Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.53 KB, 107 trang )


-1-
Lời mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham
gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi
quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xu
ất
khẩu hàng hoá. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt nam ngày càng
có uy tín trên thị trường thế giới đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất
khẩu của nưóc ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá
giá để tạo ra hàng rào bảo hộ, ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu
vào thị trường của nước họ. Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm
phán xin gia nhập WTO đồng nghĩa với sự thay đổi sâu sắc các chính sách
thương mại liên quan tới việc mở cửa thị trường. Hiện tượng bán phá giá hàng
nước ngoài chắc chắn sẽ ngày càng tăng trên thị trường nước ta, có thể gây ra
những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong nước do hàng rào bảo
hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể biến mất, đồng thời thu
ế
suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và sớm áp
dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) trong đó có thuế chống bán phá giá. Đây là việc làm
mang tính cấp bách và cần thiết vì lợi ích và yêu cầu của đất nước. Đạt được
đ
iều này, đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện hệ thống pháp lý thương mại trước
khi được kết nạp là thành viên của WTO nhằm bảo vệ công nghiệp sản xuất
nội địa và bảo vệ thị trường hàng hoá trong nước chống lại việc bán phá giá
hoặc chống lại các trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu


của Việt nam.

-2-
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của
nhiều ngành, nhiều cấp nên khoá luận tốt nghiệp này chỉ đề cập tới một số nét
khái quát về lý luận của việc bán phá giá, thuế chống bán phá giá và thực
trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại một số nước đại diện cho những khu
vực kinh tế điển hình, cũng nh
ư thực trạng và giải pháp của Việt nam trước
việc hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào bán phá giá ở thị trường nước ta và
việc hàng xuất khẩu của Việt nam ra nước ngoài bị kiện bán phá giá qua vụ
việc Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ(CFA) kiện các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt nam bán phá giá sản phẩm fillet cá Tra và cá Basa trên thị trường
Mỹ.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo - Tiế
n sĩ Vũ
Sỹ Tuấn - Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Ngoại thương đã tận tình giúp đỡ và chỉ
bảo để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.


Hà nội, tháng 5 năm 2003
















-3-
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA THUẾ CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ
1. Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá
Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu
đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã
cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước
khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Những tr
ường hợp bán phá giá
của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo.
Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành
lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19.
Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên được ban hành ở
Canada năm 1904. Sau đ
ó Luật chống bán phá giá được ban hành tại
Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam phi năm 1914. Nước Mỹ
có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921.
Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế quan (GATT)
năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp chống bán phá giá đã
được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép các bên ký kết được sử dụng

các sắc thuế chống bán phá giá để bù trừ mứ
c phá giá của các hàng nhập
khẩu, miễn là chứng minh được việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ gây
ra thiệt hại vật chất cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến
nay, đây vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá.
Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số
nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những hàng rào thương mại
mới, các th
ủ tục chống bán phá giá, những cách tính toán mức phá giá đã gây
thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm
phán Kennedy của GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận

-4-
bộ luật chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên lý
cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn chế các thủ tục
và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có thể gây tổn hại đến
thương mại quốc tế.
Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây dựng
một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ
năm 1979 thay thế cho Luật
chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành viên ký kết có hiệu lực hơn
mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá. Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về
bán phá giá, dựa trên Luật chống bán phá giá trước đó các thành viên xây
dựng “ Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994 ”điều chỉnh
kỹ hơn các quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành
viên của T
ổ chức thương mại Thế giới ( WTO ) và là Hiệp định cưỡng bức thi
hành.
Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng các sắc
thuế:

 Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc “ bán phá
giá”.
 Các quy tắc chi tiết “ yêu cầu về thiệt hại ”
 Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các Chính phủ
xác định và áp dụng các sắc thuế chống bán phá giá.
2. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá:
2.1 Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Bán phá giá” thường được
hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của
mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác hạ giá
bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị
trường nước nhập khẩu và thị tr
ường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở
thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí
có thể xảy ra trường hợp giá bán cáo hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các
tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng

-5-
hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại
thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa
này thật là đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại
nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá.
Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi m
ột loạt câu hỏi
được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và
công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay giá bán lẻ? Giá
xuất khẩu là giá nào? ...
2.2 Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào
một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp
diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sả
n xuất

mặt hàng tương tự ở trong nước.
3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình
dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước được bán vào thị truờng một nước
với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E,
với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy
nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu
thụ tăng lên Q2, trong khi đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ
còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2 - Q’2.










D
S
F

P
1

A
B
C
E

S
P

P
2

Q’2
Q1
Q2
Q

D


-6-

Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một
lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản
xuất trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE.
Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho
ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về
tổng thể
, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc “bán phá giá” thường được coi là
có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người
bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của
nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành
động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của m
ọi
trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá gía đều

có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất,
giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu
nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất;
Thứ hai
, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp
hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số
tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình
quân hay “chi phí lề”.
Trường hợp thứ nhất
: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng
cao hơn chi phí sản xuất.
Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền
hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên
hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải c
ạnh tranh ở
thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi
nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán
trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi
đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán

-7-
với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như
định nghĩa ở trên.
Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu
thay đổi (do cạnh trạnh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích
của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống đối
l
ại.

Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong
thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu sẽ gây tác động đến
lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp nhưng
ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị
thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuố
i cùng của nước nhập khẩu
phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người
sản xuất và công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng
khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của
hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lậ
p luận rằng do điều
kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể
tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục
thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như
tự vệ.
Trường hợp thứ hai
: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn
chi phí, cần phân biệt các loại chi phí.
Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình
quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost).
Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải
chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ
ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có

-8-

một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính
chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời
gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập vào một thị
trường
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các
hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình
quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ
thộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và
vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán
với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm
thiệt hại trước khi rút lui khỏ
i thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình
thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước
ngoài và hãng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập
khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa
và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụ
ng các chính sách
hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự
vệ.
4. Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn gia tăng
được lợi nhuận?
Trong thực tế, có những lý do khiến một công ty bán phá giá hàng sản
xuất ra thị trường nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận. Giả dụ một công ty
sản xuất một triệu chi
ếc radio một năm bằng một nhà máy duy nhất và chỉ
làm ca ban ngày. Giả sử nhà máy đó định giá mặt hàng radio này trong thị
trường nội địa là 20USD/chiếc và lãi được 4USD/chiếc. Ta giả dụ tiếp là
những chi phí biến động của mặt hàng radio (nguyên vật liệu, lương công
nhân...) vào khoảng 10USD/chiếc; Vậy chi phí cố định (nhà xưởng, trang

thiết bị...) khoảng 6USD/chiếc.Nếu nhà máy bán hết một triệu chiếc radio mỗi
năm vớ
i lãi 4USD/chiếc thì nó đã bù đắp xong mọi chi phí cố định và có thể

-9-
bán thêm radio với bất cứ mức giá nào cao hơn chi phí biến động
10USD/chiếc để kiếm thêm tiền lãi.
Giả sử nhà máy có thể chạy thêm ca đêm và sản xuất một triệu chiếc
radio nữa mỗi năm. Các chi phí cố định, theo giả định, đã được trang trải
xong với một triệu chiếc radio đầu tiền. Nếu nó có thể xoay xở bán được một
triệu chiếc radio thứ hai này mà không ảnh hưởng gì tớ
i giá bán một triệu
chiếc radio đầu tiên, vậy thì bất cứ mức giá nào cao hơn mức chi phí biến
động 10 USD/ chiếc cũng làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Thí dụ nó bán
radio làm ca đêm với giá 14 USD, thì nó lãi thêm 4 triệu USD (ngoài số lãi 4
triệu USD từ một triệu chiếc radio đầu tiên làm ca ngày), tức là tăng gấp đôi
lợi nhuận. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không được ảnh hưởng tới giá
trị bán của một triệu radio đầ
u tiên làm ca ngày. Điều này dẫn đến việc phải
tìm kiếm một thị trường khác hẳn cho sản lượng của ca đêm. Thị trường mới
này phải đảm bảo không dễ gì chuyển ngược hàng trở lại thị trường thứ nhất,
nếu không thì giá bán của radio làm ca ban ngày sẽ bị cắt xuống tới mức thấp
hơn giá thành.
Một phương cách để thực hiện việc trên là tính giá bán khác nhau ở
nh
ững khu vực khác nhau, với điều kiện chi phí vận chuyển hàng theo chiều
ngược lại phải đủ cao để ngăn không cho người mua ở thị trường giá rẻ đem
bán lại ở thị trường giá đắt. Trong trường hợp xuất khẩu sản phẩm, các Chính
phủ có thể dựng hàng rào thuế quan ngăn cản việc chở hàng hoá ngược về thị
trường gốc. Như thế, nếu có mộ

t mức thuế quan 40% đánh lên radio nhập
khẩu, thì sản lượng của ca đêm có thể bán sang nước ngoài sẽ chở radio
ngược về thị trường giá gốc để làm giảm giá bán tại thị trường nội địa.
Có thể chứng minh những lập luận trên bằng trường hợp điển hình về
bán phá giá đã xẩy ra trên thương trường quốc tế sau đây:
Từ những năm 1960, sáu công ty điệ
n tử hàng đầu của Nhật Bản là
HITACHI, MISUBISHI, MASUSHITA, SANYO, SHARP và TOSHIBA đã
cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964, họ đã thoả thuận thống
nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thoả
thuận này là trong nhiều năm trời, người tiêu dùng ở Nhật phải trả 700 USD

1.400
1.200
1.000
800
600

P
USD
(giá)

PT =700
P
C
=450
1
C



3
C
1

2

3

B

P
B
=500
D

C
N

2
C

T

-10-
cho một tivi màu, trong khi các công ty đó ở Mỹ chỉ với giá 400 USD cho
một tivi mầu cùng loại. Việc bán phá giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho các công ty
Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh. Cho đến năm 1989, sáu hãng tivi lớn
và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị
suy yếu mạnh. Chúng ta có thể lý giải quá trình bán phá giá, chiếm thị trường,
gia tăng lợi nhuận nói trên bằng mô hình sau đây:



Hiệu ứng bán phá giá - chi
ếm thị trường - tăng lợi nhuận
Giả sử có 3 doanh nghiệp Nhật Bản 1,2,3 cạnh tranh trên thị trường
tivi. Nhu cầu là đường NC, chi phí bình quân (C1, C2, C3) và công suất thiết
kế của ba doanh nghiệp là như nhau (500.000 tivi/năm).
Nếu ba doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá với nhau, thị trường sẽ cân
bằng ở điểm C, giá bán là P
c
=450 USD và bằng chi phí bình quân thấp nhất
của mỗi doanh nghiệp ở điểm D. Như vậy, cả ba doanh nghiệp đều chỉ hoà
vốn.
Giả sử ba doanh nghiệp thoả thuận giảm 40% sản lượng từ q
c
=1,5 triệu
còn q
T
= 0,9 triệu tivi. Lúc này, giá mà thị trường chấp nhận là P
T
= 700 USD,
thị trường cân bằng ở điểm T. Do sản lượng giảm, chi phí bình quân tăng từ
450 USD ở điểm D, lên 500 USD ở điểm B. Tuy nhiên, do giá tăng rất mạnh,
từ 450 USD lên 700 USD, nên mặc dù sản lượng giảm, chi phí tăng, các
doanh nghiệp vẫn có lãi. Đối với doanh nghiệp 1, điểm bán lúc cạnh tranh là
D, song khi thoả thuận là A, với q
A
= 300.000 tivi. Lợi nhuận của doanh
nghiệp này là:
Lợi nhuận thực tế = 300.000 x (700 USD-500 USD) = 60 triệu USD

Như vậy lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên 60 triệu USD. Ở tình trạng
thoả thuận bán ở trong nước như vậy, cả ba doanh nghiệp đều có lợi nhuận
cao, song họ không bán thêm vào thị trường trong nước mà xuất khẩu, thì sẽ
không làm giảm giá trị trường trong nước. Và nếu bán ra nước ngoài với giá

-11-
thấp, thì có thể chiếm được thị trường mới. Vấn đề là bây giờ lợi nhuận của
họ thế nào?
Giả sử doanh nghiệp sản xuất hết 100% năng lực, song xuất khẩu 40%
sản phẩm. Tức là mỗi doanh nghiệp sản xuất 500.000 tivi/năm, xuất khẩu
200.000 tivi. Lúc này chi phí mỗi tivi là 450 USD ở điểm D. Giả sử ba doanh
nghiệp quyết định bán phá giá ở nước ngoài, với giá P
N
= 400 USD < P
C
= 450
USD = chi phí bình quân. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ lỗ xuất khẩu là:
Lỗ = 200.000 x (450 USD - 400 USD) = 10 triệu USD.
Tuy nhiên do tăng được 40% sản lượng, chi phí bình quân mỗi tivi lại giảm,
từ 500 USD ở điểm B xuống còn 450 USD ở điểm D. Do vậy, mặc dù giá bán
tivi trong nước không tăng, song lợi nhuận do bán trong nước lại tăng:
Lợi nhuận trong nước= 300 x (700 USD - 450 USD) = 75 triệu.
Như vậy lợi nhuận thực tế của mỗi doanh nghiệ
p khi vừa thoả thuận,
vừa bán phá giá ở nước ngoài là:
Lợi nhuận= 75 triệu USD - 10 triệu USD = 65 triệu USD.
Mặc dù chịu lỗ ở nước ngoài, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp đã tăng
từ 60 triệu USD (khi thoả thuận mà không xuất khẩu) lên đến 65 triệu USD
(khi vừa có thoả thuận vừa có xuất khẩu). Còn nếu so sánh khi các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau trong nước, lợi nhuận đã tăng từ 0 tri

ệu lên đến 65
triệu USD. Nếu chi phí sản xuất tivi ở Mỹ là 400USD, tức là thấp hơn của
Nhật bản là 450USD, thì để có lãi, giá bán tivi của Mỹ phải trên 400USD.
Nếu các doanh nghiệp Nhật bản xuất khẩu sang Mỹ với giá 400USD thì rõ
rằng là các doanh nghiệp Mỹ không chịu đựng nổi. Và như đã nêu ở trên, sau
30 năm bán phá giá, Nhật bản đã đánh bại công nghiệp tivi của Mỹ, mặc dù
chi phí sản xuất củ
a các công ty Nhật bản có thể cao hơn các công ty Mỹ.
Mô hình nêu trên đã chứng minh một khả năng là: Một nước có trình độ
công nghệ không cao hơn, có chi phí sản xuất cao hơn vẫn có thể xuất khẩu
sang nước có chi phí sản xuất thấp hơn, với một giá thấp hơn chi phí của nước
chủ nhà, vừa chiếm được thị trường mà vẫn gia tăng được lợi nhuận.

-12-
Bản chất kinh tế của chiến lược này là: Hạn chế tối đa nhập khẩu, thoả
thuận trong nước về giá và xuất khẩu với giá tiêu diệt địch thủ:
 Bằng cách hạn chế nhập khẩu và thoả thuận giữa các doanh
nghiệp, các doanh nghiệp đẩy được giá trong nước lên cao làm
tăng lợi nhuận (điều này làm thiệt hại người tiêu dùng trong
nước).
 Bằng cách xu
ất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các doanh
nghiệp lại giảm được chi phí, từ đó lại tăng thêm được lợi nhuận
của phần sản phẩm bán trong nước. Chính phần lợi nhuận tăng
thêm này là nguồn tài chính để bù lỗi việc bán phá giá ở nước
ngoài.
Như vậy, trong một cơ chế thị trường có sự hỗ trợ của Nhà nước như
trên (khuyế
n khích thoả thuận, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp sản xuất xuất
khẩu), chính người dân Nhật bản là người gánh chịu cái giá của sự mở rộng

thị trường quốc tế của Nhật. Họ phải mua hàng với giá cao ở trong nước để tài
trợ cho các doanh nghiệp bán phá giá ở nước ngoài, còn bản thân các chủ
doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận cao dù phải bán phá giá để chiếm thị
trường mới.
Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề.
Trong các trường hợp này không thể xem xét nguyên nhân hành động của các
hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác.
5. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá
Mỗi một hành động bán phá giá đều nhằm đạt được một số mục tiêu cụ
thể và có một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Chúng ta có thể phân
tích và tổng hợp thành một số nhóm nguyên nhân như sau:
5.1 Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá
gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn
sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá

-13-
giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu
vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng
400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá
500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra
thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá
này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như
vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá xuất
khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc dù
sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị
trường thế giới.
5.2 Do có các khoản tài trợ củ
a Chính phủ
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn nhất để

đạt đuợc sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách
tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích sau:
 Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
 Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố s
ản xuất như lao
động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được
cấp cho người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về
mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau vì đều đưa đến những
hệ quả tương tự
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu
đãi, sự
tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như hỗ trợ
xuất khẩu.
- Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ phát triển
sản xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp chiếm
một nửa toàn bộ khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp
cho từng ngành trong tổng số giúp
đỡ của Chính phủ có sự khác nhau
đáng kể giữa các nước. Như ở Anh, Ý, Hà Lan thì trợ cấp chiếm phần
lớn.

-14-
- Ưu đãi về thuế: Những ưu đãi về thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho một số ngành trong một số loại hoạt động riêng biệt. Chúng được
áp dụng rộng rãi ở nhiều nước, mặc dù ít khi được phản ánh trong các
chỉ tiêu của Chính phủ vì chúng là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất
chuẩn. Ở Anh, Bỉ, Đan Mạch, giá trị c
ủa chúng không lớn, còn ở Mỹ
thì tổng số ưu đãi về thuế cho công nghiệp lớn gấp 3 lần khối lượng
trợ cấp.

- Ưu đãi về tín dụng: Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay của
Chính phủ với điều kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị trường vốn.
ở các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế Châu Âu khoả
ng 14% tổng khối
lượng giúp đỡ cho công nghiệp được thực hiện dưới hình thức tín
dụng ưu đãi. Phần lớn khối lượng tín dụng của Chính phủ Nhật bản
cấp cho các hãng vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn ở lãi suất thị
trường vốn 0,5%.
Các Chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các khoản tín dụng, tức là
bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả nợ được. Phương pháp tài tr
ợ này
thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu để đảm bảo cho các công ty xuất
khẩu của nước mình. Theo đánh gái, quy mô của tài trợ này chiếm vào khoản
từ 2% đến 8% tổng tài trợ công nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển.
- Tham gia của Chính phủ vào chi phí kinh doanh: Sự tham gia của
Chính phủ vào chi phí kinhdoanh thường là 15% tổng tài trợ trở
xuống. Từ thập kỷ 80 đến nay, phần sở hữu Nhà nước trong hoạt
động kinh doanh có xu hướng giảm. Phương pháp này được sử dụng
để bù đắp những tổn thất trong những lĩnh vực kinh tế riêng đang suy
thoái.
Hiện nay, tài trợ công nghiệp vẫn được Chính phủ các nước phương Tây
duy trì ở mức khá cao. Trên thực tế, các khoản tài trợ giúp các ngành thực
hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp các ngành
mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển nh
ững ngành công nghiệp
mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu.

-15-
5.3 Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá
nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường

Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng thừa, các
chủ doanh nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình, châm lửa đốt, hoặc
đổ xuống biển để giữ giá, nhất định không bán phá giá. Còn hiện nay, ở các
nước kinh tế phát triển, gặp trường hợp này, nhà buôn có th
ể chọn một trong
hai giải pháp thường dùng. Trước hết là lưu kho chờ ngày giá lên. Nhưng lưu
kho đòi hỏi phải có chỗ chứa, và chỉ áp dụng được với những mặt hành không
bị hư hỏng. Giải pháp thứ hai là bán xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy nhất
đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng, máy vi tính đời
cũ, một số kiể
u giầy, quần áo hết mốt ... Nhiều cửa hàng lớn ở Pháp (Paris)
ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng lên tới 50% số dự trù bán ra.
Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng được mang bán với giá khuyến mãi thấp
hơn 30% giá bán thông thường. Đến cuối mùa, số hàng tụt xuống còn vài
phần trăm, được nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ bằng
1/10 giá cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài, chủ yếu là
sang Châu Phi, Châu Á và Đông Âu.
5.4 Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh
Các hãng nước ngoài sử dụng công cụ bán phá giá để loại bỏ các đối thủ
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của các nước nhập khẩu. Sau khi đã giành
được vị trí khống chế thị trường, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng hoá
nội địa thì các hãng nước ngoài sẽ thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là
tăng giá, tìm cách thao túng thị tr
ường để thu được lợi nhuận tối đa.
5.5 Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho
thiếu hụt này
Khi đó họ có thể áp dụng công cụ bán phá giá để giải quyết vấn đề thiếu
hụt ngoại tệ.
5.6 Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là
nhờ

sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của
tù nhân làm hàng xuất khẩu

-16-
Theo số liệu của Văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên
toàn thế giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5 - 14 tuổi đang tham gia một hoạt
động kinh tế. Còn theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) thì tại các
nước nghèo, cứ 4 trẻ em thì có một trẻ em làm việc như người lớn.
Việc sử dụng lao động trẻ em và sử dụng lao động tù nhân ngoài việc
mang lại siêu lợi nhuận, nó còn là cách
để cạnh tranh đối với các đối thủ làm
ăn. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất
khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài.
5.7 Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu
trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh
doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn
Để làm được việc đó, họ tìm cách bán phá giá trên thị tr
ường, có lúc bán
ồ ạt chịu lỗ từ 10 -20% so với giá vốn nhập khẩu để nhanh chóng thu hồi vốn,
đi buôn mặt hàng khác có lãi suất cao hơn, không những đủ bù lỗ số hàng
nhập trả chậm, mà còn có lãi lớn.
Năm 1995, ba mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá theo cách tính
toán trên là xăng dầu, thép xây dựng và phân bón. Cuối năm 1995, giá phân
Urê Indonesia nhập vào Việt nam đang ở mức cao (260-265USD/ tấn CIF
Cảng Sài gòn), nhưng giá bán buôn cả tàu tại Tân Quy, Nhà Bè, Thành phố
Hồ Chí Minh liên tụ
c giảm xuống chỉ còn 245đồng/kg.
Ngoài ra, hàng ngoại nhập lậu với khối lượng lớn trong những năm vừa
qua thu được lợi nhuận siêu ngạch từ việc trốn thuế nhập khẩu đã chiếm lĩnh
thị trường với giá cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, loại khỏi thị

trường các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể
xuất khẩu
hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm
chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều
có thể gán cho cái tên “bán phá giá” để áp dụng các biện pháp ngăn cản.
Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết

-17-
cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng
như của toàn xã hội.
6. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất
Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá giá là thuế theo tỷ lệ
phần trăm (ad-valorem), do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của
biện pháp này cũng giống như tác động của thuế
nhập khẩu thông thường theo
tỷ lệ phần trăm.Tác động đó được phân tích theo phương pháp “cân bằng từng
phần” như sau:










Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm
tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội

địa đối với sản phẩm đ
ó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1,
trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q’2, lượng hàng nhập
khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q’1 - Q’2. Như vậy có thể thấy rõ tác động
bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong
nước, giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản
xuấ
t trong nước được hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia
tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ giác ACJG.
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người
tiêu dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện
tích tứ giác ABHG.

B
S
F +
T

G
A
C
E
S
P

P1

Q
2


Q’
1

Q
1
P
2

T
S
F

Q’
2

H
N
M
J
D
Q

-18-
Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập
khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ.
Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại
cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại
về lợi ích của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của toàn xã hội bằng diện tích
tam giác CMJ cộng vớ
i diện tích tam giác NBH.

Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống phá giá như phân tích trên đây,
quá trình dẫn đến việc áp dụng thuế chống phá giá cũng phần nào có tác động
bảo hộ. Ví dụ, bản thân việc bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa
là trong tương lai rất có thể thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, làm cho sản
phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đố
i với các nhà nhập khẩu,
như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hàng hoá nhập khẩu.

II. GIỚI THIỆU HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO

Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một
nửa thế kỷ, những quy định của GATT về
thương mại đa biên, trong đó có
quy định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra
đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những quy định chặt chẽ
và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT. Theo Hiệp định này, nước
nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi:
 Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
 Gây
thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và
 Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc
xác định phá giá, cách tính biên độ phát giá và thủ tục điều tra phá giá như
sau:
1. Xác định việc bán phá giá
1.1 Định nghĩa phá giá

-19-
Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi:

 giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong
điều kiện thương mại thông thường ("giá trị thông thường")
 của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu
WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá khi sản phẩm tương tự
trong thị trường nội
địa của một nước.
Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính
gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra.
Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá
bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có
thể coi như là không nằm trong đ
iều kiện thương mại thông thường.
1.2 Nguyên tắc xác định phá giá:
Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu
(GXK)
BĐPG > 0 -> có bán phá giá
BĐPG có thể tính bằng giá trị tuyệt đối hoặc theo phần trăm công thức:
BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
1.3 Tính biên độ phá giá
 Cách tính GTTT:
Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- sản phẩm không được bán tại nước xuấ
t khẩu trong điều kiện thương
mại thông thường; hoặc
- có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc
- số lượng bán ra không đáng kể (<5% số lượng SPTT bán ở nước
nhập khẩu) thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý
chung...) + lợi nhuận


-20-
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào và do chính phủ ấn định) thì
các quy tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT.
 Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu
tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
- giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc
- theo một thoả thu
ận đền bù nào đó
thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người
mua độc lập ở nước nhập khẩu.
 So sánh GTTT và GXK:
Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định quy định
nguyên tắc so sánh như sau:
 So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất
xưởng/ bán buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;
 Tại cùng một thời
điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì
không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà
chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu
(GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ
SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên thường phải có một số đi
ều chỉnh để
có thể so sánh GTTT và GXK một cách công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:


 điều kiện bán hàng
 các loại thuế
 số lượng sản phẩm
 đặc tính vật lý của sản phẩm
 và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá.

-21-
Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập
khẩu làm GXK + thì GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau:
GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu
nhập khẩu đến khâu bán hàng)
Cách so sánh:

 Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc
 GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc
 Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch)
(cách này chỉ được áp dụng khi GXK+ chênh lệnh đáng kể giữa những
người mua, các vùng hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau)
Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước
trung gian (nước xuất khẩu):
 Giá SPTT
ở nước xuất khẩu (nước trung gian) so với giá bán
SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nếu SPTT chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua nước xuất khẩu:
 Giá ở nước xuất xứ so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu
sang nước nhập khẩu.
2. Xác định thiệt hại
2.1. Định nghĩa thi
ệt hại:

 Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt
hại hiện tại); hoặc
 Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất
trong nước (thiệt hại tương lai); hoặc
 Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có
quy định cụ thể)
Nh
ư vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
 Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách
đáng kể không?

-22-
 Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng
nhập khẩu đó:
 có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều
không?
 có làm sút giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước
nhập khẩu không?
Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước: đánh
giá gộp tác động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối l
ượng hàng nhập khẩu từ
mỗi nước >= 3% khối lượng nhập khẩu SPTT.
Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một
ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh
hưởng đến ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau:
 Năng suất
 Thị phần
 Biên
độ phá giá
 Giá nội địa ở nước nhập khẩu

 Suy giảm thực tế và nguy cơ giảm doanh số bán hàng
 Số lượng hàng tồn kho
 Sản lượng
 Tình trạng thất nghiệp
 Lương
 Tác động tiêu cực đến luồng tiền
 Huy động năng lực
 Lợi nhuận
 Tỷ lệ thu hồi vố
n đầu tư
 Đầu tư
 Khả năng huy động vốn
 Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt
hại cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác

-23-
(ngoài việc bán phá giá ), nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất
đó thì không được quy thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị
bán phá giá gây ra.
2.2. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem
xét:
 Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương
lai;

Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả
năng tăng nhập khẩu;
 Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
 Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu

3. Ngành sản xuất trong nước
Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất
ra SPTT
hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm tối đa số tổng sản
lượng trong nước
Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể
ngành sản xuất trong nước như sau:
 Nhà sản xuất và nhà nhập khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau:
ngành sản xuất trong nước là các nhà sản xuất còn lại.
 Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các
nhà sản xuất ở mỗi thị trường có thể coi là một ngành sản xuất
riêng nếu:
+
bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó;

+
nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác
là không đáng kể.
4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá

-24-
Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một số
sản phẩm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi:
 có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện
cho ngành sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá; hoặc
 không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong n
ước hoặc đại
diện cho ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản
xuất trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về
việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa hai yếu tố này.

Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
 Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tươ
ng tự do
người nộp đơn sản xuất trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho
ngành sản xuất trong nước thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà
sản xuất sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các
sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm
tương tự do các nhà sản xuất này sản xuấ
t;
 Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hoá,
tên nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài;
 Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản
xuất hoặc nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được
bán cho người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu;
 Số lượng nhập khẩu của s
ản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh
hưởng của việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị
trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng đối với ngành sản xuất trong
nước.
Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng
chứng nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều
tra chưa. Cơ quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định
được rằng đơn xin điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc
đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự, nghĩa là:

-25-
sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước
ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất
trong nước phản đối đơn; và
sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải

chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự
của ngành sản xuất trong
nước.
Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra
xác định được rằng:
biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc
số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn
3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự
ở nước nhập khẩu, trừ
trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới 3%,
nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm
trên 7% tổng sản phẩm nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập
khẩu.
Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ
trường hợp đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng
1 năm, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng.
5. Thu thập thông tin
Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến
cuộc điều tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên
quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lờ
i câu hỏi điều tra là 30 ngàyvà có thể
được gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết.
Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề
nghị điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu
và các bên quan tâm khi có yêu cầu.
Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện
cho các bên quan tâm bả
o vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi
đối nghịch để trao đổi quan điểm và đưa ra thoả thuận. Các bên quan tâm có
quyền trình bày các thông tin khác bằng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan

×