu tư xây dựng" của Tổng
Hội xây dựng Việt Nam (năm 2005); “Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng
cơ bản” của tác giả Lê Thế Tiệm...
- Nhóm nghiên cứu về phát triển thanh tra, thanh tra xây dựng hiện nay
còn rất ít công trình khoa học nghiên cứu. Nhóm này có một số công trình
như: Thanh tra Nhà nước (2007): "Những nội dung cơ bản của Luật thanh tra"
- Sách hướng dẫn nghiệp vụ. Nguyễn Ngọc Tản "Một số vấn đề hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thanh tra” - Tạp chí Thanh tra số 1 - 2007...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân
tích lý giải nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra và thực
trạng của thanh tra và pháp luật về thanh tra nói chung. Tuy nhiên, các công
trình đó chưa đề cập cụ thể đến những vấn đề của hoạt động thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực xây dựng vốn được coi là một trong những vấn đề bức
xúc của công tác thanh tra hiện nay. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết
quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu
3
những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra
xây dựng ở nước ta hiện nay để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và thanh tra xây dựng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thanh tra xây dựng.
Mặc dù vậy, những công trình khoa học đó được công bố nêu trên là tài
liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thanh tra xây dựng không chỉ là hoạt động có tính chất chuyên môn,
nghiệp vụ đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà
nước về xây dựng và phát triển đô thị hiện nay. Việc nghiên cứu toàn diện cơ
sở lý luận và thực tiễn của hoạt động thanh tra xây dựng là vấn đề phức tạp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác như về đất đai, môi
trường, giao thông... Chính vì vậy, luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn về thanh tra xây dựng, làm sáng tỏ khái niệm, bản chất, đặc trưng
của thanh tra xây dựng; khái niệm, đặc điểm pháp luật về thanh tra xây dựng,
những yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng; kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, nâng cao
hiệu quả của hoạt động thanh tra xây dựng. Việc nghiên cứu luận văn căn cứ
vào thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng, đặc biệt là từ sau thời
kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn, pháp luật về thanh tra xây dựng, luận văn đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
4
- Nghiên cứu, làm rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng; nguyên tắc, vai trò
của thanh tra xây dựng; khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật thanh tra
xây dựng, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của thanh tra xây dựng,
thực trạng pháp luật về thanh tra xây dựng, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp
luật về thanh tra xây dựng, làm rõ những vướng mắc, bất cập trong pháp luật
về thanh tra xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Luận giải yêu cầu khách quan, quan điểm và giải pháp hoàn thiện
pháp luật thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước và
pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, cải cách hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật
biện chứng của triết học Mác - Lênin với những phương pháp nghiên cứu
như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp; kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu khác như: thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là cụng trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ
thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật thanh tra xây
dựng, vỡ vậy luận văn có một số điểm mới sau:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thanh tra xây dựng;
đưa ra khái niệm, chỉ rõ đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về thanh tra
xây dựng và xác lập Các tiêu chớ hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập của pháp luật về
thanh tra xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng.
5
- Xác lập các quan điểm và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
thanh tra xây dựng trong thời gian tới.
7. Ýnghĩa của luận văn
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn gúp phần làm phong phú thêm lý
luận về thanh tra nói chung và thanh tra xây dựng nói riêng.
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà hoạch định chính
sách, xây dựng pháp luật và những ai quan tâm đến nội dung nghiên cứu của
đề tài luận văn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THANH TRA XÂY DỰNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRề CỦA THANH TRA
XÂY DỰNG
1.1.1. Khỏi niệm, đặc điểm của thanh tra xây dựng
1.1.1.1. Khỏi niệm thanh tra xây dựng
Thanh tra, theo Đại từ điển tiếng Việt là điều tra, xem xét để làm rừ sự
việc. Thanh tra cũng cú nghĩa là chỉ người làm nhiệm vụ thanh tra. Người làm
nhiệm vụ thanh tra phải điều tra, xem xét để làm rừ vụ việc.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Thanh tra là kiểm soát xem xét tại chỗ việc
làm của địa phương, cơ quan, xớ nghiệp”. Theo nghĩa này, Thanh tra bao hàm
cả nghĩa kiểm soát: xem xét và phát hiện ngăn chặn những gỡ trỏi với quy
định. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: người làm nhiệm
vụ thanh tra, đoàn thanh tra của Bộ và có quyền hạn, nhiệm vụ của chủ thể
nhất định.
Hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi các cơ quan chuyên
trách (điều này khác với kiểm tra do cơ quan tự tiến hành trong nội bộ). Cơ
quan thanh tra tiến hành xem xét, đánh giá sự việc một cách khách quan, đánh
giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của nhà nước, tổ
chức và cá nhân. Chính vì vậy, để đảm bảo sự công minh trong hoạt động
thanh tra, thanh tra cũng phải tuân thủ pháp luật, việc thanh tra phải đúng
thẩm quyền, ra quyết định và kiến nghị thanh tra phải đúng quy định của pháp
luật, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình, cú quyền bảo lưu và
báo cáo cấp có thẩm quyền. Tính độc lập tương đối của thanh tra được thể
hiện thông qua những thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra.
7
Ở một góc độ khác, thanh tra được hiểu là chức năng của quản lý nhà
nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm xác định tính đúng, sai của sự
việc, những các vi phạm để từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện
chính sách, pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cỏ nhõn.
Ngoài ra, thanh tra cũn được hiểu là hoạt động chuyên trách do bộ máy
thanh tra đảm nhiệm nhằm thực hiện việc kiểm tra, đánh giá, kết luận chính
thức về việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chớnh nhà nước với mục đích
phòng ngừa, xử lý Các vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ớch của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý hành chớnh nhà nước.
Từ một số quan niệm trờn, cho thấy: Thanh tra là một loại hình đặc biệt
của hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước, mục đích của
thanh tra là nhằm phục vụ cho quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước. Chủ thể của thanh tra là các cơ quan quản lý nhà
nước, các cuộc thanh tra được tiến hành thông qua Đoàn thanh tra và Thanh
tra viên. Đối tượng thanh tra là những việc làm cụ thể được tiến hành theo các
quy định của pháp luật, thực hiện quyền, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước,
tổ chức và cá nhân.
Để hiểu rừ khỏi niệm về thanh tra, có thể xem xét trong sự so sánh với
các khái niệm khác như kiểm tra, kiểm sát, giám sát.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thỡ “Kiểm tra là xem xột thực chất, thực
tế”. Theo khỏi niệm này thỡ kiểm tra là xem xột tình hình thực tế để nhận
xét, đánh giỏ một sự việc. Chủ thể của kiểm tra đa dạng hơn thanh tra, có
8
thể là nhà nước, có thể là chủ thể phi nhà nước như các đoàn thể, tổ chức.
Kiểm tra được xem là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan, tổ chức
bởi vỡ thụng qua kiểm tra, các cơ quan, tổ chức tự đánh giá về việc triển
khai công việc của cơ quan mình như thế nào, kết quả ra sao, đó đáp ứng
yêu cầu đặt ra hay chưa, có những khuyết điểm gỡ, cú những vấn đề gỡ
trong nội bộ cũn cú bất cập, vướng mắc cần phải có sự điều chỉnh phù hợp
bằng các biện pháp, chủ trương, phương hướng hợp lý trong thời gian tiếp
sau để đạt được kết quả tốt hơn.
Kiểm tra cũn được hiểu là hoạt động của thủ trưởng đơn vị cấp trên đối
với các hoạt động của cơ quan, tổ chức cấp dưới thuộc quyền quản lý của
mình nhằm đánh giá một cách tổng thể mọi hoạt động hay trong một lĩnh vực
cụ thể. Qua kiểm tra, thủ trưởng đơn vị cấp trên có quyền áp dụng các biện
pháp cần thiết để chấn chỉnh, điều chỉnh những thiếu sót của các đơn vị thuộc
quyền quản lý. Chớnh vỡ vậy, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên trong
quá trình quản lý của một cơ quan, tổ chức. Kiểm tra mang tính hoạt động nội
bộ, chỉ mang tính quyền lực nhà nước đối với các cơ quan nhà nước, nhất là
đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Kiểm sỏt, theo Đại từ điển tiếng Việt là Các hoạt động kiểm tra và
giám sát và là công tác điều tra tố tụng trong các vụ án theo pháp luật. Chức
năng kiểm sát thuộc về các cơ quan kiểm sát là Viện Kiểm sỏt nhõn dõn Các
cấp. Kiểm sát là hoạt động đặc biệt của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp ở
nước ta theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ pháp chế xó hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, Viện Kiểm sát các cấp
không có chức năng hành pháp.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thỡ “Giỏm sỏt là theo dừi, kiểm tra việc
thực thi nhiệm vụ”. Theo khỏi niệm này thỡ cú thể hiểu giỏm sỏt là sự theo
dừi, xem xột làm đúng hoặc sai những điều đó quy định của pháp luật hoặc
9
có thể hiểu là theo dừi và kiểm tra xem cú thực hiện đúng những điều quy
định không.
Trong thực tế, giỏm sỏt cú thể hiểu theo các nghĩa khác nhau, nhưng
nhỡn chung cú một số đặc điểm là giám sát luôn gắn với chủ thể nhất định: ai
giỏm sỏt, giỏm sỏt ai, giỏm sỏt việc gỡ... Do đó, giám sát là hoạt động của
chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ thống khác, cơ quan giám
sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống phụ thuộc
nhau và giám sát được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật, trên cơ sở
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát, đối tượng bị giám sát. Trong hoạt
động giám sát, cả chủ thể giỏm sỏt và chủ thể bị giỏm sỏt cũng như tính chất,
nội dung hoạt động giám sát đều rất đa dạng: giám sát hoạt động của bộ máy
nhà nước, việc thực hiện giám sát của Ban thanh tra nhân dân, giám sát thi
đấu thể thao, giám sát hoạt động tư pháp...
Từ những khỏi niệm trờn cho thể thấy rằng Thanh tra, Kiểm tra, Kiểm
sỏt và Giám sát là những khái niệm được sử dụng nhiều trong hoạt động quản
lý nói chung, quản lý nhà nước nói riêng, các hoạt động này vừa có nét tương
đồng, vừa có những đặc trưng riêng. Giữa thanh tra và kiểm tra có một mảng
giao thoa về chủ thể, đó là nhà nước; Kiểm tra cũng là chức năng của nhà
nước, kiểm tra nếu theo nghĩa rộng thỡ bao hàm cả thanh tra, hay nói Cách
khác: thanh tra là một loại hình đặc biệt của kiểm tra mà ở đó luôn luôn do
một loại chủ thể là Nhà nước tiến hành và thực hiện quyền lực nhà nước. Các
hoạt động, các thao tác nghiệp vụ trong các cuộc thanh tra chính là thực hiện
kiểm tra trong quy trình thanh tra, vớ dụ như kiểm tra sổ sách, kiểm tra hồ sơ,
so sánh đối chiếu các số liệu thu thập được trong quá trình thanh tra...Phân
biệt thanh tra và kiểm tra ở đây chủ yếu dựa vào mục đích và phương pháp.
Hoạt động thanh tra tác động lên đối tượng bị quản lý, kiểm tra là xem xột sự
việc xảy ra cú đúng với các quy tắc đó xác lập và những mệnh lệnh quản lý
10
hay khụng. Thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ gần gũi, bổ sung cho nhau.
Thực tế ở nước ta, khái niệm thanh tra, kiểm tra và giám sát chưa được phân
biệt rừ ràng, cụ thể trong khoa học pháp lý, trong pháp luật và trong khoa học
quản lý.
Từ những phân tích nờu trờn, cú thể thấy: thanh tra, kiểm tra, kiểm sỏt
và giỏm sỏt là Các loại hoạt động trong quản lý nhà nước, là Các chức
năng của quản lý nhà nước; mục đích của thanh tra, kiểm tra, giám sát là
phục vụ quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước;
chủ thể của thanh tra, kiểm tra và giám sát thuộc về nhà nước, việc tổ chức
các hoạt động này thường do các cơ quan chuyên trách thực hiện; nội dung
thanh tra, kiểm tra và giám sát chủ yếu là việc chấp hành chính sách, pháp
luật của nhà nước, việc thực hiện kế hoạch của đơn vị được nhà nước giao;
việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức nhà nước, riêng thanh tra
nhà nước cũn thực hiện việc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cỏo theo quy
định của pháp luật, góp phần chống tiêu cực, tham nhòng ở các cơ quan,
đơn vị. Về mục đích, các cơ quan thanh tra, kiểm tra và giám sát cùng có
chung mục đích và cùng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Về đối
tượng, do vị trí, thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát
khác nhau nên đối tượng cũng khác nhau. Về phương thức thanh tra, kiểm
tra, giám sát, do vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi cơ quan
khác nhau nên phương thức, hình thức hoạt động cũng khác nhau. Như vậy,
có thể thấy thanh tra nhà nước giữ vị trớ trung tõm và cú vai trò cầu nối
giữa kiểm tra và giỏm sỏt. Bởi vỡ, thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ
quan quản lý nhà nước, hoạt động thanh tra gắn với hoạt động quản lý nhà
nước, do đó, đối tượng thanh tra rộng hơn, trực tiếp hơn so với đối tượng
của từng chủ thể kiểm tra, giám sát.
Hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước hỗ trợ đắc lực
cho hoạt động kiểm tra, giám sát (qua thanh tra nếu phát hiện có dấu hiệu
11
vi phạm pháp luật thỡ chuyển hồ sơ cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý
kỷ luật hoặc xử lý hình sự). Qua thanh tra, cơ quan thanh tra cũng nhận
được thông tin phản hồi để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra.
Vai trò cầu nối, trung tõm của thanh tra cũn thể hiện mối quan hệ qua lại
giữa kiểm tra và thanh tra, giỏm sỏt, kiểm tra của nhõn dõn và Các tổ chức
xó hội phục vụ cho cụng tác thanh tra và ngược lại. Thanh tra gắn với hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước, vỡ thế thanh tra cú điều kiện phát hiện
vi phạm, phát hiện những bất hợp lý, thậm chí cả sơ hở, bất cập trong
đường lối, chính sách, pháp luật một cách toàn diện, trực tiếp, cụ thể để
trên cơ sở đó có những kiến nghị đổi mới.
Hoạt động thanh tra thường xuyên diễn ra ngay trong quá trình tổ
chức, thực hiện Các nhiệm vụ quản lý cũng như thực hiện đường lối, chính
sách pháp luật. Mặt khác, hoạt động của thanh tra nhà nước cũn thực hiện ở
lĩnh vực chấp hành, điều hành trong hoạt động quản lý, đánh giá việc thực
hiện đúng sai của đối tượng thanh tra trong việc chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách pháp luật của nhà nước, thực hiện kế hoạch của đơn vị;
phân tích và đánh giá đúng thực chất tổ chức, bộ máy, cán bộ, cơ sở vật
chất bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý; xột giải quyết khiếu nại, tố cỏo
theo thẩm quyền; tham mưu cho lónh đạo cùng cấp giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định của pháp luật. Do đó, có thể nói, thanh tra nhà nước bao
hàm cả hoạt động giám sát hành chính.
Xột về vị trớ, vai trò, đặc điểm và nội dung của hoạt động thanh tra
trong quản lý nhà nước, có thể thấy thanh tra là một trong ba khõu của chu
trình quản lý nhà nước, là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước; là một trong những phương tiện phòng ngừa cú
hiệu quả những vi phạm pháp luật và phòng chống tội phạm. Hoạt động
của các cơ quan thanh tra trong thực thi nhiệm vụ của mình theo quy định
của pháp luật góp phần đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
12
quản lý nhà nước; phỏt huy dân chủ, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức nhằm gúp phần vào cụng cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, cải cách hành chính nhà nước, nâng cao
phòng ngừa cú hiệu quả đấu tranh chống tham nhòng hiện nay. Bởi vỡ,
trong việc thực hiện nhiệm vụ của bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào,
trên bất kỳ lĩnh vực nào, với bất kỳ quy mô nào, các cơ quan quản lý nhà
nước đều phải thực hiện đồng thời cả ba cụng tác: Đề ra chiến lược, chủ
trương, chính sách nhiệm vụ, kế hoạch trong phạm vi thẩm quyền quản lý
của cơ quan mình; Tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách,
nhiệm vụ, kế hoạch đó được xây dựng và được cấp có thẩm quyền phê
duyệt; Tổ chức tiến hành thanh tra, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các
nhiệm vụ trên của các đối tượng quản lý thuộc quyền quản lý của mình.
Mục đích của thanh tra là đánh giá chính xác những mặt làm đúng,
những mặt làm sai trong việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
pháp luật, kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những đơn vị và cá nhân có
thành tích xuất sắc để biểu dương, khen thưởng, phát huy, phát hiện và
ngăn ngừa những đơn vị và cá nhân mắc khuyết điểm, giúp đỡ sửa chữa và
kiên quyết xử lý nghiêm đối với những trường hợp cố tình vi phạm.
Về mặt tổ chức, các cơ quan thanh tra của nước ta hiện nay nằm
trong cơ cấu của cơ quan hành pháp (Chính phủ), là bộ phận không thể
thiếu của bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước và như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó nói: Thanh tra là tai mắt của trên là bạn của dưới, cán bộ thanh tra
như cái gương cho người soi mặt, gương mờ thỡ khụng soi được. Các tổ
chức thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền trong việc
thanh tra, kiểm tra sự chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước cũng như việc thực hiện kế hoạch nhà nước giao cho đơn vị,
cho nên các cấp uỷ Đảng và các cấp chính quyền cũng như Thủ trưởng của
13
các ngành cần nhận thức đúng đắn vị trí của tổ chức thanh tra trong bộ máy
nhà nước và hoạt động thanh tra trong quá trình quản lý nhà nước.
Từ những phân tích trờn cho thấy: thanh tra là hoạt động kiểm tra,
xem xét việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ được
giao của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân do các cơ quan thanh tra
có thẩm quyền thực hiện nhằm phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Do thanh tra luụn luôn gắn liền với hoạt động của các cơ quan quản
lý nhà nước và phục vụ cho quản lý nhà nước, là một trong ba khâu không
thể thiếu được của chu trình quản lý nhà nước nên tuỳ vào mỗi lĩnh vực,
hoạt động thanh tra có những yêu cầu, mục đích, nội dung hoạt động riêng
phù hợp với từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Vỡ vậy, trong lĩnh vực xây
dựng cú thể hiểu khỏi niệm: Thanh tra xây dựng là hoạt động thanh tra
chuyên ngành do các cơ quan và cỏ nhõn thanh tra xây dựng cú thẩm quyền
tiến hành nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng, bảo vệ quyền và lợi ớch hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cỏ nhõn.
1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra xây dựng
Là một loại hoạt động thanh tra có tính chuyên ngành, hoạt động
thanh tra xây dựng có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Hoạt động thanh tra xây dựng được tiến hành trong phạm vi quản lý
nhà nước về: xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc, quy
hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, hạ
tầng kỹ thuật đô thị theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động thanh tra xây dựng luôn gắn với hoạt động của cơ quan
quản lý nhà nước và phục vụ cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng;
- Hoạt động thanh tra xây dựng do các cơ quan thanh tra chuyên ngành
xây dựng tiến hành, thực hiện quyền lực nhà nước trong các hoạt động thanh tra.
14
- Đối tượng của thanh tra xây dựng là Các tổ chức, cỏ nhõn thuộc thẩm
quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng và Các tổ
chức, cỏ nhõn tham gia hoạt động xây dựng.
1.1.2. Nội dung và hình thức của thanh tra xây dựng
1.1.2.1. Nội dung của thanh tra xây dựng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nội dung của thanh tra xây
dựng, bao gồm:
Thứ nhất, thanh tra hành chớnh. Thực hiện Các nhiệm vụ thanh tra
hành chớnh, cơ quan thanh tra xây dựng được tiến hành thanh tra đối với tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp trong việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
được giao; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo các quy
định của Luật khiếu nại, tố cỏo.
Thứ hai, thanh tra chuyờn ngành xây dựng. Theo nội dung này, cơ
quan thanh tra xây dựng có thẩm quyền tiến hành thanh tra đối với tổ chức,
cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước về hoạt
động xây dựng. Cụ thể là:
+ Trình tự lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công
trình, tổng mức đầu tư;
+ Công tác giải phóng mặt bằng xây dựng; điều kiện khởi công xây
dựng công trình;
+ Trình tự lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật - tổng dự toỏn,
dự toỏn cụng trình; cụng tác khảo sỏt xây dựng;
+ Công tác lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng;
+ Cụng tác quản lý chất lượng công trình xây dựng; nghiệm thu bàn
giao đưa công trình vào sử dụng; thanh, quyết toỏn cụng trình;
+ Điều kiện, năng lực hoạt động xây dựng của Ban quản lý dự án đầu
tư xây dựng công trình, nhà thầu tư vấn xây dựng và nhà thầu thi công xây
dựng công trình và Các tổ chức, cỏ nhõn khác theo quy định của pháp luật;
15
+ Việc thực hiện an toàn lao động, bảo vệ tính mạng con người và tài
sản; phòng chống chỏy, nổ, vệ sinh mụi trường trong công trường xây dựng;
+ Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc lập nhiệm vụ quy
hoạch xây dựng; nội dung quy hoạch xây dựng, thẩm quyền lập, thẩm định
và phê duyệt, điều chỉnh và thực hiện, quản lý xây dựng theo quy hoạch;
+ Việc lập và tổ chức thực hiện các định hướng phát triển nhà; các
chương trình, dự ỏn phỏt triển Các khu đô thị mới; việc cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, sử dụng nhà và việc quản lý sử dụng cụng sở;
+ Việc lập và tổ chức thực hiện định hướng, quy hoạch, kế hoạch
chương trình, dự ỏn phỏt triển hạ tầng kỹ thuật đô thị, tình hình khai thác,
quản lý, sử dụng Các cụng trình gồm: hố, đường đô thị, cấp nước, thoát
nước, vệ sinh môi trường, rác thải đô thị, nghĩa trang, chiếu sỏng, cụng
viên cõy xanh, bói đỗ xe trong đô thị, công trình ngầm và Các cụng trình
kỹ thuật hạ tầng khác trong đô thị;
+ Việc thực hiện quy hoạch phỏt triển vật liệu xây dựng và việc quản
lý chất lượng vật liệu xây dựng đưa vào công trình;
+ Việc thực hiện các quy định khác của pháp luật về hoạt động xây dựng.
1.1.2.2. Hình thức thanh tra xây dựng
Để thực hiện các nội dung nêu trên, hoạt động thanh tra xây dựng
được tiền hành dưới các hình thức là: Thanh tra theo chương trình, kế
hoạch và thanh tra đột xuất. Thanh tra theo chương trình kế hoạch được
tiến hành theo chương trình kế hoạch đó được phê duyệt. Chương trình, kế
hoạch thanh tra thường được phê duyệt hàng năm với mục đích như hoạt
động thường xuyên, định kỳ nhằm tập trung vào các lĩnh vực, vấn đề mang
trọng tâm nhằm đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra và kịp thời ngăn
ngừa những vi phạm có thể xảy ra. Thanh tra đột xuất được tiến hành khi
phát hiện tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của
16
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền giao.
Để thực hiện các nội dung thanh tra xây dựng, các cơ quan thanh tra
xây dựng thường tiến hành theo phương thức chung của hoạt động thanh
tra, đó là Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên độc lập. Đoàn thanh tra và
Thanh tra viên hoạt động theo quy định của Luật Thanh tra. Khi tiến hành
thanh tra phải có quyết định của Thủ trưởng cơ quan thanh tra xây dựng
hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về quyết
định và biện pháp xử lý của mình. Khi xử lý vi phạm, Trưởng đoàn thanh tra,
Thanh tra viên phải thực hiện đầy đủ trình tự theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Vai trò của thanh tra xây dựng
Với vị trí, đặc điểm và nội dung hoạt động nêu trên, thanh tra xây
dựng có một số vai trò quan trọng sau đây:
Thứ nhất, thanh tra xây dựng góp phần đảm bảo thi hành nghiêm
chỉnh các quy định pháp luật và chính sách của nhà nước trong hoạt động
xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc, quy hoạch xây
dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, hạ tầng kỹ thuật
đô thị góp phần giữ gỡn trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xó hội
chủ nghĩa.
Trong hoạt động Nhà nước, cụng tác thanh tra nói chung và thanh tra
xây dựng nói riêng cú một ý nghĩa rất quan trọng. Thụng qua hoạt động
thanh tra xây dựng, những quy định pháp luật về xây dựng được trở thành
hiện thực, đảm bảo trật tự văn minh đô thị. Thông qua các quy định cụ thể,
chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của Các chủ thể trong quỏ trình thực hiện
Các quy định về thanh tra xây dựng, pháp luật về thanh tra xây dựng tạo ra
hành lang pháp lý bảo đảm cho cơ quan thanh tra xây dựng và Thanh tra
17
viên xây dựng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, Các tổ chức,
cỏ nhõn liên quan thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định
làm cho các quy định về xây dựng được thực thi trên thực tế. Nếu công tác
thanh tra xây dựng không được quan tâm đầy đủ và không có hiệu quả thỡ
sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực xây dựng, đô thị của các cơ quan có thẩm quyền; trật tự kỷ
cương xó hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm. Kể từ khi Nhà nước ta thực hiện
chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xó
hội chủ nghĩa, bộ mặt kinh tế - xó hội của đất nước ta đó cú những chuyển
biến đáng kể, nhất là sự phát triển hạn tầng kỹ thuật đô thị, kiến trúc đang
có những đóng góp lớn vào sự đổi thay của đất nước. Song bên cạnh đó,
cũng có những cảnh báo về sự phức tạp, mất cân đối và không đồng bộ
trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho sự phát triển đời sống kinh tế,
văn hoá, xó hội. Đó là sự đô thị hóa không đúng quy hoạch, thiếu tổng thể,
sự vi phạm các quy định về trật tự quản lý đô thị...đang là những vấn đề
bức xúc trong nhân dân. Chính vỡ vậy, để đảm bảo sự phát triển bền vững,
hài hoà và đúng pháp luật, thanh tra xây dựng góp phần đảm bảo trật tự
pháp luật trong lĩnh vực xây dựng và văn minh đô thị, ngăn ngừa các vi
phạm pháp luật và tăng cường pháp chế trong lĩnh vực xây dựng và quản lý
đô thị, mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của
pháp luật.
Thứ hai, thanh tra xây dựng gúp phần nõng cao ý thức pháp luật của
nhõn dõn.
Đặc thù của thanh tra xây dựng - một lĩnh vực nóng của đất nước
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá - là sự kết hợp chặt chẽ
giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của Thanh tra viên xây dựng,
18
cơ quan thanh tra xây dựng và sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự
phối hợp của các cơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình của quần
chỳng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nõng cao ý thức trách nhiệm của cộng
đồng trong việc đảm bảo trật tự xây dựng đô thị, nhất là những nơi đang
trong quá trình đô thị hoá. Thanh tra xây dựng không chỉ là hoạt động
nghiệp vụ riêng của cơ quan thanh tra xây dựng, Thanh tra viên xây dựng
mà cũn là trách nhiệm của Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, đoàn
thể xó hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua các quy định của
pháp luật về thanh tra xây dựng và áp dụng trong việc xử lý Các hành vi vi
phạm trật tự xây dựng, quản lý đô thị, mọi người dõn thấy được thái độ cụ
thể của pháp luật đối với những người cố ý vi phạm từ đó nhận thức pháp
luật được nâng lên, ý thức pháp luật của nhõn dõn, vai trò, trách nhiệm của
Các cơ quan, tổ chức được nâng cao, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân
vào tính nghiêm minh của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càng
được củng cố vững chắc.
Thứ ba, thanh tra xây dựng gúp phần nõng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng.
Những chính sách, quy định của pháp luật về xây dựng mới chỉ là
những quy định đũi hỏi sự tuõn thủ của Các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên,
nếu không có hoạt động thanh tra xây dựng thỡ những quy định đó khó có
thể được tuân thủ trên thực tế bởi vỡ lĩnh vực xây dựng liên quan nhiều vấn
đề quản lý nhà nước khác như đất đai, giao thông, cảnh quan môi
trường...Thông qua hoạt động thanh tra xây dựng, các quy định pháp luật
về thanh tra xây dựng mới có thể tạo sự đồng bộ, thống nhất có hiệu lực
trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thanh tra xây dựng là một hoạt động không thể
thiếu được của quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng. Thông
qua thanh tra xây dựng, hiệu lực quản lý nhà nước được tăng cường, các
19
quy định pháp luật về xây dựng được bảo đảm, đồng thời thanh tra xây
dựng cũn là sự kiểm nghiệm thực tiễn những quy định pháp luật về xây
dựng có thực sự phù hợp với thực tiễn hay không để trên cơ sở đó có sự
điều chỉnh, sửa đổi phù hợp.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, NỘI DUNG VÀ VAI TRề CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THANH TRA XÂY DỰNG
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của pháp luật về thanh tra xây dựng
- Khỏi niệm pháp luật về thanh tra xây dựng:
Pháp luật là cụng cụ quản lý nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xó
hội. Vai trò điều chỉnh đó trước hết và chủ yếu thể hiện ở quy phạm pháp
luật. Quy phạm pháp luật về thanh tra xây dựng được ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xó hội phỏt sinh trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động
thanh tra xây dựng. Quy phạm pháp luật về thanh tra xây dựng cũng như
các quy phạm pháp luật khác đều có tính bắt buộc chung, là khuôn mẫu để
mọi chủ thể tuân thủ và là tiêu chí để đánh giá hành vi của con người, do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được áp dụng nhiều lần trong
cuộc sống đến khi bị thay đổi hoặc huỷ bỏ. Tuy nhiên, điểm khác là quy
phạm pháp luật về thanh tra xây dựng chỉ điều chỉnh các quan hệ xó hội
phỏt sinh trong quỏ trình tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng. Quy
phạm pháp luật về thanh tra xây dựng hiện nay được thể hiện ở các văn bản
luật (Luật Xây dựng, Luật Thanh tra, Luật Nhà ở, Luật Đăng ký bất động
sản), văn bản dưới luật (nghị định, thông tư, quyết định), nhưng dù dưới
hình thức văn bản nào thỡ pháp luật về thanh tra xây dựng chứa đựng các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ
chức và hoạt động thanh tra xây dựng của cơ quan thanh tra có thẩm quyền.
Từ đó cú thể hiểu: Pháp luật về thanh tra xây dựng Việt Nam là tổng thể
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xó hội phỏt sinh trong lĩnh
20
vực thanh tra xây dựng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ chức thanh tra xây dựng;
nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra viên xây dựng, trình tự, thủ tục trong
quỏ trình thanh tra xây dựng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà
nước, tổ chức, công dân, gúp phần đảm bảo trật tự xây dựng, phòng ngừa vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xó hội chủ nghĩa.
- Đặc trưng của pháp luật thanh tra xây dựng:
+ Pháp luật về thanh tra xây dựng là tổng thể các quy phạm pháp luật
phản ánh đặc thù của thanh tra xây dựng, vừa cú những quy phạm mang
tớnh hành chớnh, vừa cú những quy phạm mang tớnh thủ tục. Nhúm quy
phạm pháp luật mang tớnh chất hành chính thể hiện chủ yếu trong lĩnh vực
quy định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước
về thanh tra xây dựng và cơ quan thanh tra xây dựng; mối quan hệ phối
hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan với cơ quan thanh tra xây dựng
trong quỏ trình thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra viên xây
dựng... Nhóm quy phạm pháp luật mang tính chất thủ tục chủ yếu thể hiện
trong các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung kiểm tra, thanh tra, vớ dụ
như các quy định về việc cấp giấy phép xây dựng, quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý cụng trình hạ tầng đụ
thị và quản lý sử dụng nhà...
+ Pháp luật về thanh tra xây dựng quy định hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nước trong việc bảo đảm hiệu lực thực tế của Các quy định
pháp luật về thanh tra xây dựng bằng Các biện pháp pháp luật, đảm bảo
cho các quy định này được thực thi trên thực tế. Sự vi phạm các nguyên
tắc, quy định pháp luật trong hoạt động thanh tra xây dựng trong đa số các
trường hợp đều có nguy cơ dẫn đến hậu quả không khắc phục được, gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân
21
(ví dụ: do khụng phỏt hiện, xử lý nghiêm vi phạm pháp luật trong xây dựng
dẫn đến việc "cắt ngọn” cụng trình, xử lý nhà siêu mỏng, siêu mộo sẽ gây
tốn kém cho nhà nước, tổ chức, công dân).
+ Nguồn pháp luật cho hoạt động thanh tra rất phong phú, đa dạng,
Các quy định của pháp luật về thanh tra xây dựng khụng chỉ thể hiện ở các
văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến thanh tra xây dựng (như
Luật Thanh tra, Luật Nhà ở, Luật Xây dựng, các nghị định, thông tư hướng
dẫn thi hành luật) mà cũn thể hiện ngay trong Các văn bản pháp luật khác
có liên quan như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở và nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thanh tra xây dựng
Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thanh tra xây
dựng như nêu trên, nội dung pháp luật về thanh tra xây dựng phải thể hiện
sự điều chỉnh đầy đủ, toàn diện đối với các quan hệ phỏt sinh trong quỏ
trình tiến hành các hoạt động thanh tra xây dựng.
Thanh tra xây dựng là một loại hình hoạt động nhà nước nên thường
làm phát sinh nhiều loại quan hệ xó hội khác nhau, bao gồm Các mối quan
hệ bờn trong và Các mối quan hệ bờn ngoài của hoạt động thanh tra xây
dựng. Các mối quan hệ bờn trong của thanh tra xây dựng thể hiện mối quan
hệ tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra xây
dựng; Mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan
thanh tra xây dựng; mối quan hệ giữa cơ quan quản lý thanh tra xây dựng
và cơ quan thanh tra xây dựng; mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra xây
dựng và Thanh tra viên xây dựng. Các mối quan hệ bờn ngoài của thanh tra
xây dựng thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra xây dựng và chính
quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thanh tra
xây dựng.
22
Các mối quan hệ bờn trong và bờn ngoài của thanh tra xây dựng
phản ánh tính đa dạng và phức tạp của hoạt động thanh tra xây dựng. Trong
quỏ trình thực hiện chức năng thanh tra xây dựng, Các mối quan hệ này cú
sự chi phối lẫn nhau và tạo nờn trật tự pháp luật về thanh tra xây dựng. Tuy
nhiên, dựa vào tớnh chất của Các mối quan hệ, chỳng ta cú thể phân chia
chỳng thành ba nhúm quan hệ chủ yếu là: nhúm quan hệ mang tớnh chất
nội dung; nhúm quan hệ mang tớnh chất tổ chức và quản lý; nhúm quan hệ
mang tớnh chất thủ tục.
- Nhúm quan hệ mang tớnh chất nội dung: Đây là những quan hệ
phản ánh nội dung việc thi hành và chấp hành các quy định pháp luật về
thanh tra xây dựng (cấp giấy phộp xây dựng, lập dự án đầu tư...), các quyết
định về thanh tra xây dựng (quyết định xử phạt hành chính, quyết định
thanh tra). Các quy định, quyết định đó là căn cứ để xác định quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan thanh tra xây dựng cũng như quyền, nghĩa vụ mà
các đối tượng liên quan đến hoạt động xây dựng cú trách nhiệm chấp hành.
Những quan hệ mang tớnh nội dung chủ yếu là quan hệ giữa cơ quan
thanh tra xây dựng và những đối tượng liên quan thuộc phạm vi của hoạt
động thanh tra xây dựng. Từ những quan hệ chủ yếu này sẽ phỏt sinh nhiều
mối quan hệ khác trong quỏ trình thanh tra xây dựng nhằm bảo đảm việc
thực hiện nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình
thực thi Các quy định pháp luật về xây dựng và các quy định có liên quan.
Trong nhúm quan hệ mang tớnh nội dung, cũn cú thể xuất hiện mối quan
hệ giữa cơ quan thanh tra xây dựng với các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến việc thanh tra và thực hiện các quy định về xây
dựng. Túm lại, Các mối quan hệ này phản ỏnh nội dung thanh tra xây dựng,
xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành và chấp
hành các quy định pháp luật về xây dựng. Cụ thể là các quyền và nghĩa vụ
23
của đối tượng thanh tra: ví dụ như quyền được giải trình về những vấn đề
có liên quan đến nội dung thanh tra, từ chối cung cấp thông tin, tài liệu
thuộc bí mật nhà nước khi pháp luật có quy định và các thông tin, tài liệu
không liên quan đến nội dung thanh tra....(Điều 20 Nghị định số
46/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra xây dựng).
- Nhúm quan hệ mang tớnh tổ chức - quản lý liên quan đến việc hình
thành cơ chế, hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra xây
dựng: Đây là nhóm các quan hệ phỏt sinh trong quỏ trình hình thành tổ
chức, hoạt động và cơ chế quản lý Các cơ quan thanh tra xây dựng. Các
quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm
quyền và quy chế hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng. Những mối
quan hệ này được thể hiện cụ thể trong thực tiễn như: mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý nhà nước về thanh tra xây dựng với cơ quan thanh tra xây
dựng; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan thanh tra xây
dựng; giữa cơ quan thanh tra xây dựng cấp trên và cơ quan thanh tra xây
dựng cấp dưới về mặt tổ chức...
Trong thực tiễn, việc xử lý Các mối quan hệ này thường rất phức tạp,
có nhiều vướng mắc, bất cập. Do đó, nếu xác định đúng đắn các mối quan
hệ trong quá trình tổ chức và quản lý thanh tra xây dựng, xây dựng cơ chế
quản lý, mụ hình tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng phù hợp sẽ góp
phần tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra xây dựng.
- Nhúm quan hệ mang tớnh chất thủ tục, trình tự thanh tra xây dựng:
Một trong những đặc trưng cơ bản của thanh tra xây dựng là được tiến
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ mang tính hành chính, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về thanh tra xây dựng và một số các quy định của pháp
luật liên quan. Chớnh vỡ vậy, trình tự, thủ tục thanh tra xây dựng làm xuất
24
hiện hàng loạt Các mối quan hệ giữa Các chủ thể trong quỏ trình thanh tra
xây dựng. Cụ thể như những quan hệ phát sinh trong việc ra quyết định
thanh tra, cưỡng chế; các mối quan hệ phát sinh liên quan đến thủ tục khiếu
nại tố cáo của các chủ thể trong quá trình thanh tra xây dựng.
Sự thể hiện đầy đủ Các nhúm quan hệ trờn đây trong pháp luật thanh
tra xây dựng sẽ tạo ra khung pháp lý tổ chức, hoạt động thanh tra xây dựng
ngày càng cú hiệu quả.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về thanh tra xây dựng
- Pháp luật thanh tra nói chung, pháp luật về thanh tra xây dựng nói
riêng là phương tiện thể chế hoá quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng về cụng tác thanh tra. Nhận thức được tầm quan trọng của cụng tác
thanh tra, Đảng Cộng sản Việt Nam, trong nhiều văn kiện Đại hội Đảng,
Hội nghị Trung ương và Bộ Chính trị luôn dành sự quan tõm lớn cho cụng
tác thanh tra, lần lượt đưa ra các chủ trương lớn cho công tác thanh tra,
điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị, chính sách, chế độ đối với những
người làm công tác thanh tra, đặc biệt chú ý đến cơ chế tổ chức và hoạt
động thanh tra, đồng thời cũng nhấn mạnh phải kịp thời ban hành các văn
bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cụng tác tổ chức và hoạt
động của thanh tra nói chung, pháp luật về thanh tra xây dựng nói riêng.
Đường lối, chính sách của Đảng chỉ đạo phương hướng xây dựng
pháp luật, chỉ đạo nội dung pháp luật và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện
pháp luật. Do vậy, pháp luật về thanh tra xây dựng cú vai trò quan trọng
trong việc thể chế hoỏ đúng đắn, kịp thời và đầy đủ đường lối, chính sách
của Đảng về cụng tác thanh tra, làm cho nó đi vào cuộc sống.
- Pháp luật về thanh tra xây dựng là cơ sở để thiết lập, củng cố và
tăng cường tổ chức bộ máy các cơ quan thanh tra xây dựng. Để bộ máy các
cơ quan thanh tra xây dựng hoạt động hiệu quả đũi hỏi phải xác định đúng
25