Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Các vụ kiện bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.16 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÀNH ĐỊA LÝ KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG

BÀI TẬP CỘNG ĐIỂM
MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ
GVHD: TH.S. Ngô Văn Phong
SVTH: Huỳnh Thị Kiên
MSSV: 1056010079

TPHCM, Ngày 21 Tháng 05 Năm 2013
Đề
- Phân loại bán phá giá
- Các biện pháp chống phá giá
- Các vụ kiện bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam.
Bài làm
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ
chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển kinh tế của mình.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã
đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Trong khi
những mặt hàng xuất khẩu của Việt nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới đã
xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của nước ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp
dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra hàng rào bảo hộ, ngăn cản hàng hoá của ta không
cho xuất khẩu vào thị trường của nước họ. Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC , WTO
đồng nghĩa với sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan tới việc mở cửa
thị trường.
Hiện tượng bán phá giá hàng nước ngoài chắc chắn sẽ ngày càng tăng trên thị
trường nước ta, có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong
nước do hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể biến mất, đồng
thời thuế suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống. Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi chúng ta


phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong đó có thuế chống bán phá giá. Đây là việc
làm mang tính cấp bách và cần thiết vì lợi ích và yêu cầu của đất nước.
Theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO (ADP) bán phá giá là việc bán
một hàng hoá nào đó với giá thấp hơn giá của nó trên thị trường nội địa của nước xuất
khẩu. Nói một cách đơn giản, để xác định hành động bán phá giá ta phải so sánh giá cả ở
hai thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định giá hàng hoá ở thị trường nước xuất
khẩu (giá trị bình thường) và giá ở thị trường nước nhập khẩu (giá xuất khẩu) để tạo ra cơ
sở chính xác cho sự so sánh giá trên hai thị trường là khá phức tạp.
Theo WTO, giá trị bình thường của hàng hoá là giá của hàng hoá đã được ấn định
phụ thuộc vào sức tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu. Khi không có giá nội địa để so
sánh thì giá trị bình thường được coi là tổng các chi phí sản xuất, tiêu thụ hàng hoá cộng
với một phần lợi nhuận nào đó. Hoặc theo cách khác, giá trị bình thường có thể là giá
xuất khẩu sang một nước thứ ba.Trong trường hợp khi nước xuất khẩu chưa được công
nhận là có nền kinh tế thị trường thì giá trị bình thường được xác định trên cơ sở giá hàng
hoá tương tự của một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường.
Có các cách phân loại bán phá giá như sau:
 Căn cứ theo thông lệ quốc tế
Theo thông lệ quốc tế, người ta chia hành động bán phá giá thành 2 loại: bán phá giá
hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa và bán phá giá hàng nhập khẩu. Hai
trường hợp này thường được tách riêng và được giải quyết theo hai bộ luật riêng biệt.
- Bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa là việc cá nhân hoặc
tổ chức sản xuất đặt giá tiêu thụ thấp hơn giá thành tại thị trường trong nước. Mục tiêu
của hành động bán phá giá này là nhằm loại bỏ khỏi thị trường, hoặc ngăn cản sự thâm
nhập thị trường, của một doanh nghiệp hay một sản phẩm của doanh nghiệp.
- Bán phá giá hàng nhập khẩu là việc doanh nghiệp nước ngoài bán hàng hóa dưới
chi phí tại nước nhập khẩu.
 Căn cứ theo Hiến chương Havana
Trong thời gian đàm phán dẫn tới Hiến chương Havana về quan hệ thương mại quốc tế,
những nước tham gia đã chia việc phá giá thành 4 loại:

- Phá giá về giá: Là hành vi được quy định trong điều VI của Hiệp định GATT
(“sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác
với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”).
- Phá giá dịch vụ: Là hành vi tạo ra lợi thế về giá do có phá giá cung cấp dịch vụ
vận tải biển.
- Phá giá hối đoái: Là hành vi dựa trên cơ sở khống chế tỷ giá hối đoái để đạt được
lợi thế cạnh tranh.
- Phá giá xã hội: Là hành vi xuất phát từ việc nhập khẩu hàng hoá với giá thấp do tù
nhân hay lao động khổ sai sản xuất.
 căn cứ theo mục đích và biểu hiện cũng có thể phân thành 3 loại bán phá giá:
- Bán phá giá dai dẳng, thì hàng hóa liên tục được bán với một giá thấp hơn so với giá
cả trong nước nhập khẩu. Tình trạng này là tình trạng mà trong đó hàng hóa đơn giản là
hàng nhập khẩu khác được bán dưới những điều kiện tối đa hóa lợi nhuận. Bất kỳ hàng
rào thương mại nào cũng sẽ dẫn đến một giá cả cao hơn đối với người tiêu dùng trong
nước nhập khẩu và ảnh hưởng của phúc lợi của chúng
- Bán phá giá thường xuyên: một xí nghiệp nước ngoài sẽ bán tại giá cả thấp cho đến khi
những nhà sản xuất trong nước bị loại ra khỏi thị trường; lúc đó giá cả sẽ gia tăng bởi sự độc quyền
xuất hiện. Những nhà sản xuất trong nước lúc đó có thể được lôi kéo trở lại thị trường cho đến
khi giá cả giảm xuống trở lại. Có một tranh luận có giá trị cho việc bảo hộ với việc bán phá
giá thường xuyên do việc di chuyển nguồn lực lãng phí. Khi những nhân tố sản xuất di chuyển vào
và ra một ngành bởi ảnh hưởng của giá cả nhập khẩu thì chi phí và và sự lãng phí đổ dồn cho xã hội.
- Bán phá giá không thường xuyên sẽ xuất hiện khi nhà sản xuất nước ngoài (hoặc chính
phủ) với một thặng dư sản phẩm tạm thời xuất khẩu số này tại bất cứ giá nào mà nó cần.
Việc bán phá giá theo kiểu này có thể có những ảnh hưởng xấu tạm thời đến việc cạnh
tranh với những nhà cung cấp trong nước chủ nhà bởi việc làm gia tăng rủi ro trong hoạt
động của ngành. Những rủi ro này cũng như sự mất mát phúc lợi từ việc di chuyển nguồn
lực tạm thời có thể được tránh khỏi bởi việc đưa ra chính sách bảo hộ, mặc dù những ảnh
hưởng phúc lợi khác có thể được đưa vào trong phân tích khi xem xét những hạn chế
thương mại. Tuy nhiên, việc bán phá giá thường xuyên dường như không biện hộ được
việc bảo hộ trong ngắn hạn.

 Mặt trái và vai trò của bán phá giá
Bản thân khái niệm bán phá giá đã cho thấy tác động lớn nhất của bán phá giá là việc gây
ra thiệt hại vật chất cho các ngành kinh doanh trong nước. Tổn thất này rất lớn xét trên cả
góc độ vĩ mô và vi mô.
- Trên góc độ vĩ mô: một ngành sản xuất bị đe dọa sẽ kéo theo việc phá sản của nhiều
doanh nghiệp thuộc ngành đó, đồng thời dẫn đến tình trạng mất việc làm của nhân viên
và gây ra các tác động dây chuyền tới những ngành kinh doanh khác.
- Trên góc độ vi mô: khi đối mặt với hiện tượng bán phá giá, doanh nghiệp sẽ bị mất
thị trường và mất lợi nhuận. Đây thực sự là mối lo ngại không chỉ của các nước phát triển
mà của cả các nước đang phát triển, vì lợi thế so sánh của các nước luôn thay đổi và cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn trên thị trường quốc tế. Chính vì lẽ đó, các doanh
nghiệp sản xuất nội địa đều muốn chính phủ bảo vệ họ trước hiện tượng bán phá giá.
Xét ở góc độ người tiêu dùng, việc hàng hóa nước ngoài được bán phá giá sẽ mang lại
những lợi ích cụ thể, trước mắt cho họ do mua được hàng hóa với giá rẻ. Việc bán phá
giá sẽ kéo theo hàng loạt những tác động xấu cho các ngành sản xuất trong nước. Nó dần
dần bóp chết các ngành sản xuất non trẻ và thiếu sức cạnh tranh. Ngoài ra, một khi hàng
hóa bán phá giá đã chiếm lĩnh được thị trường thì các nhà xuất khẩu chắc chắn không
dừng lại ở đó mà họ sẽ nâng dần giá hàng để thu lợi nhằm bù đắp những chi phí của việc
bán phá giá. Lúc đó, người tiêu dùng sẽ phải mua hàng hóa với giá cao.
Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản
xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội cũng
được lợi từ bán phá giá.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc "bán phá giá" thường được coi là có tác động
tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây
thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta
thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Cần phải có sự phân tích thấu đáo bản
chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá giá
đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Tuy nhiên dưới góc độ kinh tế, việc bán phá giá không phải không đem lại những
lợi ích nhất định:

- Dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất có
điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị
trường mới;
- Khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có khả năng đánh bại
đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Và tùy
thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá, có thể trở thành doanh nghiệp độc
quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng lợi thế của doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi
nhuận;
- Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có mức tồn kho lớn, để giải phóng hàng
tồn kho, doanh nghiệp có thể bán phá giá để giải phóng hàng tồn kho hoặc trong trường
hợp khan hiếm ngoại tệ hoặc tìm kiếm ngoại tệ trong trường hợp khẩn cấp, doanh nghiệp
có thể thực hiện bán phá giá.
Nhìn chung, các chuyên gia kinh tế đều nhìn nhận rằng bán phá giá là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong quan hệ kinh doanh quốc tế. Mặc dù người tiêu dùng sẽ
được hưởng lợi vì được mua hàng hóa với mức giá rẻ hơn mức giá thông thường, nhưng
bán phá giá có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của
nước nhập khẩu. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tìm mọi cách, mà
trước tiên là bằng việc thỏa thuận thông qua các điều ước quốc tế và xây dựng pháp luật
quốc gia, để chống lại hành vi bán phá giá, nhằm bảo vệ thị trường và nền sản xuất trong
nước của mình.
Trên thế giới và ở nước ta thực tiễn đã có nhiều vụ kiện bán phá giá và điển hình trong số
đó có thể nói như : Vụ kiện chống bán phá giá cá Tra và cá Basa của Việt Nam trên thị
trường Hoa Kỳ.
Có thể nói Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn, có tiềm năng khoa học kỹ thuật và
công nghệ vào loại bậc nhất trên thế giới, hơn nữa, đồng thời cũng là đối tác quan trọng
có khả năng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới của mình. Đặc
biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương được ký kết đã mở ra một viễn cảnh
tươi sáng cho nền thương mại của hai nước.Trong nhiều năm gần đây, cá basa và cá tra
Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ dưới dạng phi lê đông lạnh đã góp phần
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Hoa Kỳ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi

loại cá này ở Việt Nam, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn ngư dân và nhà máy chế biến
thuỷ sản. Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là nhằm mang lại
lợi ích cho cả hai quốc gia.Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa
Kỳ đã sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến mức
đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này vào thị trường
Hoa Kỳ.
Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang dần xoá bỏ
những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước giàu mạnh. Thương trường Hoa
Kỳ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật
pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay
đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ
nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa
Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Nhưng không vì thế mà các
doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra
được những bài học kinh nghiệm quý báu.
Nói rõ về vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ :
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra và cá basa sang Mỹ từ năm 1996. Năm 1998,
sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang đây mới chỉ đạt 260
tấn, thì đến năm 2000, lượng hàng này tăng vọt lên hơn 3. 000 tấn và đến năm 2001 thì
đã đạt con số kỷ lục: xấp xỉ 8. 000 tấn. Sản phẩm cá tra, cá basa philờ do Việt Namsản
xuất được người tiêu dùng Hoa Kỳ đặc biệt ưa chuộng do chất lượng ngon, giá thành hạ.
Trước tình hình sản phẩm hải sản của Việt Nam
Trước tình hình sản phẩm hải sản của Việt Nam bước đầu đặt chân được vào thị
trường Hoa Kỳ, Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) đã thể hiện phản ứng bằng
việc đưa ra chủ trương chống các sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Cũng chính vào
thời điểm này, một " trận tuyến" mới đầy gay go, phức tạp đã bắt đầu. Trước tiên, Hoa Kỳ

đã phê chuẩn một đạo luật cấm Việt Nam sử dụng tên “catfish” cho các sản phẩm cá xuất
khẩu của mình.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng tìm hiểu tên gọi Catfish. Catfish là tên
tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vảy), gồm cá trê, cá nheo, cá tra, basa,
cá bông lau, cá lăng…theo hệ thống phân loại ngư loại học. Tất cả các loài cá nói trên
đều thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), gồm khoảng 2. 500-3. 000 loài cá khác nhau, phân
bổ trong các thuỷ vực nước ngọt, mặn, lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp
vào các họ cá khác nhau, trong đó có họ cá nheo Hoa (Pangasiidae). Cá tra, cá basa của
Việt Nam là các loài cá đặc hữu của vùng châu thổ sông Mờkụng thuộc giống Pangasius,
họ Pangasidae, bộ Slurifornes. Về mặt khoa học và tập quán thương mại, không thể lấy
tên một nhóm sản phẩm lớn của thuỷ sản thế giới để dành riêng cho một loài nào trong số
đó. Trên tất cả các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đều ghi rõ dòng
chữ tiếng Anh " sản phẩm của Việt Nam" hoặc " sản xuất tại Việt Nam", và thực hiện việc
ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại theo đúng quy định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền của mỹ là Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) đối với
sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Vậy CFA đã dùng những lý do gì để chống
lại việc nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam vào Hoa Kỳ?
Luận điểm chính của CFA để chống việc nhập khẩu cá tra và basa Việt Nam vào
Hoa Kỳ đó là:
• Sự xuất hiện của sản phẩm cá da trơn giá rẻ từ Việt Nam đã khiến tổng
trị giá catfish bán ra của các nhà nông nghiệp Hoa Kỳ giảm mạnh từ 446
triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Sản phẩm của
Việt Nam thường có giá rẻ hơn từ 0, 008 đến 1 USD/ pound (1 pound
tương đương khoảng 0,454kg).
• CFA cho rằng cá da trơn Việt Nam đã nhập khẩu ồ ạt vào Hoa Kỳ, làm
cho giá cá của Hoa Kỳ cũng giảm theo.
• Thêm nữa, họ nói rằng cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô
nhiễm, không đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu
dùng. Phía CFA yêu cầu sản phẩm cá da trơn không được gọi là catfish,
vì như vậy là vô hình chung ăn theo uy tín của cá nheo Hoa Kỳ, cái uy

tín mà họ mất nhiều năm trời và đổ bao tiền của mới tạo dựng được.
Danh sách các bên trong vụ kiện
 Bên Nguyên đơn
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA)
Đại diện cho bên nguyên đơn: Liên doanh Luật Akin Gump Strauss Hauer & Field
LLP, với nhóm luật sư: Valerie A. Slater; J. David Park và Thea D. Rozman- Louis
Thompson, Chủ tịch Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ– CFA; Hugh Warren,
Phó Chủ tịch CFA.
* 8 nhà sản xuất cá catfish:
- Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish;
- Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish;
- Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish;
- Seymour Johnson, Công ty Marie Planting;
- Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish.
* 4 công ty chế biến catfish:
- David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm;
- Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
- Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade;
- Daniel W. Klett, đại diện Hãng Capital Trade.
 Bên bị đơn
DN thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP)
Đại diện là: PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP;
- Ông Ngô Phước Hậu, Tổng giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản An Giang
Bảng Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá của DOC.
Tên công ty Mức trước đây Mức sau khi sửa
Agifish 61,88% 31,45%
Cataco 41,06% 41,06%
Vĩnh Hoàn 37,94% 37,94%

Navifishco 53,96% 38,09%
Các công ty khác có tham
gia vụ kiện
49,16% 36,76%
Các công ty không tham
gia vụ kiện
63, 88 % 63,88%
Nguồn: Vnexpress ngày 1/3/2003 Bài DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá
basa của Việt Nam
Đây được coi là hành động sửa sai của DOC sau khi Việt Nam chỉ ra rõ những
thiếu sót trong cách tính toán của họ. Song phương pháp tính toán của DOC vẫn không
xem xét đến bản chất quy trình sản xuất khép kín của công nghiệp sản xuất cá tra và cá
basa Việt Nam cũng như số liệu về các yếu tố sản xuất thực tế mà phía Việt Nam cung
cấp, do vậy mà VASEP vẫn tiếp tục đề nghị DOC phải thay đổi hoàn toàn quyết định sơ
bộ của mình.
Ngày 17/3/2003, DOC trực tiếp điều tra thực trạng nuôi cá basa tại Việt Nam và đề
nghị Việt Nam thảo luận về thoả thuận đình chỉ vụ kiện và thay bằng việc áp dụng hạn
ngạch và giá xuất khẩu đối với việc xuất khẩu mặt hàng này .Dù đã nhiều lần khẳng định
không bán phá giá các sản phẩm này, phía Việt Nam vẫn chấp nhận đền ghị đàm phán và
cử chuyên gia các Bộ Thương mại, Bộ Thuỷ sản, Bộ Ngoại giao,Bộ Tư pháp vàVăn
phòng chính phủ sang Washington để thương thảo.
Ngày 20/5/2003, Thoả thuận về đình chỉ vụ kiện bị đổ vỡ.
Ngày 14/6/2003, VASEP sang Washington dự phiên điều trần cuối cùng (ngày
17/6/2003) trước Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), cơ quan trọng tài của vụ
kiện.
Ngày 02/09/2005 : DOC có quyết định sơ bộ về việc giảm mức thuế chống bán phá giá
trongxem xét hành chính năm đầu tiên cho hai trong số các doanh nghiệp ViệtNam bị áp
thuế bán phá giá cá basa vào Hoa Kỳ:
- Công ty Nông súc sản xuất nhập khẩu Cần Thơ (CATACO) được giảm thuế
xuống còn 38,8%;

- Công ty Nông súc sản xuất nhập khẩu Cần Thơ (CATACO) được giảm thuế
xuống còn 38,8%;
Mức thuế đối với các công ty khác giữ nguyên như mức thuế trong quyếtđịnh
cuối cùng (sửa đổi) của DOC ngày 18/07/2003.
Tên công ty
Mức thuế (sửa đổi)
trongQuyết Định Sơ
Bộ (%)
Mức thuế (sửa đổi)
trongQuyết Định Cuối
Cùng
Agifish 47, 05 47, 05
CATACO 45, 81 38, 8
Vĩnh Hoàn 36, 84 7, 23
Nam Việt 53, 68 53, 68
Bị đơn tự 45, 55 45, 55
nguyện(Afiex,Cafatex,ĐàNẵng,
Mekonimex, AVD, Việt Hải và Vĩnh
long)
Các công ty không tham gia vụ kiện 63, 88 63, 88
Nguồn: chongbanphagia. Vn
thông tin mới trong bản tóm tắt ngày 24/ 01/ 2006 của Bên Nguyên mà có liên
quan đến Vĩnh Hoàn.
10/02/2006 Bên Nguyên nộp lại bản tóm tắt liên quan đến Vĩnh Hoàn trong đó đã
bỏcác thông tin không thích hợp trong bản tóm tắt ngày 24/ 01/ 2006 của Bên Nguyên.
16/ 02/ 2006 DOC công bố quyết định sơ bộ về việc thẩm tra phạm vi và mưu đồ
liênđới nhằm trốn tránh thuế chống phá giá áp dụng đối với cá basa, cá tra có nguồn gốc
từ Việt Nam. Do hai công ty của Cambodia, công ty TNHH Lian Heng Trading và công
ty TNHH Lian Heng Investment (gọi chunglà Lian Heng) sản xuất cá đông lạnh với
nguyên liệu nhập từ Việt Nam,nên DOC đã sơ bộ quyết định rằng Lian Heng đã có mưu

đồ trốn thuếchống bán phá giá đối với cá tra, cá basa từ Việt Nam.
Trong quyết định sơ bộ của DOC, DOC yêu cầu đình chỉ việc Lian Heng bán sản
phẩm vào thị trường Hoa Kỳ và yêu cầu Lian Heng nộp tiền đặt cọc theo mức thuế chống
bán phá giá áp dụng chung cho các doanh nghiệpViệt Nam (Vietnam - wide rate) là
63,88% đối với tất cả các lô hàng nhậpvào thị trường Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ
22/ 10/ 2004 đến 15/ 07/ 2005 nhưng chưa được bán của Lian Heng. Đối với tất cả các lô
hàng cá tra, cá basa đông lạnh do Lian Heng sản xuất vào16/07/2005,Hải quan Mỹ sẽ
xem xét giấy phép chứng minh việc LianHeng không sử dụng nguyên liệu cá tra, cá basa
trong việc quá trình sản xuất cá đông lạnh của mình. Bất kỳ lô hàng nào không có giấy
chứng nhận này sẽ phải đóng khoản tiền đặt cọc theo mức thuế chống bán phá giá toàn
quốc(63,88%).
22/ 02/ 2006 DOC công bố trên Sổ sách Liên bang quyết định về việc thẩm tra phạm vi
và mưu đồ liên đới nhằm trốn tránh thuế chống phá giá.DOC sẽ kéo dài thời gian đưa ra
quyết định cuối cùng về việc thẩm tra phạm vi và mưu đồ liên đới nhằm trốn tránh thuế
chống phá giá đến ngày 01/06/2006.
08/05/2006 Bồi thẩm đoàn (Grant Jury) của quận phía bắc bang Florida, Hoa Kỳ
đãđưa ra một bản cáo trạng gồm 42 điểm cáo buộc hai nhà nhập khẩu hảisản của Thành
phố Panama và bang Florida, và các nhà nhập khẩu hảisản và giám đốc doanh nghiệp, và
một số nhà cung cấp cá tra Việt Namvề việc nhập khẩu cá tra dưới nhãn hiệu giả từ Việt
Nam vào Hoa Kỳ rồisau đó tiếp thị số cá này dưới tên khác (ví dụ như cá mú, cá vược
đượcđánh bắt trong tự nhiên) tại Hoa Kỳ và Canada.
Bản cáo trạng buộc tội các cá nhân và công ty sau đây:
1. DANNY D. NGUYEN, thành phố Panama, bang Florida.
2. PANHANDLE TRADING, INC. (PTI), 3014 East 1st Court, Panama, Florida
32401. Theo bản cáo trạng, DANNY D. NGUYEN đóng vai trò là phó chủ tịch PTI, và
PTI đã nhập khẩu cá và bán cá choPANHANDLE SEAFOOD, INC. để phân chia lợi
nhuận.
3.PANHANDLE TRADING, INC. (PTI), 3014 East 1st Court, Panama,Florida
32401. Theo bản cáo trạng, DANNY D. NGUYEN đóng vai trò là phó chủ tịch PSI, và
PSI mua cá fillờ đông lạnh từ các nhà xuất khẩuViệt Nam hoặc từ PTI và tiếp thị sản

phẩm trên thị trường cá thương mạicủa Hoa Kỳ và Canada.
4. Công ty xuất nhập khẩu thức ăn và sản phẩm nông nghiệp ANGIANG, các tên
khác là CÔNG NGHIỆP HẢI SẢN AFIEX, hay CÔNG NGHIỆP HẢI SẢN AFIEXA., có
trụ sở tại Tỉnh An Giang, Việt Nam.
5. BUU HUY, hay tên khác là HUY BUU, là đại diện bán hàng choAFIEX.
6. CÔNG TY MEKONGFISH, các tên khác là MEKONGFISH,
hayMEKONIMEX (MEKONGFISH), có trụ sở tại Thành phố Cần Thơ, ViệtNam.
7. CÔNG TY CHẾ BIẾN HẢI SẢN CẦN THƠ (CAFATEX), có trụ sởchính tại
Thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
8. CÔNG TY CHẾ BIẾN THỰC PHẨM DUYÊN HẢI (COSEAFEX),có trụ sở
chính tại Tỉnh Trà Vinh, Việt Nam.Theo Bản Cáo Trạng, từ tháng Năm 2002 và tháng Tư
2005, bị đơn đã tham gia vào mưu đồ cố ý gắn nhãn hiệu sai vào một số sản phẩm cá
trađông lạnh, được nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ, với mục đích trốn thuế chống
bán phá giá do Hoa Kỳ áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu này.
Trên 250. 000 bao cá đã bị thu hồi trong cuộc điều tra này.
*Xem xét hành chính hàng năm lần 2
13/ 01/ 2006 DOC chọn 4 công ty làm Bị Đơn Bắt Buộc trong lần xem xét hành
chínhhàng năm lần 2: QVD; Cafatex; Mekonimex; và CATACO.
17/ 01/ 2006 DOC gửi bản câu hỏi điều tra cho các Bị Đơn Bắt Buộc. Bên Nguyên
nộp đơn đề nghị xin DOC hoãn ra quyết định sơ bộ cho xem xét hành chính hàng năm lần
2 chậm 120 ngày so với kế hoạch ban đầu.
18/ 01/ 2006 DOC gửi Mục A của bản câu hỏi điều tra cho các Bị Đơn Tự Nguyện
làAfiex; Phan Quân; và Navico.
07/03/2006DOC đồng ý đề nghị của Bên Nguyên xin hoãn ra quyết định sơ bộ
cholần xem xét hành chính hàng năm lần 2.Thời hạn muộn nhất để DOC đưa ra quyết
định sơ bộ cho xem xét hành chính hàng năm lần 2 là 31/08/2006.Thời hạn muộn nhất để
DOCđưa ra quyết định cho xem xét hành chính hàng năm lần 2 là 120 ngày kể từ ngày
công bố quyết định sơ bộ.
*Xem xét hành chính hàng năm lần 3
Sau đợt đánh giá hành chính về thuế chống bán phá giá đợt ba, Bộ Thương mại

Hoa Kỳ (DOC) mới đây đã công bố mức thuếmới cho giai đoạn từ 1/8/2005 đến
31/7/2006 đối với các DN Việt Nam.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam dẫn nguồn tin Intraffish. com
cho biết, trong phán quyết này, DOC áp mức thuế 14,59% cho Việt Nam một mức giá
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sự xuất hiện của cá tra Việt Nam tại 127 quốc gia
khắp hành tinh với tốc độ tăng dần hằng năm, đưa kim ngạch dự báo tới 1, 5 tỷ USD
trong năm 2010 là một thực tế cho thấy những ưu thế vượt trội của sản phẩm thủy sản
danh tiếng và an toàn này của Việt Nam. Như vậy, thật khó nói rằng DOC đã hành động
khách quan theo đúng tinh thần tự do thương mại mà nước Hoa Kỳ luôn tuyên bố là đang
khuyến khích và theo đuổi.
Ông B. Schoroth, đại diện một văn phòng luật sư tại Hoa Kỳ, chuyên tư vấn pháp
lý vụ kiện chống phá giá cá tra cho DN Việt Nam cũng khẳng định, việc điều chỉnh tăng
thuế phá giá lên hơn 100% là sự áp đặt vô lý từ phía DOC. Luật sư này bình luận, động
thái này mang tính chính trị nhiều hơn là xuất phát từ yếu tố cạnh tranh thương mại thuần
tuý. " Rõ ràng, tăng thuế là nhằm mục đích hạn chế xuất khẩu cá tra Việt Nam vào thị
trường Hoa Kỳ" - ông B. Schoroth nói.
 Ảnh hưởng của vụ kiện đối với hai bên
 Đối với Hoa Kỳ
Nước Hoa Kỳ luôn kêu gọi tự do hoá thương mại, phá bỏ mọi rào cản thương mại.
Tuy nhiên nhiều năm qua, trong các mối quan hệ thương mại song phương và đa phương,
Hoa Kỳ lại là nước có những hành động đi ngược lại tinh thần đó.
Thực chất mục tiêu mà chính phủ Hoa Kỳ hay đại diện thương mại của họ theo đuổi
trong đàm phán về tranh chấp thương mại là chính sách bảo hộ thương mại. Lý do của việc
này thường xuất phát từ việc mọi chính sách thương mại đem lợi ích cho một nhóm người
nhưng lại gây thiệt hại cho nhóm khác. Ví dụ nhập khẩu cá basa Việt Nam làm lợi cho người
tiêu dùng thu nhập thấp ở Hoa Kỳ nhưng lại có hại cho các chủ trại nuôi nheo Hoa Kỳ từ
400 đến 500 triệu USD hàng năm. Bởi vậy, quá trình ra quyết định về chính sách thương mại
và Phát triển nông thôn cũng đã gặp Đại sứ Hoa Kỳ để bày tỏ sự quan ngại. VASEP cũng
đã cử hai doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn nhất đến Hoa Kỳ để cùng với luật sư bên
Hoa Kỳ bàn bạc kế hoạch triển khai vụ kiện.

Vụ việc một lần nữa cho thấy, con đường hội nhập với thế giới không được trải
bằng hoa hồng mà luôn tiềm ẩn những thách thức. Hơn lúc nào hết, tự trang bị những
kiến thức phù hợp với chuẩn mực luật pháp của từng quốc gia là kinh nghiệm cần thiết để
các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp tục đi tới trong quá trình hũa nhập thế giới.
 Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa vào thị
trường Hoa Kỳ
 Bài học đối với Chính phủ Việt Nam
Vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
đã giúp chúng ta có cơ hội nhìn nhận chính xác hơn thực trạng thương mại quốc tế hiện
nay. Nơi mà một mặt người ta kêu gọi tự do hoá thương mại mặt khác lại lạm dụng Luật
thuế Chống bán phá giá như một công cụ hữu hiệu để bảo hộ các ngành công nghiệp
trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu giá rẻ. Từ sau vụ kiện này, Bộ Thương mại Việt
Nam đã gấp rút hoàn chỉnh Pháp lệnh Chống bán phá giá với hàng nhập khẩu vào Việt
Nam. Đây là văn bản đầu tiên quy định cách thức bảo hộ hợp pháp ngành sản xuất trong
nước mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng, catfish và hậu quả là hàng vạn ngư dân
nuôi cá được một phen điêu đứng vì sản lượng xuất khẩu giảm.
Thúc đẩy việc thành lập các hiệp hội ngành nghề và tăng cường vai trò của nú
nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển xuất khẩu. Đây là một bài học rất hữu
ích từ sau vụ kiện này. Trước khi xảy ra vụ kiện vai trò của Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tỏ ra mờ nhạt trong hoạt động kinh doanh chế biến
cũng như xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp, chính phủ cần tìm ra một giải pháp
thích hợp như thành lập một tổ chức chuyên tính toán giá xuất khẩu hợp lý trên từng thị
trường, cho từng mặt hàng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xuất khẩu, hoặc đề
ra các quy định xử phạt khi các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh nhau gây ra hậu quả
giảm giá xuất khẩu dẫn tới các vụ kiện cáo.
 Đối với các doanh nghiệp
Sự thất bại này, Việt nam rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm. Các doanh
nghiệp Việt nam đã phải trả 469 USD/ giờ cho một văn phòng luật sư tại Washington để
bảo vệ quyền lợi cho mình, trong khi thu nhập của một người dân nuôi cá tra, basa ở
đồng bằng sông Cửu Long chưa tới 35 USD/thỏng. Kinh phí chi cho vụ kiện tổng cộng là

600. 000 USD. Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam phàn nàn về sự bất công trong vụ kiện.
Một điều rõ ràng là rất nhiều người, cả Việt nam và Hoa Kỳ, cho rằng phán quyết về vụ
cá da trơn là không công bằng, chỉ đem lại lợi ích cho một số công ty Hoa Kỳ và gây
thiệt hại cho những người nông dân nghèo vùng đồng bằng sông Cửu long. Tuy nhiên
việc tập trung vào khía cạnh công bằng hay không công bằng của vụ tranh chấp đòi hỏi
Việt nam phải xem xét một vấn đề lớn hơn, đó là: Liệu bằng cách nào Việt nam có thể đối
phó với những vụ kiện tương tự trong tương lai một cách hiệu quả nhất. Cần phải thừa
nhận một thực tế là sẽ tiếp tục có những vụ kiện chống bán phá giá và đây chưa phải là
vụ cuối cùng. Vụ kiện cá da trơn chỉ là một trong số 276 vụ kiện chống bán phá giá trên
toàn thế giới năm 2002.
Qua đây, điều quan trọng nhất mà Việt nam rút ra được, đó là chuẩn bị cho mình
một cách có hệ thống các biện pháp đối phó với các vụ kiện trong tương lai, cũng như
hiểu được tầm quan trọng của việc chúng ta đã trở thành thành viên WTO, bởi WTO đưa
ra một bộ quy tắc mà các nước nhập khẩu phải tuân thủ khi tiến hành các vụ kiện chống
bán giá- cơ chế minh bạch để chống lại các phán quyết về chống bán phá giá được đưa ra
không phù hợp với các quy tắc nêu trên. Trong vụ kiện cá da trơn, Việt nam không được
áp dụng bộ quy tắc này vì khi đó chưa là thành viên WTO. Nói cách khác, mặc dù cho
rằng phán quyết cuối cùng về chống bán phá giá của Mỹ đã vi phạm các nguyên tắc của
WTO, nhưng Việt nam cũng không thể khiếu nại phán quyết đó tại một hội đồng xét xử
của WTO.
CBPG được xem như một cái “van an toàn” để điều tiết hàng húa của từng quốc
gia trong nền kinh tế mở. Đối phó với những vụ kiện CBPG rất tốn thời gian, tiền của và
công sức. Do vậy, mỗi DN cần phải đa dạng húa sản phẩm, tìm kiếm nhiều thị trường
hơn, có chiến lược xây dựng thương hiệu một cách bài bản để đủ sức đương đầu với
những thương hiệu mạnh và xa hơn là đối phó với những vụ kiện CBPG có thể xảy ra.
Chúng ta có thể rút ra một số bài học sau qua vụ kiện:
+ Điều tiên quyết khi sản phẩm xuất sang một thị trường nào đó thì phải hiểu rõ
tập quán thương mại và luật pháp của nước đó.
+ Nâng cao vai trò của hiệp hội ngành nghề để tập trung sức mạnh của cộng đồng
doanh nghiệp VN và của các nhà nhập khẩu.

+ Đối với những mặt hàng có tính cạnh tranh cao, nếu doanh số chiếm trên
thường xuyên giá cả so với giá của mặt hàng cùng loại của nước sở tại để điều
chỉnh thích hợp, tránh kiện tụng về sau.
+ Sản xuất và xuất khẩu phải gắn liền với quy hoạch vùng nguyên liệu tránh biến
động khủng hoảng.
+ Cần tăng cường kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng sản phẩm - đảm bảo chất
lượng ổn định, quan tâm đến việc xây dựng và quảng bá thương hiệu.
+ Biện pháp vận động hành lang để gây sức ép của công luận đối với những vụ
kiện tương tự là rất cần thiết và mang ý nghĩa thiết thực.
+ Làm tốt công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu để dễ truy xuất và làm bằng chứng chứng
minh đỡ mất thời gian và công sức.
 Các giải pháp đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của Việt Nam
Để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện
thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, cần phải thực hiện các giải pháp sau:
 Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài
- Chính phủ tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ
nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, do đó không áp dụng
biện pháp chống bán phá giá đối với Việt Nam.
- Dự báo danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện
phá giá trên cơ sở rà soát theo tình hình sản xuất, xuất khẩu từng ngành hàng của Việt
Nam và cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia để từ đó có sự phòng tránh cần thiết.
- Xây dựng chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường xuất
khẩu của các doanh nghiệp để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với
khối lượng lớn vào một nước vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước khởi
kiện bán phá giá. Theo hướng đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến các thị trường lớn
(Trung Quốc, Nhật Bản ) các thị trường mới nổi Hàn Quốc, Úc ) các thị trường mới
(SNG, Trung Đông, Nam Phi ). Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa
- một thị trường có tiềm năng phát triển. Đây là những kinh nghiệm ta đã rút ra được từ
các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa của Hoa Kỳ trước đây.
- Tăng cường áp dụng các biện pháp cạnh tranh phi giá để nâng cao khả năng cạnh

tranh của hàng xuất khẩu thay cho cạnh tranh bằng giá thấp. Đó là phải đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh các dịch vụ hậu mãi, tiếp thị quảng cáo, áp dụng các điều
kiện mua bán có lợi cho khách hàng
- Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu, về luật thương mại
quốc tế, luật chống bán phá giá của các nước và phổ biến, hướng dẫn cho các doanh
nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện.
 Các giải pháp đối phó với vụ kiện chống bán phá giá đã xảy ra
* Về phía chính phủ: cần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp trong kháng
kiện
- Thành lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện để hỗ trợ tài chính cho các doanh
nghiệp kháng kiện.
- Cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết về các thủ tục kháng kiện,
giới thiệu các luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện
* Về phía các hiệp hội ngành hàng: cần phát huy vai trò là tổ chức tập hợp và tăng
cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm nâng cao năng lực kháng kiện
của các doanh nghiệp.
- Thông qua hiệp hội quy định hành vi bảo vệ lẫn nhau, phối hợp giá cả trên thị
trường, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh có thể tạo ra cớ gây ra các
Thiết lập cơ chế phối hợp trong tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện
thành công để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện.
+ Tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu thông tin về giá cả, định hướng phát
triển thị trường, những quy định pháp lý của nước sở tại về chống bán phá giá để các
doanh nghiệp kháng kiện có hiệu quả giảm bớt tổn thất do thiếu thông tin.
* Về phía các doanh nghiệp: cần chủ động theo đuổi các vụ kiện khi bị nước ngoài
kiện bán phá giá.
- Hoàn thiện hệ thống sổ sách chứng từ kế toán phù hợp với các quy định của luật
pháp và chuẩn mực quốc tế, lưu trữ đầy đủ hồ sơ về tình hình kinh doanh nhằm chuẩn bị
sẵn sàng các chứng cứ, các lập luận chứng minh không bán phá giá của doanh nghiệp, tổ
chức nhân sự, dự trù kinh phí, xây dựng các phương án bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp
- Tạo ra những mối liên kết với các tổ chức lobby để vận động hành lang nhằm lôi

kéo những đối tượng có cùng quyền lợi ở nước khởi kiện ủng hộ mình. Như trong vụ
kiện tôm đã có “Liờn minh hành động ngành thương mại công nghiệp tiêu dùng Hoa Kỳ”
(CITAC) “Hiệp hội các nhà nhập khẩu và phân phối tôm Hoa Kỳ” (ASDA) đứng về phía
các doanh nghiệp Việt Nam chống lại vụ kiện bán phá giá của Hoa Kỳ.
- Chủ động thương lượng với chính phủ của nước khởi kiện thực hiện cam kết giá
nếu doanh nghiệp thực sự có hành vi phá giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cùng
ngành hàng của nước nhập khẩu. Cam kết giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sửa
đổi mức giá bán (tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu với giá bị coi là bán phá giá
hàng hoá. Đây là một thoả thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu và nước
nhập khẩu. Khi một cam kết giá được chấp thuận. quá trình điều tra sẽ chấm dứt. Hiện
nay, cam kết giá được coi là một biện pháp đối phó chủ động của các nước xuất khẩu
trong các vụ kiện chống bán phá giá, đặc biệt đối với các sản phẩm công nghiệp. Trong
giai đoạn 1995 - 2001 trên thế giới đã có 34 nước thực hiện cam kết giá, trong đó có 10
nước chưa phải là thành viên WTO. Cam kết giá có ưu điểm là nhanh chóng hơn và ít tốn
kém hơn so với việc phải hoàn tất cuộc điều tra của cơ quan điều tra về bán phá giá. Hơn
nữa các nhà sản xuất, xuất khẩu ở nước bị kiện sẽ được hưởng phần lớn chênh lệch trước
và sau cam kết tăng giá bán thay cho việc nộp thuế chống bán phá giá cho nước nhập
khẩu. Tuy nhiên, nhà xuất khẩu lúc này cũng phải đối mặt với việc giảm khả năng cạnh
tranh về giá của hàng xuất khẩu, chấp nhận thực hiện các thủ tục hành chính nghiêm ngặt
và phức tạp hơn trong giao dịch xuất khẩu Vì vậy cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng các yếu
tố về kinh tế, xã hội, luật pháp, khả năng cạnh tranh trước khi thực hiện biện pháp này.
Tóm lại vụ kiện chống bán phá giá cá tra cá basa chưa thể kết thúc, từ vụ kiện có
thể thấy để hội nhập và phát triển Việt Nam còn phải đối mặt với sức ép của những cuộc
cạnh tranh thiếu công bằng của các nhà sản suất kinh doanh thủy sản, trong đó có Hoa
Kỳ. Có thể thấy, với mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm gần 20% trong thời gian gần
đây và việc một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam đã bước đầu có được chỗ đứng vững
chắc tại các thị trường lớn đã dẫn đến khả năng các vụ kiện chống bán phá giá ngày càng
gia tăng. Điều này về lâu dài sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Vì
vậy, để giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do các vụ kiện bán phá giá gây ra, các
doanh nghiệp Việt Nam cần có các biện pháp phù hợp trong việc bán phá giá. Đó là phải

thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu, tăng cường vai trò
của các hiệp hội ngành hàng, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về thông tin, tiến hành cam
kết giá khi cần thiết

×