Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.21 KB, 61 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Quan hệ kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự
hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới, các xu hướng vận động của
quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, nhưng nổi bật trong giai đoạn hiện nay là hội
nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực. Quá trình hội nhập này chi
phối sự phát triển của tất cả các quốc gia, có thể tạo ra những tác động tích cực
cũng như gây ra tác động tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Là một khu vực có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng thì Châu Á - Thái
Bình Dương cũng không nằm ngoài xu hướng chung này. Trong mấy chục năm
qua, Châu Á - Thái Bình Dương đã nổi lên là một khu vực phát triển kinh tế
năng động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế và chính trị thế
giới. Từ nửa cuối những năm 1980 của thế kỷ XX, để duy trì tính năng hoạt động
kinh tế của khu vực, đối phó với sự canh tranh ngày càng cao về kinh tế trên thế
giới, một số nước Châu Á - Thái Bình Dương đã liên kết với nhau tạo ra nền
thương mại và đầu tư quốc tế thông thoáng. Trong bối cảnh đó, Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập vào tháng 11 năm
1989 tại Canberra (Australia).
Việt Nam đã là thành viên của APEC từ năm 1998, đã có nhiều cơ hội
thuận lợi và nhất là những bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế, nhưng cũng
phải đối diện với những khó khăn thách thức rất lớn khi tham gia APEC. Do vậy,
việc duy trì môi trường hoà bình ổn định và tăng cường hợp tác cùng có lợi với
các nước trong khu vực có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, APEC đã từng bước lớn mạnh và
đến nay đã có 21 thành viên với trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Đối với
APEC, Việt Nam đã và sẽ tiếp tục đưa ra các cam kết trong kế hoạch hành động
quốc gia hàng năm, đồng thời tham gia ngày càng sâu vào một số lĩnh vực của kế
hoạch hành động tập thể, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu chung của APEC.
1


Tuy nhiên, hiểu biết của người dân và nhất là của giới doanh nghiệp về Diễn đàn
này còn rất hạn chế, mặt khác xu thế liên kết ở nhiều tầng nấc với nhiều hình
thức mức độ khác nhau đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Điều này đòi hỏi
một nước đang phát triển như Việt Nam phải đẩy mạnh công cuộc cải cách và
phát triển về kinh tế, để tận dụng được sức mạnh của các nhân tố bên ngoài, kết
hợp với các tiềm lực bên trong, trong quá trình hợp tác kinh tế - thương mại với
các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là với các nước thành viên
APEC.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế” và đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung
“Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” đã thể hiện chiến lược phát triển
hướng ngoại của Việt Nam theo đường lối đổi mới đối ngoại độc lập, tự chủ theo
tinh thần Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới” phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Xuất phát từ vị
trí và tầm quan trọng của APEC, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Diễn đàn luôn là
công việc cần thiết và bổ ích. Vì vậy nhóm chúng tôi đã thực hiện đề tài “Quan
hệ kinh tế giữa Việt Nam và APEC” để làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài hướng tới nghiên cứu khái quát về sự hình thành, phát triển của tổ
chức APEC và quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với APEC và cuối cùng
đưa ra những phương hướng hoạt động sắp tới của tổ chức này cũng như giữa
Việt Nam và APEC.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nghiên cứu
Làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của mối quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và APEC. Hiểu hơn nữa về Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương, thấy được thực trạng kinh tế nước nhà, giúp chúng ta có một cái
nhìn đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế và tiến trình hội nhập APEC. Tiểu
luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động qua lại của
quá trình hội nhập APEC, nhằm đẩy mạnh phát triển mối quan hệ hợp tác này,
đưa đất nước phát triển.

2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ DIỄN ĐÀN HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á-
THÁI BÌNH DƯƠNG (APEC)
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) là một diễn
đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu
tư giữa các nền kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện trong khi thực
sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác
1. Lịch sử hình thành APEC.
1.1. Bối cảnh ra đời chung.
- Kinh tế toàn cầu: Sự gia tăng của quá trình toàn cầu hoá trên tất cả các
lĩnh vực khiến các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng tính phụ thuộc vào nhau.
Trong khi đó, vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ GATT có nguy cơ
không đạt được kết quả như mong đợi, đã thúc đẩy thêm quá trình khu vực hoá
với sự hình thành các khối mậu dịch khu vực lớn trên thế giới như EU, NAFTA,
AFTA
- Kinh tế khu vực: Khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Á là những nền kinh
tế năng động trên thế giới vào những năm 1980 có tốc độ tăng trưởng trung bình
là 9-10%/năm. Mặc dù vậy, chưa có hình thức hợp tác kinh tế thương mại có
hiệu quả trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để thúc đẩy sự phát triển kinh
tế.
- Chính trị: Sự điều chỉnh chiến lược của các quốc gia lớn vào cuối những
năm 80 khi chiến tranh lạnh chấm dứt, đặc biệt là sự hội tụ về lợi ích kinh tế
cũng như chính trị giữa những nước lớn dẫn tới việc hình thành một cơ cấu kinh
tế thương mại trong khu vực.
- Các nước đang phát triển (ASEAN) cũng muốn tăng cường tiếng nói
trong khu vực để thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng không muốn làm lu
mờ những cơ chế hợp tác chính trị sẵn có.
Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng

như sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu
3
khách quan, cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực
nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến
khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác kinh tế, khoa
học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương, qua đó duy trì
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực
châu Á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.
1.2. Sáng kiến của Ô-xtrây-lia về việc thành lập APEC.
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một
số học giả người Nhật đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật là Kojima và
Kurimoto đã đề nghị thành lập một Khu vực Mậu dịch tự do Thái Bình Dương
mà thành viên gồm 5 nước công nghiệp phát triển, mở cửa cho một số thành viên
liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng chảo Thái Bình Dương tham
gia. Năm 1980: Một số nước đã nỗ lực (đặc biệt là Nhật và Austraulia) thành lập
Hội đồng Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC).
Cuối những năm 1980: Một số quan chức của chính phủ Nhật Bản, đặc biệt
là Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp (MiTi) là ông Hajime Tamuara đã gợi
ý thành lập một diễn đàn hợp tác về kinh tế trong khu vực. Tháng 1-1989: Tại
Seoul (Hàn Quốc), Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một
Diễn đàn Tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á – Thái Bình Dương với mục
đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở
khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương.
Tháng 11-1989: Các Bộ trưởng ngoại giao và kinh tế của các nước Nhật
Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippine, Singapore, Bruney, Indonesia,
New Zealand, Austraulia, Canada và Mỹ đã họp ở Canberra (Austraulia) quyết
định chính thức thành lập APEC.
APEC bao gồm cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới:
khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mỹ (Mỹ, Canada và Mehico) với những nét đặc
thù và vô cùng đa dạng về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ trong 10 năm

đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế thành viên APEC đã đóng góp gần 70%
cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu.APEC cũng có các quốc gia
có chủ quyền, cũng có các thành viên là các thực thể kinh tế như: Hongkong,
4
Đài Bắc - Trung Quốc, nên người ta chỉ gọi là các nền kinh tế thành viên, chứ
không gọi là các nước thành viên APEC.
1.3. Quá trình kết nạp thành viên của APEC.
Hiện nay, APEC có 21 thành viên chiếm khoảng 52% diện tích lãnh thổ,
59% dân số, 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới và đóng góp khoảng
55% GDP toàn cầu và gần 43 % thương mại thế giới. Hiện tại APEC đã quyết
định ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức.
Khi mới bắt đầu thành lập năm 1989, APEC có 12 sáng lập viên là
Australia, Brunei Darussalam, Canada, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, New
Zealand, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan và Mỹ. Tháng 11/1991
APEC kết nạp thêm 3 thành viên nữa là Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan.
Mexico và Papua New Guinea gia nhập 11/1993 và Chi Lê tham gia tháng
11/1994. Tháng 11/1998, Peru, Nga và Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của APEC.
2. Các giai đoạn phát triển của APEC.
Từ khi thành lập (1989) đến nay, APEC luôn luôn củng cố và phát triển về
nội dung hoạt động của mình, có thể chia làm các giai đoạn sau:
2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993).
APEC tập trung xây dựng khuôn khổ ban đầu cho hợp tác kinh tế, xác định
dần các lĩnh vực cần đưa ra hợp tác ở cấp khu vực và thành lập các uỷ ban, nhóm
chuyên gia, nhóm công tác. Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở Canberra
1989 mới chỉ đưa ra 2 lĩnh vực hoạt động, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai ở
Singapore 1990 đã đưa ra 7 lĩnh vực hợp tác, Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ
ba 1991 tại Seoul (Hàn Quốc) đã bổ sung thêm 3 lĩnh vực hoạt động. Tại hội
nghị này, tự do hoá mậu dịch và thương mại là một nội dung quan trọng, đề xuất
việc tham khảo nguyên tắc của GATT để thúc đẩy tự do hoá, đồng thời cũng

nhấn mạnh tính quan trọng của việc mở cửa phát triển kinh tế, hợp tác khoa học -
kỹ thuật.
2.2. Giai đoạn từ 1993 – 1998.
Chú trọng vào tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư với việc xây
dựng các văn kiện nền tảng. Tại hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo kinh
5
tế APEC (AELM) lần đầu tiên tại Xiatơn (Mỹ) tháng 11/1993 đã đề ra viễn cảnh:
“Tinh thần cộng đồng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương” làm thay đổi căn
bản cơ cấu tổ chức của APEC, hình thành cơ cấu quyết sách ba tầng: Hội nghị
quan chức cao cấp, Hội nghị Bộ trưởng, Hội nghị cấp cao. Những quyết định
quan trọng phải được Hội nghị cấp cao quyết định.
Hội nghị cấp cao lần thứ 2 ở Bogor (Indonesia) tháng 11 năm 1994 đã có
cống hiến quan trọng cho việc thúc đẩy APEC phát triển theo chiều sâu, cụ thể
hoá kế hoạch đưa ra tại hội nghị Xiatơn. “Tuyên bố Bogor” đưa ra thời gian biểu
thực hiện tự do hoá mậu dịch và đầu tư khu vực châu á - Thái Bình Dương đối
với các thành viên phát triển không muộn hơn năm 2010, các thành viên đang
phát triển không muộn hơn năm 2020.
Hội nghị cấp cao lần thứ 3 tại Osaka - Nhật Bản năm 1995 đã thông qua
“chương trình hành động Osaka” với ba nội dung chính: tự do hoá thượng mại
và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại Manila - Philippin tháng 11 năm 1996 với
chủ đề chính: “Từ tầm nhìn đến hành động”đã thông qua kế hoạch hành động
quốc gia (IAP) và kế hoạch hành động tập thể (CAP).
Hội nghị cấp cao lần thứ 5 tại Vacuvơ (Canada) tháng 11 năm 1997 xác
định chủ đề chính: “Kết nối cộng đồng APEC” xây dựng “Tầm nhìn thế kỷ XXI”
khẳng định những mối liên kết hiện nay cũng như trong tương lai giữa các thành
viên và cam kết hợp tác trong ba lĩnh vực trụ cột: tự do hoá; thuận lợi hoá; hợp
tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại Kualalumpua (Malaysia) tháng 11 năm 1998
với chủ đề chính: “Tăng cường nền tảng cho phát triển”. Các nhà lãnh đạo cùng

bàn thảo về các biện pháp ngắn và dài hạn để sớm phục hồi và phát triển các nền
kinh tế trong khu vực.
2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay.
Các hoạt động của APEC chuyển hướng sang các hoạt động thuận lợi hoá
thương mại và hợp tác kinh tế - kỹ thuật. Bên cạnh đó, cũng chú trọng tới một số
nội dung khác tác động sâu sắc tới môi trường kinh tế, an ninh trong khu vực,
6
tăng cường các hoạt động cải thiện hình ảnh của Diễn đàn trên trường quốc tế
cũng như tăng cường sự hiểu biết và hỗ trợ của các tầng lớp xã hội.
Hội nghị cấp cao lần thứ 7 tại Ocklân (Niu Zealand) tháng 9 năm 1999 với
chủ đề chính: “Thách thức Ocklân” tán thành bắt đầu vòng đàm phán mới của
WTO và thông qua các nguyên tắc chính sách cạnh tranh, chuẩn bị xây dựng các
tiêu chuẩn về Ngân hàng.
Hội nghị cấp cao lần thứ 8 tại Bandaxeri Bêgaoan (Brunây) tháng 11 năm
2000 với chủ đề chính: “Mang lại lợi ích cho cộng đồng” nhấn mạnh ba trọng
tâm là phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin.
Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 10 năm
2001 xác định chủ đề chính: “`Đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ
mới” thông qua “Thoả thuận Thượng Hải”tập trung vào việc mở rộng viễn cảnh
APEC. Đưa ra tuyên bố chống khủng bố đầu tiên của các nhà lãnh đạo APEC.
Hội nghị cấp cao lần thứ 10 tại Lôtcabôt (Mêxico) tháng 10 năm 2002 với
chủ đề chính: “Thực hiện tầm nhìn APEC về thương mại, đầu tư mở và tự do”.
Tuyên bố chống khủng bố thứ hai được đưa ra cùng với việc thông qua sáng kiến
về an ninh thương mại trong khu vực.
Hội nghị cấp cao lần thứ 11 tại Băng Kốc (Thái Lan) tháng 10 năm 2003
xác định chủ đề chính: “Thế giới của những khác biệt” “Đối tác vì tương lai”
thông qua tiêu chuẩn minh bạch hoá trong tám lĩnh vực cụ thể gồm: dịch vụ, đầu
tư, luật và chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, sở hữu trí tuệ, thủ tục
hải quan, tiếp cận thị trường, đi lại của doanh nhân.
Hội nghị cấp cao lần thứ 12 tại Xantiago (Chilê) tháng 11/2004 chủ đề

chính: “Một cộng đồng - tương lai của chúng ta” khẳng định quyết tâm trong
việc thúc đẩy sự thịnh vượng và tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế thành
viên.
Hội nghị cấp cao lần thứ 13 tại Busan (Hàn Quốc) năm 2005 xác định chủ
đề chính: “Hướng tới một cộng đồng: đối mặt với thách thức, tạo ra sự thay
đổi”.
Hội nghị cấp cao lần thứ 14 tại Hà Nội (Việt Nam) năm 2006 với chủ đề:
“Hướng tới cộng đồng APEC năng động vì ổn định và phát triển” thể hiện mục
7
tiêu trước mắt của APEC là “Năng động, ổn định và phát triển” vừa bao hàm tầm
nhìn của APEC trong tương lai là “Hướng tới một cộng đồng”. Tại hội nghị này,
các ưu tiên đã được APEC 2006 thông qua: Tăng cường và thúc đẩy hợp tác
thương mại, đầu tư, phát triển bền vững; an ninh con người; phòng chống dịch
cúm gia cầm; phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ; cải cách APEC; chống tham nhũng; liên kết giữa các
thành viên APEC thông qua du lịch và văn hoá. Có thể nói, các ưu tiên hợp tác
của APEC thể hiện trên nhiều lĩnh vực theo tôn chỉ mục đích của APEC, thúc
đẩy thịnh vượng và phát triển trong khu vực vì lợi ích và an ninh của người dân
và doanh nghiệp.
Chủ trì năm APEC 2006 và tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ
14 là vinh dự của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong
APEC, trên trường quốc tế.
Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 15 sẽ được tổ chức tại Australia.
Như vậy, qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, từ một Diễn đàn tư vấn
kinh tế với cơ chế hoạt động lỏng lẻo, APEC đã từng bước lớn mạnh và đến nay
đã có 21 thành viên. Nội dung hoạt động trong từng năm APEC đều được cụ thể
hoá và được thực hiện, trong đó có tính đến sự khác biệt về trình độ giữa các
nước thành viên. APEC đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
3. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC.

3.1. Mục tiêu.
Năm 1989, các thành viên sáng lập APEC xây dựng 3 mục tiêu:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Phát triển và củng cố hệ thống thương mại đa phương.
- Tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và thịnh vượng của các nền kinh tế
thành viên.
Tầm nhìn APEC được xác định rõ hơn vào năm 1994, khi các nhà lãnh đạo
APEC cam kết thực hiện “Các mục tiêu Bogor” về thương mại mở và tự do
trong khu vực. Mục tiêu dài hạn được nêu rõ trong tuyên bố Bogor 1994
“Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực châu Á - Thái Bình
8
Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và 2020 đối với thành
viên APEC đang phát triển” được thực hiện dựa trên 3 trụ cột: Tự do hoá thương
mại và đầu tư, thuận lợi hoá kinh doanh, hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
* Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và dần dần dẫn đến loại bỏ
hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại, đầu tư. Các nền kinh
tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các IAP, theo đó các quốc gia sẽ đưa
ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá thuế quan, phi thuế quan, dịch
vụ và đầu tư phù hợp với nguyên tắc của WTO, giúp các nền kinh tế thành viên
củng cố nền kinh tế của mình, thông qua việc chia sẻ ý kiến và mang lại nhiều lợi
ích cho hoạt động hợp tác kinh tế trong APEC.
* Thuận lợi hoá kinh doanh
Một trong những mục tiêu chính của APEC chính là việc tạo thuận lợi tối
đa cho sự phát triển thương mại của các nền kinh tế thành viên. Kể từ khi thành
lập APEC luôn nỗ lực, tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đặt ra các mục
tiêu cụ thể, nhất là có chương trình hỗ trợ xây dựng năng lực cho các nền kinh tế
đang phát triển. Thuận lợi hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao
dịch trong kinh doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại, làm
cho thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh thương mại thế giới ngày càng gia tăng, thuế quan giảm dần
và công nghệ phát triển, thuận lợi hoá thương mại càng trở lên quan trọng, đồng
thời lợi ích tiềm tàng của nó cũng không ngừng tăng theo. APEC đã xây dựng bộ
nguyên tắc thuận lợi hóa thương mại và kế hoạch hành động thuận lợi hoá
thương mại (TFAP), đưa ra các biện pháp cụ thể giảm chi phí giao dịch và đơn
giản hoá các quy định hành chính và thủ tục theo một thời gian biểu nhất định,
bảo đảm việc thực hiện của các thành viên.
* Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
Chương trình ECOTECH được thực hiện dưới dạng các dự án, chương trình
hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể, bao gồm đào tạo và các hoạt động hợp tác khác,
nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các nền kinh tế
9
thành viên, tạo điều kiện để các thành viên tận dụng thương mại toàn cầu và nền
kinh tế mới, đảm bảo cân bằng và phát triển bền vững.
3.2. Nguyên tắc hoạt động của APEC.
Sau hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, dựa trên những nguyên tắc cơ bản
của Luật Quốc tế, các nước thành viên APEC đã từng bước xây dựng và cùng
khẳng định những nguyên tắc, tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho quan hệ trong nội
bộ các nước thành viên và giữa các nước này với các nước khác trong và ngoài
khu vực, bao gồm:
* Các nguyên tắc chủ đạo
Các hoạt động trong khuôn khổ APEC được điều tiết bởi những nguyên tắc
chung, áp dụng cho tất cả các thành viên, Tuyên bố Bogor đề ra bốn nguyên tắc
chủ đạo:
- Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
- Hỗ trợ và hai bên cùng có lợi.
- Quan hệ đối tác chân thành và theo tinh thần xây dựng.
- Mọi quyết định đưa ra trên cơ sở nhất trí chung.
* Các nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc chủ đạo trên đã được chi tiết hóa thành 9 nguyên tắc cơ bản

trong chương trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư:
- Nguyên tắc toàn diện (Comprehensiveness): Thực hiện tự do hóa và thuận
lợi hóa toàn diện ở tất cả các lĩnh vực, nhằm tháo gỡ những cản trở trong quá
trình thực hiện mục tiêu lâu dài của APEC nêu trong tuyên bố Bogor năm 1994.
- Nguyên tắc phù hợp với GATT/WTO (GATT/WTO Consistency):
Là một Diễn đàn kinh tế mở, các biện pháp và chương trình hành động áp
dụng thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư phải
phù hợp với quy tắc, luật lệ, thoả thuận trong khuôn khổ WTO.
- Nguyên tắc đảm bảo mối tương đồng (Comparability):
Các nền kinh tế thành viên phải đảm bảo tính tương đồng trong việc thực
hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, trên cơ sở xem xét thích đáng
mức độ tự do hóa và thuận lợi hoá đã đạt được ở mỗi thành viên trong tiến trình này.
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử (Non - Discrimination):
10
Các thành viên sẽ áp dụng hoặc cố gắng áp dụng nguyên tắc không phân
biệt đối xử giữa các thành viên và các quốc gia không phải là thành viên. Kết quả
thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư không những áp dụng
cho tất cả các nước thành viên mà còn áp dụng cho các quốc gia không phải là
thành viên.
- Nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch (Transparency):
Mọi chính sách, pháp luật hiện hành tại các thành viên phải được công khai
minh bạch hoá, phải đảm bảo tính trong sáng của các chính sách, pháp luật này.
- Nguyên tắc lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc (Standstill):
Chỉ tiến hành giảm không tăng thêm các biện pháp bảo hộ. Theo nguyên tắc
này, các thành viên luôn phải tuân thủ mức bảo hộ đã được thoả thuận hiện tại,
không tăng các biện pháp bảo hộ, đảm bảo sự công bằng trong đối xử giữa các
thành viên.
- Nguyên tắc vận dụng linh hoạt (Flexibility):
Trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tiến trình tự do hoá thương
mại và đầu tư, không thể áp dụng một cách cứng nhắc. Do trình độ phát triển

kinh tế không đồng đều của các thành viên, có sự ưu tiên và hỗ trợ năng lực đối
với các nước đang phát triển.
Như vậy, để các nền kinh tế thành viên phát triển thịnh vượng nói riêng và
cũng để tồn tại và phát triển bền vững của APEC, đòi hỏi các thành viên phải
cùng nhau nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu chung và thực hiện theo những nguyên
tắc đã được xác định. Thắt chặt hơn nữa mối liên hệ, tình đoàn kết giữa các thành
viên, để bảo đảm ổn định khu vực và phát triển kinh tế.
3.3. Hoạt động của APEC.
Như đã nêu trên tổ chức APEC hoạt động dựa trên 3 trụ cột chính:
-Tự do hoá thương mại và đầu tư
-Thuận lợi hoá kinh doanh
- Hợp tác kinh tế kỹ thuật
Được đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần 4, họp tại Manila,
Philippines, vào tháng 11/1996, Chương trình hành động Manila gồm 3 phần
chính:
11
• Kế hoạch hành động riêng của mỗi nước hội viên (IAPs). Tất cả các nước
APEC phải chuẩn bị và cập nhật thông tin cuả các Kế hoạch hành động riêng
của mình.
Ở hội nghị Manila này 18 nước hội viên của APEC đã đệ trình và công khai
hóa tiến trình thực hiện cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan của nước mình,
để thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư từ ngày 1.1.1997 đến năm
2010 hoặc năm 2020 (tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi nước). Mỗi kế hoạch
hành động riêng của mỗi nước hội viên bao gồm 15 lĩnh vực theo chương trình
hành động Osaka. Các chương trình thuộc những lĩnh vực sau:
+Thuế quan: liên tục giảm thuế, làm rõ. Công khai hoá chính sách thuế của
nước mình.
+Phi thuế quan: liên tục giảm hàng rào phi thuế quan; làm rõ, công khai hoá
chính sách phi thuế quan của nước mình.
+ Dịch vụ: liên tục giảm những hạn chế để mở cửa cho thương mại dịch vụ;

Đặc biệt là 4 lĩnh vực: viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng, dịch vụ.
+ Đầu tư: thực hiện tự do hoá chế độ đầu tư dành cho nhau ưu đãi tối huệ
quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia, tạo thuận lợi cho đầu tư.
+ Thống nhất tiêu chuẩn hoá và đánh giá sự phù hợp.
+ Thống nhất thủ tục Hải quan.
+ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
+ Chính sách cạnh tranh công bằng.
+ Công khai hoá kế hoạch thu chi của Chính phủ.
+ Nới lỏng cơ chế quản lý thương mại quốc tế.
+ Xây dựng quy chế xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu.
+ Ban hành cơ chế hoà giải tranh chấp giữa các nước APEC.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh thương mại cuả các nước APEC.
+ Thực hiện những kết quả cuả vòng đàm phán Uruguay (vòng đàm phán
WTO).
+ Thu thập và xử lý thông tin của các nước.
12
Trong các Kế hoạch hành động riêng của mỗi thành viên cần nêu rõ thực
trạng, những rào cản trong từng lĩnh vực, các biện pháp để tự do hoá thương mại
và đầu tư, cùng lộ trình thực hiện.
• Kế hoạch hành động tập thể (CAPs)
Nội dung của kế hoạch này là các nước thành viên thuộc APEC cùng tiến
hành những biện pháp nhằm loại bỏ những trở ngại cho quá trình tự do hóa
thương mại và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh giảm chi
phí khi hoạt động trên thị trường APEC. Có nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện
kế hoạch hành động này. Những biện pháp sau đây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động thương mại và đầu tư.
Thực hiện sự thống nhất và vi tính hóa hệ thống hải quan của các nước
APEC.
Tăng cường áp dụng chế độ tối huệ quốc MFN, GSP khi buôn bán giữa các
nước hội viên.

+ Giảm dần và tiến tới hủy bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu.
+ Hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu, cũng như các biện pháp hạn chế
thương mại bất hợp lý. Gây áp lực với các nước hội viên không đưa ra những
biện pháp phi thuế mới cản trở tự do hóa thương mại.
+ Công khai các chế độ, quy định về đầu tư. Xuất bản sách "Hướng dẫn chế
độ đầu tư APEC" Thực hiện tiêu chuẩn hóa chất lượng quản trị cho phù hợp với
ISO.
+ Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
+ Thống nhất chính sách cạnh tranh bình đẳng.
+ Thuận lợi hóa việc đi lại và giao lưu của doanh nhân
• Các hoạt động hợp tác kinh tế - kỹ thuật
Gồm các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực trên cơ
sở tự nguyện, cùng có lợi.
Trong APEC, các hoạt động hợp tác kinh tế - kỹ thuật được viết tắt là “
Ecotech”. Tại hội nghị Manila năm 1996, các nhà lãnh đạo cuả các nước thành
viên APEC đã thống nhất về 6 khu vực ưu tiên hoạt động trong Ecotech:
+ Phát triển nguồn vốn kinh doanh
13
+ Tạo điều kiện an toàn và phát triển một thị trường vốn hiệu quả;
+ Củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng;
+ Trang bị những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tương lai;
+ Khuyến khích phát triển môi trường cạnh tranh;
+ Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, APEC đang phát triển 250 hoạt động cuả Ecotech.
4. Cơ cấu tổ chức của APEC.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của APEC.
Nguồn: www.mofahcm.gov.vn
4.1. Cấp chính sách .
Phát triển chính sách: Định hướng chính sách của APEC được đưa ra bởi 21
lãnh đạo kinh tế thành viên. Chiến lược này được đề xuất bởi các Hội đồng

tư vấn kinh tế APEC và được xem xét bởi các lãnh đạo kinh tế của APEC.
Những hội nghị này được tổ chức thường niên nhằm hoàn thiện cơ cấu chính
sách và pháp luật của APEC.
• Hội nghị các lãnh đạo kinh tế APEC: Được tổ chức hàng năm do mỗi
thành viên của APEC luân phiên đăng cai tổ chức. Các tuyên bố từ những hội
nghị này sẽ góp phần hoàn thiện kế hoạch chính sách cho APEC.
• Hội nghị Bộ trưởng APEC: Được tổ chức hàng năm trước Hội nghị các
nhà lãnh đạo kinh tế. Các Bộ trưởng xem xét những hoạt động trong năm và đưa
ra những đề nghị cho các lãnh đạo kinh tế xem xét.
14
• Hội nghị Bộ trưởng cấp khu vực : Được tổ chức hàng năm tập trung vào
nhiều lĩnh vực như: giáo dục, năng lượng, môi trường và sự phát triển bền vững,
tài chính, hợp tác khoa học kỹ thuật khu vực, phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ, công nghiệp truyền thống và công nghệ thông tin, du lịch, thương mại, vận
tải và vấn đề bình đẳng giới. Những đề xuất từ những hội nghị này đều được các
lãnh đạo kinh tế APEC xem xét.
• Hội đồng tư vấn kinh tế APEC: đề xuất cho các lãnh đạo kinh tế APEC
những vấn đề của APEC và những dự đoán về tình hình kinh tế thế giới qua một
bản báo cáo chính thức. Ngoài ra, trong các báo cáo này còn có những đề xuất để
cải thiện tình hình thương mại và đầu tư khu vực. Hội đồng tư vấn họp 4 năm
một lần và sẽ cử đại diện để tham gia Hội nghị Bộ trưởng.
4.2. Cấp làm việc.
• Ủy ban thương mại và đầu tư:
Ủy ban thương mại và đầu tư ( CTI ) được thành lập năm 1993 trên cơ sở
tuyên bố về “ Khuôn khổ về hợp tác và đầu tư ” của Hội nghị Bộ trưởng. Ủy ban
thương mại và đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác kinh tế về tự do hóa thương
mại và tạo môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên
• Uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế -kỹ thuật ( ESC )
Được thành lập năm 1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị quan chức cao cấp ( SOM )
trong các hoạt động hỗ trợ hợp tác kinh tế và kỹ thuật ( ECOTECH ) và triển

khai các sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên
APEC. Mới đầu đây chỉ là tiểu ban về ECOTECH, năm 2002 đổi thành Uỷ ban
SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật ESC. Bằng việc hợp tác và xác định những
lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác ECOTECH, uỷ ban SOM về hợp tác
kinh tế kỹ thuật cùng với các diễn đàn khác trong APEC giữ vai trò quan trọng
trong việc thực hiện tăng trưởng và phát triển bền vững APEC.
• Uỷ ban Kinh tế
Uỷ ban Kinh tế (EC) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ
sáu tháng 11 năm 1994 để thực hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn đề
kinh tế thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Uỷ ban Kinh tế là một diễn đàn thúc
đẩy đối thoại giữa các nền kinh tế thành viên về các vấn đề kinh tế, dự báo, xu
15
hướng kinh tế trong khu vực để tạo ra một khung cảnh rộng hơn cho sự hợp tác
trong APEC. Hoạt động của Uỷ ban đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho việc
soạn thảo chính sách trong các diễn đàn khác của APEC.
Hiện nay, Uỷ ban Kinh tế đang xúc tiến nghiên cứu một số vấn đề kinh tế
và hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm triển vọng kinh tế khu vực hàng năm và vai
trò của các thể chế tài chính; thuận lợi và khó khăn cũng như lợi ích của việc cơ
cấu lại nền kinh tế; các vấn đề liên quan đến Kinh tế mới và Kinh tế tri thức; và
một số chương trình hỗ trợ quá trình Tự do hoá, Thuận lợi hóa Thương mại và
Đầu tư trong APEC.
• Uỷ ban Ngân sách và Quản lý
Uỷ ban Ngân sách và Quản lý (BMC) được thành lập năm 1993, có chức
năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý
và điều hành. Uỷ ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách
hàng năm và xem xét các ngân sách hoạt động do các Nhóm công tác, các Uỷ
ban đưa ra, và ngân sách hành chính do Ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có quyền
đánh giá về hoạt động của các Nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức
cao cấp APEC về các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả; xem xét các khoản chi
tiêu của Nhóm công tác và dự án của các Nhóm đặc trách. Uỷ ban Ngân sách và

Quản lý họp mỗi năm hai lần thường vào cuối tháng ba và tháng bảy.
• Các Nhóm công tác .
Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo,
Bộ trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11
Nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp, Năng
lượng, Nghề cá, Phát triển Nguồn nhân lực, Khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài
nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và Viễn thông, Du lịch, Xúc
tiến thương mại, Vận tải. Phần lớn hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm
năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ
trách. Thông qua các hoạt động này, các thành viên APEC xây dựng những mối
liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và các
Nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là những
16
diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các
lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các chương trình
hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội nghị Bộ trưởng
đưa ra các quyết định liên quan đến phương hướng hoạt động của APEC.
• Các Nhóm đặc trách của SOM .
Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập
ra ba Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị
về những lĩnh vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC.
Hiện đang có ba Nhóm đặc trách của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các
điểm liên hệ về giới (Gender Focal-Points Network), Nhóm chỉ đạo về thương
mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về Chống
khủng bố (Counter-Terroism Task Force).
• Ban Thư ký APEC.
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Băng Cốc năm 1992 nhận thấy cần
phải có một cơ chế giúp việc hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong
APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác

kinh tế khu vực, đã nhất trí thành lập Ban Thư ký APEC, đặt trụ sở tại Xinh-ga-
po, và lập một quỹ chung của APEC.
Ban Thư ký APEC đứng đầu là một Giám đốc Điều hành, do nước giữ ghế
Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do nước
sẽ giữ chức Chủ tịch APEC vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức của
Chính phủ mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban Thư ký APEC hiện có khoảng 20
Giám đốc chương trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên
chuyên nghiệp (cũng được biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên
phục vụ.
Ban Thư ký làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp
và có quan hệ thông tin trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Uỷ ban,
các Nhóm công tác và các Nhóm đặc trách .
• Tài chính
Hội nghị bộ trưởng APEC lần thứ 4 năm 1992 quyết định thành lập ban thư
ký APEC và quỹ tài chính chung do các thành viên đóng góp . Mức đóng góp
17
căn cứ trên GNP của từng nền kinh tế thành viên và bình quân GNP/ Người
trong ba năm gần nhất. Hiện trong APEC có bốn mức đóng góp, và đứng đầu là
Mỹ , Nhật
Quỹ đặc biệt để thúc đẩy tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư
trong APEC, quỹ này do Nhật đóng góp, Nhật cam kết sẽ đóng góp 10 tỷ yên để
hỗ trợ cho việc thúc đẩy tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu tư.
• Quan sát viên: APEC có ba quan sát viên là Ban thư ký Asean, Hội đồng
hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và diễn đàn đảo Thái Bình
Dương(PIF) và không có quy chế quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh
thổ riêng biệt, quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp bộ trưởng trở
xuống vào các hoạt động của APEC.

18
CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA VIỆT NAM

VÀ CÁC NƯỚC APEC
1. Sự cần thiết hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và APEC.
1.1. Nhu cầu phá thế bị bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị.
APEC ra đời vào thời điểm quan hệ giữa Việt Nam với các nước tham gia
sáng lập diễn biến phức tạp, phần lớn các thành viên APEC đều là nước thân Mỹ,
đồng minh với Mỹ và đã ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh với Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 1989 – 1995, thực hiện chủ trương của Đảng về mở rộng
quan hệ đối ngoại với tất cả các nước, hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt động
đối ngoại Việt Nam tập trung giải quyết các trở ngại, mặc cảm trong quan hệ với
các nước láng giềng, khu vực, trong đó lưu ý đặc biệt tới các nước lớn, có quan
hệ phức tạp với Việt Nam trong lịch sử như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, các
nước ASEAN, nhất là đối với Mỹ. Mỹ là một nước lớn thành viên của APEC,
nên trong quan hệ này phải làm cho phía Mỹ nhận rõ việc bình thường hoá quan
hệ Việt - Mỹ là phù hợp với lợi ích của hai nước, khu vực và lợi ích quốc tế. Và
ngày 03/02/1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
Trong phát triển kinh tế đối ngoại, hai vấn đề kinh tế và chính trị quốc tế có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông thường, mối quan hệ chính trị - ngoại
giao mở đường và thúc đẩy mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển. Ngược
lại, mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển sẽ có tác dụng củng cố, tăng
cường mối quan hệ chính trị quốc tế. Vì thế, cần phải xử lý tốt mối quan hệ giữa
kinh tế với chính trị quốc tế, trên cơ sở đó xác định sự cân bằng lợi ích giữa các
bên theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; thấy được hoạt động kinh tế đối
ngoại phụ thuộc vào yếu tố chính trị quốc tế, vào lợi ích của các nước đối tác và
chính sách đối ngoại phải phù hợp với xu thế của thời đại, hội nhập được với các
quốc gia thay vì trở thành đối tượng chống đối của các quốc gia.
Vấn đề quyết định nhất đối với sự phát triển của Việt Nam trong năm sắp
tới đó là phải có tư duy mới về phát triển, nhận diện đúng các chiều hướng thay
đổi của quốc tế và khu vực, hành động quyết đoán theo nguyên tắc hợp thông lệ
quốc tế cũng như đặc thù phát triển của đất nước.
19

Để tránh bị bao vây kinh tế, cô lập về chính trị, thì việc mở rộng quan hệ
đối ngoại, nâng cao uy tín và vị trí của Việt Nam là hết sức quan trọng. Để tạo
môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải
tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
tranh thủ tối đa mặt tương đồng, hạn chế mặt bất đồng trong quan hệ với các
nước, phải thấy rõ khó khăn và thách thức cũng như thuận lợi và cơ hội, theo dõi
sự diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, để có chủ trương thích hợp, giữ
vững nguyên tắc năng động, linh hoạt. Đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng
thương lượng hoà bình; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là cao nhất, xác định đúng
đối tác, đối tượng, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược, ưu tiên cho
việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng, tránh bị rơi vào thế đối đầu, bị cô
lập hay lệ thuộc.
Việc tăng cường hợp tác song phương và đa phương sẽ tạo nên sự đan xen
quyền lợi, sự phụ thuộc về lợi ích kinh tế giữa các nước với nhau và giữa các
nước với Việt Nam. Là một nước nằm trong khu vực Thái Bình Dương, thành
viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thành viên sáng lập tiến trình hợp tác
Á - Âu (ASEM), Việt Nam đã chủ động tham gia APEC, đây là bước đi tiếp theo
hết sức quan trọng, tạo hình thái không phụ thuộc thái quá vào một nước cụ thể.
Là điều kiện quan trọng góp phần giữ vững an ninh, độc lập dân tộc và cũng là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước ta.
1.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế
Các xu hướng vận động của quan hệ kinh tế quốc tế rất đa dạng, chi phối sự
phát triển của tất cả các quốc gia. Các xu hướng nổi bật của quan hệ kinh tế quốc
tế trong giai đoạn hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế khu
vực. Các xu hướng này trở nên ngày càng đặc biệt quan trọng, bởi vì khó có thể
có quốc gia nào đứng ngoài xu hướng hội nhập, và APEC là sự lựa chọn phù hợp
với xu thế khách quan của nước ta.

20
Hiện nay, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia, cho nên
để tránh tụt hậu về kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế là những chính sách
ngoại giao chủ chốt của mỗi quốc gia. “Mở cửa” nền kinh tế ra bên ngoài, nhưng
phải đảm bảo sự ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Nhận thức rõ những cơ hội
và thách thức của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đối với các nước đang phát
triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, xuất phát từ mục tiêu hội nhập
kinh tế quốc tế là để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hướng XHCN, Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) khẳng định chủ trương
“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001
của Bộ Chính trị đã khẳng định tính tất yếu của toàn cầu hoá, chỉ rõ khả năng tận
dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, để tránh khỏi nguy cơ
tụt hậu, đổi mới phương châm đối ngoại “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển”.
Đại hội Đảng lần thứ X vẫn tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại của Đại
hội IX và có bổ sung thêm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”,
đồng thời xác định rõ lộ trình, quy mô, bước đi thích hợp, với tinh thần mạnh mẽ,
toàn diện và sâu rộng, thật sự vững chắc.
Việt Nam đã tham gia tích cực vào Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) ký
Hiệp định khung với Liên minh châu Âu, khai thông quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế, để tranh thủ các điều kiên thuận lợi, nắm bắt được thông
tin, cập nhật đầy đủ chiều hướng phát triển của thế giới và điều chỉnh chính sách
trong nước.
Tham gia APEC, Việt Nam có cơ hội đối thoại chính sách với các nền kinh
tế phát triển hơn, tận dụng cơ hội to lớn này để tham gia vào chuỗi giá trị khu
vực và mạng sản xuất toàn cầu, để thúc đẩy khả năng hội nhập thực tế từ bên
trong đất nước, nâng cao năng lực và hiệu quả cạnh tranh trong khu vực và trên
thế giới theo cách tham gia tích cực vào hệ thống phân công lao động khu vực,
không đối đầu và “phối hợp” hiệu quả hơn với các nước lớn, các nước phát triển

và các nước láng giềng. Là một nước đang phát triển, nhưng trong các quan hệ
hợp tác chúng ta có tư cách một thành viên bình đẳng. “Thông qua các lĩnh vực
21
hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ v.v… sẽ giúp nước
ta phát triển nhanh hơn, làm cho khoảng cách chênh lệch trình độ phát triển sớm
được thu hẹp”.
Hội nhập kinh tế quốc tế có cả hình thức đa dạng và song phương, vừa tham
gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ
thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật với từng nước trên nguyên tắc cơ bản và
bao trùm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, là phải bảo đảm giữ vững độc
lập tự chủ, giữ vững định hướng XHCN, giữ vững an ninh quốc gia, phát triển
kinh tế.
1.3. Thành công của năm APEC Việt Nam 2006.
Tuần lễ cấp cao APEC 2006 với sự tham dự của trên 10.000 đại biểu, doanh
nhân và phóng viên báo chí trong và ngoài nước, được tổ chức tại Hà Nội từ
ngày 12- 19/11/2006.
- Hội nghị cấp cao thông qua Tuyên bố Hà Nội, cùng với tuyên bố của Hội
nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế đã đề ra phương hướng hợp tác trên tất
cả các lĩnh vực, cho tất cả các diễn đàn của APEC cho năm 2007 và các năm tiếp
theo.
- Hội nghị cấp cao phê chuẩn Kế hoạch hành động Hà Nội nhằm thực hiện
lộ trình Busan, hướng tới mục tiêu Bogor. Các thành viên đánh giá cao ý nghĩa
và nội dung bản kế hoạch hành động, cho đây là cơ sở mang tính định hướng cho
các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại của APEC. Kế hoạch hành động Hà
Nội là sáng kiến quan trọng của Việt Nam, để lại dấu ấn của Việt Nam trong tiến
trình hợp tác. Nhiều thành viên cho rằng “đây là một biểu hiện rõ ràng quyết tâm
và khả năng của Việt Nam tham gia ngày càng sâu, chủ động hơn vào tiến trình
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế”.
- Hội nghị cấp cao đã ra tuyên bố riêng về vòng đàm phán Doha, khẳng
định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, đặc biệt nhấn mạnh mỗi thành viên APEC sẽ

chủ động đưa ra các cam kết cao hơn, nhằm thúc đẩy việc sớm khởi động lại
vòng đàm phán. Tuyên bố cũng chúc mừng Việt Nam gia nhập WTO, coi đây là
một nỗ lực thúc đẩy vòng Doha.
22
- Hội nghị đã thông qua báo cáo về các biện pháp cải cách APEC nhằm làm
cho APEC ngày càng có sức sống mạnh mẽ, năng động và hiệu quả hơn. Nhiều
thành viên đánh giá “Năm APEC 2006 là năm cải cách APEC”.
- Hội nghị cấp cao và Hội nghị Bộ trưởng đã thông qua 6 biện pháp mẫu
của các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực chất lượng cao, hai
hướng dẫn mẫu về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đánh gía kế hoạch hành động
thuận lợi hóa thương mại về giảm chi phí giao dịch thương mại 5% (TFAP) giai
đoạn 1 (2001-2006) và khung kế hoạch TFAP giai đoạn 2 nhằm giảm tiếp 5%
giao dịch thương mại (2006- 2010).
- Khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực an ninh con người,
chống khủng bố, an ninh năng lượng, cùng nhau ứng phó với những thách thức
chung như thiên tai, dịch bệnh, nạn tham nhũng
- Thông qua kết quả năm Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành được tổ chức
trong năm 2006 với nhiều sáng kiến của Việt Nam, đó là đóng góp lớn, tích cực
của Việt Nam tại một diễn đàn lớn.
Một thành công nữa trong năm APEC là Hội nghị các Tổng giám đốc với số
đại biểu tham dự đông nhất là 1500 đại biểu, trong đó có khoảng 750 đại biểu
nước ngoài và số nguyên thủ phát biểu đông nhất (10 nhà lãnh đạo) được đánh
giá là “Hội nghị thành công nhất kể từ khi bắt đầu được tổ chức tại Philipin năm
1996”. Trong khuôn khổ của Hội nghị này, Việt Nam cũng tổ chức rất thành
công diễn đàn xúc tiến thương mại và đầu tư với chủ đề “Những cơ hội kinh
doanh khi Việt Nam trở thành thành viên WTO”. Bộ Kế hoạch và đầu tư đã chủ
trì, tổ chức tốt diễn đàn đầu tư APEC trong hai ngày 15 và 16 tháng 11 năm 2006
tại Hà Nội
Bên cạnh những kết quả đạt được trong khuôn khổ hợp tác đa phương
APEC, Việt Nam cũng đạt được nhiều thoả thuận cực kỳ quan trọng cả về chính

trị và kinh tế trong các cuộc thăm chính thức song phương.
Như vậy, cùng với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ
150 của WTO thì APEC là hoạt động đối ngoại đã thành công tốt đẹp trên cả ba
mặt: nội dung, lễ tân, tổ chức và trên cả hai bình diện: đa phương và song
phương, cũng như việc Việt Nam được các nước châu Á nhất trí bầu làm đại diện
23
cho khu vực ứng cử ghế thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc khoá 2008- 2009. Những thành công quan trọng này đã góp phần nâng
cao hơn nữa vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam trong khu vực và trên
trường quốc tế.
2. Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam các nước APEC.
Việt Nam được kết nạp và trở thành thành viên của APEC tại Hội nghị cấp
cao APEC lần thứ 5 diễn ra tại tại Canada từ ngày 14 - 15/11/1998. Việc trở
thành thành viên APEC có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam, trên cả hai bình diện
chính trị và kinh tế.
Về kinh tế, Việt Nam có điều kiện tiếp cận tốt hơn với nguồn vốn, công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý thông qua các hoạt động đầu tư, thương
mại với các thành viên APEC, trong đó có những nền kinh tế hàng đầu thế giới
như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada. Các hoạt động thường niên của
cộng đồng doanh nghiệp APEC như Hội nghị Thượng đỉnh các Tổng Giám đốc/
Chủ tịch công ty, Hội chợ Cơ hội Đầu tư, Đối thoại giữa các Nguyên thủ và Hội
đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC) đã giúp Việt Nam kết nối hiệu quả với
cộng đồng doanh nghiệp trong khu vực trên cơ sở quan hệ hợp tác cùng có lợi.
Với Việt Nam, APEC hiện là khu vực đầu tư trực tiếp lớn nhất, với 65,6%
tổng số vốn đầu tư. Trong 14 đối tác đầu tư lớn nhất (trên 1 tỉ USD) vào Việt
Nam thì đã có 10 đối tác thuộc APEC với tổng vốn 39,5 tỉ USD, chiếm 95,6%
tổng số vốn đầu tư trực tiếp của APEc và chiếm 62,7% tổng số vốn đầu tư trực
tiếp của tất cả các nước vào Việt Nam.APEC là khu vực có lượng vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam, trong đó Nhật Bản là nước
có số vốn ODA lớn nhất trong tất cả các nước và vùng lãnh thổ, và các tổ chức

quốc tế tài trợ cho Việt Nam. Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nền
kinh tế thành viên APEC cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam, khoảng 60% giá trị xuất khẩu và 80% giá trị nhập
khẩu. 9 nước và vùng lãnh thổ có kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD vào Việt
Nam đều là thành viên APEC. Riêng lượng nhập khẩu từ 9 nền kinh tế này đã
chiếm hơn 90% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
24
Trong tổng số gần 3 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2004
thì APEC đã có trên 2,2 triệu lượt khách, chiếm 75,7%. 10/14 nước, vùng lãnh
thổ có lượng khách du lịch tới Việt Nam đông nhất đều là thành viên APEC như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan
Đối với Việt Nam, APEC thực sự là diễn đàn có ý nghĩa quan trọng, bởi ở
đó hội tụ hầu hết các đối tác thương mại và kinh tế hàng đầu thế giới. Trong
khuôn khổ APEC, ngoài hợp tác đa phương, mối quan hệ hợp tác song phương
cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Để góp phần minh chứng cho nhận định này,
cần đề cập tới mối quan hệ hợp tác thượng mại và đầu tư cùng các lĩnh vực khác
với một số nền kinh tế lớn của APEC.
2.1. Hợp tác kinh tế -thương mại giữa Việt Nam và các nước APEC.
2.1.1. Hợp tác thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ.
* Khái quát
Ngày 03/02/1994 Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với
Việt Nam và hai bên mở cửa cơ quan đại diện của nhau. Ngày 11/7/1995 Tổng
thống Hoa Kỳ tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc điều chỉnh chính sách của Mỹ đối
với Việt Nam, và là bước ngoặt phát triển trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và có vai trò quan trọng cũng như ảnh
hưởng lớn tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Việt Nam coi quan hệ với Hoa Kỳ là
nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, đặc biệt là trên lĩnh vực
hợp tác kinh tế - thương mại.
* Hợp tác kinh tế - thương mại

Từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, buôn
bán giữa hai nước đã có những bước phát triển nhảy vọt. Hiện nay, Hoa Kỳ đang
là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam, đó là thực tế không thể đảo ngược,
nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sự kiện quan trọng là Hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết năm 2000, tạo điều kiện thuận
lợi cho hàng hoá nước ta tiếp cận thị trường rộng lớn này. Việt Nam xuất khẩu
sang Hoa Kỳ chủ yếu là hàng dệt may, thuỷ hải sản, dầu khí, giày dép, đồ gỗ gia
dụng và nhập khẩu từ Hoa Kỳ các thiết bị y tế, máy bay, máy công cụ v.v
25

×