Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG - CHI TIÊU CÔNG LÀ GÌ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHI TIÊU CÔNG - ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG NHƯ THẾ NÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.77 KB, 38 trang )

Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH CÔNG
TOPIC 3: ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
HVTH: Nhóm 6_TCNH.DN2_K26
1. Lê Thị Kim Anh
2. Mai Thị Vân Anh
3. Đoàn Thị Thanh Hương
4. Nguyễn Thị Thanh Lý
5. Lương Tấn Minh
6. Vũ Xuân Thúy
7. Nguyễn Thị Thanh Thúy
Đà Nẵng, tháng 3 năm 2014
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 1
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG 5
1. Dự án đầu tư – Dự án đầu tư công 5
1.1 Dự án đầu tư là gì ? 5
1.1.1 Khái niệm dự án đầu tư 5
1.2.2 Dự án đầu tư công và những vấn đề liên quan : 8
2.3.2 Các bước tiến hành phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá chi tiêu công 12
3. Đánh giá dự án đầu tư: 15
3.1 Các tiêu chuẩn đánh giá dự án đầu tư: 15
3.1.1 Giá trị hiện tại ròng (NPV): 15
3.1.2 Suất sinh lời nội bộ (IRR) 17


3.1.3 Tỉ số lợi ích – chi phí (B/C - Benefit per Cost) 18
3.1.4 Thời gian hoàn vốn (PP-Payback Period) 19
3.2 Tỷ suất chiết khấu (r) 20
3.2.1 Xác định tỷ suất chiết khấu của dự án đầu tư 20
3.2.2 Suất chiết khấu biến đổi 22
3.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến suất chiết khấu của các dự án khu vực công 23
4. Giải quyết các nội dung đánh giá trong DAĐT công 24
4.1 Đánh giá lợi ích – chi phí 24
4.1.1 Lý thuyết phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá DAĐT công 24
4.1.2 Đánh giá lợi ích - chi phí 27
5. Các cạm bẩy trong BCA dự án đầu tư công 32
5.1. Những rủi ro và sự không chắc chắn trong phân tích BCA 32
5.2. Đối với những dự án đầu tư theo hình thức hợp tác công 34
5.3. Hiện tượng lãng phí vốn của dự án đầu tư công 34
5.4. Sự thiếu thông tin của dự án đầu tư 35
5.5. Đầu tư công kém hiệu quả nhưng tái cơ cấu vẫn còn yếu ớt 36
KẾT LUẬN 38
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 2
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ, sự hội nhập nhanh
chóng của nền kinh tế Việt Nam và ngày càng hợp tác sâu rộng đã mang lại nhiều
thành tựu về tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình này việc huy động và sử dụng vốn
đầu tư phát triển của nhà nước (đầu tư công) có một ý nghĩa quan trọng. Nhưng đầu tư
công có hiệu quả kinh tế không cao hoặc khó xác định, hơn nữa đầu tư công thường có
mối liên hệ trực tiếp với diễn biến của lạm phát và định hướng cũng như tốc độ phát
triển kinh tế. Do đó việc quản lý chi tiêu công mà điển hình là quản lý đầu tư công có
ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, đầu tư công trong những năm vừa qua được đánh giá là yếu kém về
mặt hiệu quả gây lãng phí rất lớn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, trong bài tiểu luận này

chúng tôi sẽ tóm tắt sơ lược về lý thuyết về dự án đầu tư nói chung và dự án đầu tư
công, phân tích lợi ích - chi phí trong đánh giá chi tiêu công, đánh giá dự án đầu tư.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 3
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 4
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG
1. Dự án đầu tư – Dự án đầu tư công
1.1 Dự án đầu tư là gì ?
1.1.1 Khái niệm dự án đầu tư
• Nếu xét về mặt hình thức, DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết và có hệ thống các hoạt động, chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết
quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
• Nếu xét về mặt nội dung, DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan
với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các
kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác
định.
• Nếu xét trên góc độ quản lý, DAĐT là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian
dài.
1.1.2 Các nội dung chính của dự án đầu tư
• Mục tiêu của dự án: là các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể
là khi thực hiện, dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản
thân chủ đầu tư nói riêng.
• Các kết quả: đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các
hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu
của dự án.
• Các hoạt động: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án
để tạo ra các kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một
lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm

việc của dự án.
• Các nguồn lực: gồm có vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành
các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu
tư cần cho dự án.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 5
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
1.1.3 Vai trò của dự án đầu tư
• Đối với chủ đầu tư:
• DAĐT là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên tiến
hành đầu tư dự án hay không.
• DAĐT là công cụ để tìm đối tác trong và ngoài nước liên doanh bỏ vốn đầu tư
cho dự án.
• DAĐT là phương tiện để chủ đầu tư thuyết phục các tổ chức tài chính tiền tệ
trong và ngoài nước tài trợ hoặc cho vay vốn.
• DAĐT là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi, đôn đốc và
kiểm tra quá trình thực hiện dự án.
• DAĐT là căn cứ quan trọng để theo dõi đánh giá và có điều chỉnh kịp thời
những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình.
• DAĐT là căn cứ quan trọng để soạn thảo hợp đồng liên doanh cũng như để
giải quyết các mối quan hệ tranh chấp giữa các đối tác trong quá trình thực hiện dự án.
• Đối với nhà tài trợ (các ngân hàng thương mại):
+ DAĐT là căn cứ quan trọng để các cơ quan này xem xét tính khả thi của dự
án, từ đó sẽ đưa ra quyết định có nên tài trợ cho dự án hay không và nếu tài trợ thì tài
trợ đến mức độ nào để đảm bảo rủi ro ít nhất cho nhà tài trợ.
• Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
+ DAĐT là tài liệu quan trọng để các cấp có thẩm quyền xét duyệt, cấp giấy
phép đầu tư.
+ Là căn cứ pháp lý để toà án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các
bên tham gia đầu tư trong quá trình thực hiện dự án sau này.
1.1.4 Yêu cầu đối với dự án đầu tư

• Một là, tính khoa học. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía
cạnh chủ yếu sau:
- Về số liệu thông tin. Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm
bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của
những thông tin và những số liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm
cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu thực tế ).
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 6
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
- Về phương pháp lý giải. Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng
rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích,
lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo logic và chặt chẽ. Ví dụ, vấn đề
mối quan hệ giữa các yếu tố thị trường, kỹ thuật và tài chính của dự án – quyết định
đầu tư dây chuyền sản xuất – lắp ráp xe ga hay xe số.
- Về phương pháp tính toán. Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất
lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác.
Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ.
-Về hình thức trình bày. Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày
phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đep.
• Hai là, tính pháp lý. Dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với
chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải
nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên
quan đến các hoạt động đầu tư đó.
• Ba là, tính thực tiễn. Tính thực tiễn của dự án đầu tư thể hiện ở khả năng ứng
dụng và triển khai trong thực tế. Các nội dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư
không thể chung chung mà dựa trên những căn cứ thực tế -> phải được xây dựng trong
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, thị trường, vốn
• Bốn là, tính thống nhất. Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian
nan, phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến
nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài
trợ

• Năm là, tính phỏng định. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi
phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế
thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp,
thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 7
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
1.2 Dự án đầu tư công
1.2.1 Đầu tư công
- Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước vào các chương trình, dự án
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ
phát triển kinh tế, xã hội.
- Hoạt động đầu tư công bao gồm lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư;
lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công; lập, thẩm
định, phê duyệt, giao, thực hiện, theo dõi và đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch,
chương trình, dự án đầu tư công.
- Vốn đầu tư công bao gồm các nguồn vốn của Nhà nước: ngân sách nhà nước,
công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước
ngoài, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại cho đầu
tư nhưng không đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay của ngân
sách địa phương để đầu tư.
- Kế hoạch đầu tư công là một tập hợp các mục tiêu, định hướng, danh mục
chương trình, dự án đầu tư công; cân đối nguồn vốn đầu tư công, phương án phân bổ
vốn và các giải pháp huy động nguồn lực và triển khai thực hiện.
- Chương trình đầu tư công là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
đồng bộ về kinh tế, xã hội để thực hiện một hoặc một số mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của một số vùng lãnh thổ, một hoặc một số ngành, lĩnh vực.
1.2.2 Dự án đầu tư công và những vấn đề liên quan :
Dự án đầu tư công là các dự án đầu tư với mục đích phục vụ cho lợi ích chung
của xã hội là chính như : xây dựng kết cấu hạ tầng, các chương trình thúc đẩy phát

triển kinh tế xã hội. Và đây là những dự án đầu tư được tài trợ toàn bộ hoặc một phần
từ nguồn vốn công như ngân sách Nhà Nước, công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và
vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
- Dự án đầu tư khẩn cấp là các dự án đầu tư theo quyết định của cấp có thẩm
quyền nhằm khắc phục sự cố thiên tai và các sự cố bất khả kháng khác.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 8
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
- Đầu tư theo hình thức đối tác công tư là đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để thực hiện, quản lý, vận
hành dự án kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp các dịch vụ công.
- Phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư công là xác định trách nhiệm và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước các cấp đối với các hoạt động đầu tư công.
-Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư là cơ quan hành chính của nhà nước các
cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư theo quy định của
pháp luật.
- Chủ chương trình là cơ quan, tổ chức được giao chủ trì quản lý thực hiện
chương trình đầu tư công.
- Chủ đầu tư là cơ quan, tổ chức được giao quản lý dự án sử dụng vốn đầu tư
công.
- Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi là tài liệu trình bày các nội dung sơ bộ về sự
cần thiết, mục tiêu, địa điểm, quy mô đầu tư, tổng mức đầu tư các dự án quan trọng
quốc gia và các dự án đầu tư công nhóm A làm cơ sở để trình cấp có thẩm quyền quyết
định chủ trương đầu tư.
- Theo dõi thực hiện kế hoạch đầu tư công là hoạt động thường xuyên cập nhật
các thông tin liên quan đến tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư, bao gồm tình hình
thực hiện các chương trình, dự án được bố trí vốn trong kế hoạch đầu tư công.
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công là hoạt động đánh giá mức
độ đạt được của kế hoạch đầu tư theo định kỳ và sau khi kết thúc kế hoạch; bao gồm
đánh giá tình hình thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công.

2. Phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá chi tiêu công (BCA)
2.1 Khái niệm phân tích lợi ích – chi phí
Phân tích lợi ích - chi phí (Benefit cost analyst - BCA) là một phương pháp
phân tích chính sách, được sử dụng khá phổ biến ở các quốc gia phát triển nhằm đánh
giá bằng tiền tất cả lợi ích và chi phí trên quan điểm xã hội của một chính sách, dự án
nhằm cung cấp thông tin cho các nhà ra quyết định xem xét, đánh giá và quyết định
lựa chọn những phương án sử dụng nguồn lực tốt nhất về khía cạnh đóng góp cho
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 9
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
phúc lợi xã hội. Đây là một công cụ rất cần thiết đối với các nhà lãnh đạo khu vực
công.
Phân tích lợi ích chi phí trong đánh giá chi tiêu công là một quá trình nhận
dạng, đo lường và so sánh các lợi ích với các chi phí xã hội của một dự án nhằm xem
xét việc phân bổ nguồn lực khan hiếm vào các mục đích sử dụng mang lại hiệu quả
nhất. Phân tích lợi ích - chi phí là một quy trình phân tích đầy đủ các kết quả của một
dự án xuyên suốt từ quan điểm thị trường, quan điểm tư nhân (phân tích tài chính),
quan điểm hiệu quả (phân tích kinh tế).
2.2 Ý nghĩa phân tích lợi ích - chi phí trong đánh giá chi tiêu công
Đối với các nhà hoạch định chính sách, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ hỗ
trợ thiết thực cho ra các quyết định có tính xã hội, từ đó quyết định phân bổ nguồn lực
một cách hợp lý, tránh gây ra thất bại thị trường thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
Bên cạnh đó, phương pháp phân tích lợi ích – chi phí sẽ giúp nhà hoạch định
hình dung ra được toàn bộ những chi phí cũng như lợi ích của mỗi phương án đưa ra
có thể đem lại và dựa trên kết quả phân tích đó chúng ta sẽ lựa chọn được phương án
phù hợp với mục tiêu đề ra.
2.3 Nội dung phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá chi tiêu công:
2.3.1 Những vấn đề cần được xem xét khi tiến hành phân tích lợi ích – chi phí:
Phân tích lợi ích – chi phí liên quan đến hai khái niệm là phân tích tài
chính và phân tích kinh tế.
Phân tích tài chính: là phương pháp phân tích dựa trên quá trình lưu chuyển

dòng tiền tệ trong vòng đời dự án mà khi thực hiện dự án đó có thể xảy ra. Trong phân
tích tài chính người ta tập trung chủ yếu vào việc phân tích giá cả thị trường và các
dòng luân chuyển tiền tệ. Mục đích là tối đa hoá lợi nhuận, khi khả năng sinh lời về
mặt tài chính càng cao thì càng thu hút được các nhà đầu tư. Vì vậy, người ta thường
gọi dạng phân tích này là dựa trên quan điểm cá nhân.
Phân tích kinh tế: là phương pháp không chỉ tính toán đến dòng tiền vào và
dòng tiền ra của nhà đầu tư mà còn tính đến hiệu quả của dự án đối với toàn bộ nền
kinh tế, là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách quyết định có nên đầu tư dự án hoặc
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 10
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
đưa ra các chính sách khuyến khích dự án thực hiện hay không. Do vậy dạng phân tích
này thường được gọi dựa trên quan điểm xã hội.
Do đó, khi phân tích lợi ích – chi phí dự án công chúng ta phải phân biệt lợi ích,
chi phí kinh tế và lợi ích (doanh thu hay lợi nhuận), chi phí tài chính, những chỉ tiêu
này không đồng nhất với nhau. Sự khác biệt giữa giá kinh tế và giá tài chính là khoản
lợi nhuận được dồn cho một nhóm người nào đó trong xã hội. Ví dụ, dự án cung cấp
nước sạch nông thôn thường có giá trị đối với xã hội lớn hơn nhiều so với mức chi phí
tài chính mà người dân chi trả. Như vậy, khi phân tích tài chính, ta sẽ xem xét dòng
tiền mà nhà đầu tư bỏ ra và thu vào là bao nhiêu. Còn khi phân tích kinh tế, bên cạnh
việc xem xét dòng tiền ròng mà nhà đầu tư thu về, chúng ta còn phải xem xét lợi ích và
chi phí của những nhóm đối tượng ngoài chủ dự án được hưởng lợi ích từ dự án và
nhóm gánh chịu chi phí của dự án. Khi đó, khi xác định lợi ích – chi phí của một dự án
công ta sẽ xem xét thiên về khía cạnh kinh tế.
Sử dụng đơn vị đo lường chung.
Để tiến hành BCA và kết luận một chính sách hay dự án có nên được thực hiện
hay không, nguyên tắc đầu tiên mà người phân tích cần tuân thủ là phải có một đơn vị
đo lường chung. Đơn vị chung tiện dụng nhất là tiền tệ, nghĩa là tất cả những lợi ích và
chi phí của chính sách nên được tính theo giá trị bằng tiền tương đương. Một chính
sách có thể tạo ra những lợi ích hay chi phí không được biểu hiện trực tiếp bởi đồng
tiền, nhưng có một số khoản tiền mà những đối tượng của chính sách sẽ quan tâm đến

khi xem xét để ra quyết định.
Lợi ích và chi phí của một chính sách không chỉ được thể hiện theo giá trị bằng
tiền tương đương, mà chúng còn phải được xác định thời điểm phát sinh cụ thể, do sự
thay đổi giá trị theo thời gian của đồng tiền. Nên khi đo lường lợi ích – chi phí chi tiêu
công ta phải chiết khấu về hiện tại mới tỷ lệ chiết khấu phù hợp. Để lựa chọn một tỷ lệ
chiết khấu xã hội hợp lý thì Chính phủ cũng như các nhà quản lý nên dựa vào tỷ lệ
chiết khấu của khu vực tư nhân, nhưng đồng thời cũng phải quan tâm đến cả tỷ suất
thuế và sự điều tiết thuế của chính phủ.
Thêm vào đó, để đo lường lợi ích – chi phí kinh tế ta phải xét đến một khái
niệm là giá tham khảo. Vì trong một nền kinh tế mà giá cả không phải ánh được cung
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 11
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
cầu thị trường, hay không phản ánh được chi phí thực tế xã hội (môi trường) thì giá thị
trường không thể sử dụng để xác định chi phí kinh tế mà phải dựa vào giá tham khảo.
Là mức giá phản ánh xấp xỉ chi phí cơ hội và lợi ích của dự án, được đưa ra dựa trên
cơ sở khoa học và thực tiễn.
Các chỉ tiêu đánh giá:
Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR)

2.3.2 Các bước tiến hành phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá chi tiêu công
a. Nhận dạng lợi ích – chi phí trong chi tiêu công
Để đo lường lợi ích – chi phí của một dự án công, bước đầu tiên là phải nhận
dạng được lợi ích kinh tế và chi phí kinh tế. Đây cũng là bước rất quan trọng và không
đơn giản đối với người phân tích. Trong bước này, người phân tích cần liệt kê đầy đủ
và chính xác các lợi ích và chi phí mà chính sách đem lại. Nếu người phân tích thiếu
trách nhiệm hoặc thiếu sự khách quan, họ có thể bỏ sót những lợi ích, chi phí có thể
dẫn đến sự lựa chọn khác với mục đích cá nhân hoặc đem lại kết quả bất lợi cho một
nhóm người nào đó. Chi phí và lợi ích không chỉ được xác định dựa vào sự tăng thêm
các yếu tố đầu vào/ đầu ra, mà còn có thể từ việc giảm đầu vào (tăng lợi ích) hoặc

giảm đầu ra (giảm lợi ích). Bên cạnh những kết quả có giá thị trường, một số kết quả
của chính sách có thể không có giá thị trường như chất lượng không khí, bảo tồn văn
hóa, giảm stress Những lợi ích và chi phí này cũng cần được nhận dạng và đưa vào
phân tích.
Chi phí kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện dưới dạng hữu hình và vô hình.
Do đó, khi nhận dạng các nhà quản lý phải xem xét các yếu tố vô hình hay các ảnh
hưởng ngoại tác của dự án, chính sách đến môi trường, cảnh quan, đời sống người
dân…
b. Lượng hoá và định giá lợi ích kinh tế - chi phí kinh tế
Sau khi nhận diện tất cả các chi phí và lợi ích của chính sách, người phân tích sẽ
tìm cách lượng hóa và định giá chúng. Cụ thể, người phân tích sẽ sử dụng sự sẵn lòng
trả để đánh giá lợi ích của chính sách và chi phí cơ hội để đánh giá chi phí nguồn lực
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 12
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
được sử dụng để thực hiện chính sách. Lợi ích của một chính sách là sự sẵn lòng trả
của mọi người cho chính sách đó. Chi phí cơ hội đo lường giá trị của những gì mà xã
hội phải từ bỏ để sử dụng các yếu tố đầu vào cho việc thực hiện chính sách.
Chi phí kinh tế:
Với cách tiếp cận kế toán dòng tiền đối với chi phí đơn giản là cộng tất cả cá
yếu tố đầu vào mà chính phủ chi trả. Nhưng nó không phản ảnh chi phí xã hội biên mà
chúng ta sử dụng trong phân tích chi phí hàng hóa công. Chi phí xã hội biên của bất kỳ
nguồn lực là chi phí cơ hội của một yếu tố đầu vào.
Chi phí kinh tế của một chính sách công hay dự án công bao gồm: chi phí đầu
tư ban đầu, chi phí hoạt động thường xuyên, chi phí môi trường hay các chi phí ngoại
tác khác.
Lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế của chính sách, dự án công mang lại bao gồm cả về doanh thu,
lợi nhuận tài chính và lợi ích về mặt xã hội. Lợi ích xã hội ở đây là lợi ích mà một
nhóm người trong nền kinh tế được hưởng hay lợi ích môi trường, cảnh quan, giáo
dục…

Ví dụ, lợi ích kinh tế của dự án nâng cấp đường cao tốc là: mức phí thu được,
tiết kiệm thời gian đi lại, giảm tai nạn giao thông.
Khi phân tích lợi ích của dự án công, các nhà hoạch định cần xem xét các vấn
đề thời gian tiết kiệm, giá trị con người. Giá trị con người thuộc về phạm trù đạo đức,
nhưng hầu hết các nhà kinh tế đồng ý rằng cần thiết cho việc ra quyết định chính sách
công. Giá trị con người là vô giá hoặc không nên định giá. Tuy nhiên, chúng nên loại
ra một bên khi phải đương đầu chọn lựa những chương trình khác nhau liên quan đến
cứu sống con người.
c. Chiết khấu các giá trị lợi ích và chi phí trong tương lai để có được giá trị
của chúng ở thời điểm hiện tại
Do những giá trị lợi ích và chi phí có thể xuất hiện ở những thời điểm khác
nhau, nên để có thể so sánh chúng, người phân tích cần đưa về một thời điểm, và thời
điểm được sử dụng phổ biến nhất là thời điểm hiện tại. Với một mức lãi suất là r, thì 1
đồng bỏ ra ở thời điểm hiện tại để đầu tư sẽ có giá trị sau n năm là (1+r)
n
đồng. Khi lấy
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 13
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
giá trị của một khoản lợi ích xuất hiện vào năm thứ n trong tương lai nhân lên với hệ
số chiết khấu ở năm thứ n, ta sẽ có giá trị hiện tại của khoản lợi ích. Áp dụng tương tự
như vậy đối với chi phí, ta sẽ chiết khấu dòng chi phí về hiện tại theo một tỷ lệ chiết
khấu phù hợp.
Giá trị chiết khấu hiện tại của dòng chi phí được tính toán:
d. So sánh lợi ích và chi phí
Sau khi có được giá trị hiện tại của các khoản chi phí và lợi ích, việc tiếp theo là
so sánh chúng với nhau để xác định lợi ích ròng hoặc hệ số lợi ích/chi phí . Lợi ích
ròng của chính sách bằng tổng giá trị hiện tại của các lợi ích trừ đi tổng giá trị hiện tại
của các chi phí; Hệ số lợi ích/chi phí được tính bằng tổng giá trị hiện tại các lợi ích
chia cho tổng giá trị hiện tại các chi phí. Một chính sách có kết quả lợi ích ròng dương
sẽ tương đương với hệ số lợi ích/chi phí >1.

e. Xác định rủi ro
Mặc dù kết quả phân tích cho thấy chính sách có lợi ích ròng dương, nhưng để
đảm bảo cho sự thận trọng khi quyết định, người phân tích cần nhận diện những rủi ro
có thể xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách và đánh giá mức độ quan trọng của
chúng. Những rủi ro này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, liên quan tới những dự
báo về môi trường kinh tế, xã hội hay tựnhiên. Chẳng hạn, chính sách miễn phí khám
chữa bệnh cho trẻ em trong thành phố có thểbị thất bại do dân số tăng bất thường, hay
do sự xuất hiện của những căn bệnh mới…
Khi đưa yếu tố rủi ro vào phân tích, chúng ta sẽ có được những kết quả khác
nhau về giá trị lợi ích ròng. Bằng kỹ thuật phân tích độ nhạy, hay phân tích mô phỏng,
người phân tích có thể xác định được mức độ quan trọng của các yếu tố đầu vào cũng
như tính toán được giá trị ròng của chính sách trong điều kiện có rủi ro. Kết quả phân
tích rủi ro còn giúp cho người làm chính sách có thể đưa ra các đề xuất (nhằm vào
nguyên nhân gây ra rủi ro) để hạn chế tối đa những bất trắc có thể xảy ra đối với chính
sách.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 14
( )
( ) ( )
P D V
C
r
C
r
C
r
t
t
=
+
+

+
+ =
+
=


1
1 1
2
1
. . .
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
f. Ra quyết định về lựa chọn hay từ bỏ chính sách, dự án dựa trên phân
tích lợi ích – chi phí
Nếu lợi ích ròng (sau khi xác định rủi ro) là một số dương, hoặc hệ số lợi
ích/chi phí lớn hơn 1 thì đây là dấu hiệu cho thấy chính sách có hiệu quả và đáng được
thực hiện. Nếu có nhiều phương án chính sách được đưa ra phân tích, thì phương án
chính sách nào có lợi ích ròng dương lớn nhất sẽ được lựa chọn.
Kết luận, phương pháp phân tích lợi ích – chi phí là một phương pháp phân tích
hiệu quả, là một công cụ hữu hiệu để các nhà hoạch định, quản lý đưa ra quyết định
đúng đắn nhằm tăng phúc lợi kinh tế - xã hội.
3. Đánh giá dự án đầu tư:
3.1 Các tiêu chuẩn đánh giá dự án đầu tư:
Mục này thảo luận các tiêu chuẩn thường được sử dụng trong đánh giá dự án
đầu tư. Tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng hay hiện giá ròng (NPV) của một dự án thường
được các nhà phân tích tài chính và kinh tế chấp nhận rộng rãi vì nó cho kết quả đánh
giá tốt hơn so với các tiêu chuẩn hiện hữu khác. Tuy nhiên, một số nhà đầu tư tư nhân
cũng dựa vào những tiêu chuẩn khác như suất sinh lời nội bộ của dự án (IRR), tỉ số lợi
ích – chi phí, và tiêu chuẩn về thời gian hoàn vốn.
3.1.1 Giá trị hiện tại ròng (NPV):

Giá trị hiện tại ròng (NPV) là chỉ tiêu về lợi ích ròng của dự án. Tất cả các
khoản thu nhập đạt được trong tương lai và vốn đầu tư bỏ ra để thực hiện dự án đều
quy về giá trị hiện tại theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định. Trên cơ sở đó so sánh giá trị
hiện tại của thu nhập và giá trị hiện tại của vốn đầu tư để xác định giá trị hiện tại thuần
của dự án. Đây là chỉ tiêu cơ bản dùng để đánh giá hiệu quả của một dự án vì nó thể
hiện giá trị tăng thêm mà dự án đem lại cho công ty.
NPV được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
NPV: giá trị hiện tại ròng của dự án đầu tư
NCF
t
: dòng tiền ròng năm t
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 15
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
B
t
: tổng doanh thu năm t
C
t
: tổng chi phí năm t
r: tỷ suất chiết khấu
n: tuổi thọ dự án
Dòng tiền là các khoản tiền dự tính sẽ thu và sẽ chi trong vòng đời dự án, bao
gồm dòng tiền đi vào (
t
B
) hay còn gọi là dòng thu (doanh thu bán hàng, các khoản thu
khác) và dòng tiền đi ra (
t
C

) hay còn gọi là dòng chi (chi phí hoạt động sản xuất, các
chi phí khác). Khi tính toán tiêu chuẩn này, cần chú ý xử lý đúng đắn những biến số
dòng tiền như: chi phí đất đai, chi phí chìm, chi phí cơ hội, chi phí giao hàng và lắp
đặt…
Qui tắc đánh giá dự án bằng NPV:
- NPV : nghĩa là với suất chiết khấu r xác định, hiện giá của dòng tiền từ thu
nhập dự án lớn hơn chi phí đầu tư cho dự án. Do đó công ty nên chấp nhận đối với các
dự án độc lập. Nếu các dự án loại trừ nhau và vòng đời dự án bằng nhau thì chọn dự án
có giá trị hiện tại thuần dương cao nhất (trong điều kiện không bị giới hạn về khả năng
huy động vốn đầu tư).
- NPV : nghĩa là với suất chiết khấu r, hiện giá của dòng tiền thu nhập từ dự
án nhỏ hơn chi phí đầu tư cho dự án. Do đó, công ty nên từ chối đầu tư dự án.
- NPV=0: nghĩa là với suất chiết khấu r xác định, hiện giá của dòng tiền thu
nhập từ dự án bằng với chi phí đầu tư cho dự án. Do đó, dự án tạo ra được cho công ty
tỷ suất sinh lợi bằng suất chiết khấu r, cho nên, công ty cũng nên chấp nhận đầu tư dự
án.
Tiêu chuẩn NPV đánh giá hiệu quả kinh tế có tính đến giá trị thời gian của tiền
và hiệu quả của dự án được biểu hiện bằng một đại lượng tuyệt đối, cho phép đánh giá
được quy mô lợi ích của dự án.
Tuy nhiên, NPV không phản ánh mức sinh lời của đồng vốn đầu tư. Phương
pháp này không thể đưa ra kết quả lựa chọn khi các dự án không đồng nhất về mặt thời
gian cũng như xếp hạng ưu tiên trong việc lựa chọn các dự án đầu tư khi nguồn vốn
của doanh nghiệp bị giới hạn.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 16
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
NPV phụ thuộc nhiều vào tỷ suất chiết khấu. Khi tỷ suất chiết khấu tăng thì
NPV sẽ giảm xuống. Khi tỷ suất chiết khấu vượt qua mức nào đó thì NPV sẽ chuyển
từ dương sang âm. Do vậy NPV sẽ không phải là tiêu chuẩn tốt nếu không xác định
được tỷ suất chiết khấu thích hợp, mà việc xác định là khó khăn nên đây cũng chính là
nhược điểm của phương pháp này. Vấn đề tỷ suất chiết khấu của dự án đầu tư sẽ được

đề cập trong phần sau của bài viết.
3.1.2 Suất sinh lời nội bộ (IRR)
Suất sinh lợi nội tại (Internal Rate of Return, IRR) là con số thống kê đã được
các nhà đầu tư ở cả khu vực tư nhân và nhà nước sử dụng rất nhiều để nói lên sự hấp
dẫn của một dự án.
Tuy nhiên, nó không phải là một tiêu chuẩn đầu tư đáng tin cậy, cho dù trong
một số trường hợp đây là một con số thống kê hữu ích để tóm tắt khả năng sinh lời của
một dự án.
Tiêu chuẩn suất sinh lợi nội tại (IRR) và hiện giá ròng (NPV) có liên quan với
nhau thông qua cách tính ra chúng. Để tính NPV, người ta đưa ra suất chiết khấu và
dùng nó để tìm hiện giá của chi phí và lợi ích. Trái lại, khi tìm IRR của một dự án thì
cách tính được đảo ngược. Thay vì chọn suất chiết khấu, người ta quy NPV chuỗi lợi
ích ròng về bằng không; và IRR là suất chiết khấu làm cho NPV bằng không.
Suất sinh lợi nội tại của một dự án được tính bằng cách giải phương trình sau:
( ) ( )
0
11
0
*
0
*
=
+
=
+

∑∑
==
n
t

t
t
n
t
t
tt
r
NCF
r
CB
Trường hợp các dự án độc lập với nhau thì việc chấp nhận hay không chấp
nhận đầu tư phụ thuộc vào giá trị của IRR so với lãi suất sử dụng vốn.
+ IRR > r dự án được chấp nhận.
+ IRR < r dự án bị loại bỏ.
+ IRR = r phụ thuộc vào mức độ cần thiết của dự án đối với nhà đầu tư mà lựa
chọn hay bỏ dự án.
Như vậy, tỉ suất sinh lời nội bộ càng cao thì khả năng thực thi dự án là càng
cao. IRR còn được sử dụng để đo lường, sắp xếp các dự án có triển vọng theo thứ tự,
từ đó có thể dễ dàng hơn trong việc cân nhắc nên thực hiện dự án nào. Nếu giả định
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 17
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
rằng tất cả các yếu tố khác của các dự án là như nhau thì dự án nào có tỉ suất sinh lời
nội bộ cao nhất thì dự án đó có thể được ưu tiên thực hiện đầu tiên.
Suất sinh lợi nội tại có một lợi thế lớn là có thể được tính toán chỉ dựa vào các
số liệu của dự án mà thôi. Đặc biệt, tính toán này không đòi hỏi số liệu về chi phí cơ
hội của vốn. Tuy nhiên, những điểm bất lợi của suất sinh lợi nội tại là rất lớn, đòi hỏi
chúng ta phải vô cùng thận trọng khi sử dụng nó. Đối với một dự án điển hình mà sau
giai đoạn đầu tư ban đầu (trong thời gian đó giá trị Bt - Ct là âm) là một giai đoạn có
lợi ích ròng luôn luôn dương, thì chỉ có một lời giải duy nhất cho suất sinh lợi nội tại.
Thậm chí ngay cả khi suất sinh lợi nội tại được tính toán một cách rõ ràng cho từng dự

án đang được xem xét, việc sử dụng nó như một tiêu chuẩn quyết định đầu vẫn tư gây
ra nhiều khó khăn khi một số dự án đang xét mang tính loại trừ nhau. Điều này có thể
xảy ra theo 3 hướng: Các dự án loại trừ nhau nhưng đòi hỏi quy mô đầu tư khác nhau;
Các dự án loại trừ nhau nhưng có tuổi thọ khác nhau; Các dự án loại trừ nhau nhưng
chúng thể hiện thời điểm khác nhau của một dự án. Khi đó, suất sinh lời nội tại có thể
dẫn đến những lựa chọn dự án sai lầm.
3.1.3 Tỉ số lợi ích – chi phí (B/C - Benefit per Cost)
Tỷ số này cho biết mối quan hệ tương quan giữa giá trị hiện tại của doanh thu
và giá trị hiện tại của giá thành. Công thức tính toán như sau:
B/C =


=
=
+
+
n
i
i
i
n
i
i
i
kC
kB
0
0
)1(
)1(

Tổng hiện giá thu nhập
Tổng hiện giá chi phí
Trong đó:
B
i
là thu nhập (doanh thu) tại năm i
C
i
là chi phí sản xuất tại năm i
Khi đánh giá dự án, đối với các dự án độc lập thì khi B/C > 1 là có thể chấp
nhận được. Trong trường hợp dự án loại trừ nhau thì phương án được chọn phải là
phương án có B/C > 1 và lớn nhất trong các phương án.
Việc sử dụng chỉ tiêu chỉ số B/C để đánh giá và lựa chọn dự án cũng vẫn mắc
một khuyết điểm như chỉ tiêu IRR và chỉ tiêu PI đó là bỏ qua vấn đề quy mô đầu tư mà
chỉ quan tâm đến so sánh tương đối.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 18
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
3.1.4 Thời gian hoàn vốn (PP-Payback Period)
Thời gian hoàn vốn của dự án là khoảng thời gian tính từ khi nhà đầu tư bắt đầu
bỏ vốn cho tới khi giá trị thu hồi ròng tích luỹ bằng đúng đầu tư ban đầu tích lũy.
Thời gian hoàn vốn cho thấy khả năng thu hồi vốn của nhà đầu tư nhờ các
khoản tích luỹ từ hoạt động của dự án, thời gian hoàn vốn càng ngắn thì quá trình đầu
tư càng an toàn và hiệu quả.
Trong đánh giá dự án người ta thường sử dụng 2 chỉ tiêu đo lường thời gian
hoàn vốn như sau:
Thời gian hoàn vốn giản đơn:
Đó là thời gian hoàn vốn được xác định trên cơ sở xem xét cân bằng giữa thu
hồi ròng và đầu tư ban đầu giá thực tế mà không quan tâm đến sự khác biệt của tiền tệ
theo thời gian. Theo phương pháp này nhà đầu tư chỉ quan tâm đến vấn đề là thời gian
bao lâu sau khi đầu tư thì họ có thể thu hồi được toàn bộ số tiền bỏ ra đầu tư ban đầu.

Thời gian hoàn vốn giản đơn được xác định như sau:

Trong đó n là số năm để dòng tiền tích luỹ của dự án < 0 và đến năm n+1 sẽ lớn
hơn 0.
Thời gian hoàn vốn chiết khấu:
Trong trường hợp này, người ta quan tâm đến thời gian hoàn vốn trong điều
kiện có tính đến chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thời gian hoàn vốn chiết khấu
được xác định tại thời điểm mà hiện giá tích luỹ của thu hồi ròng cân bằng với hiện giá
tích luỹ của đầu tư ban đầu. Cách tính tương tự như trên.
Nguyên tắc đánh giá lựa chọn dự án theo tiêu chuẩn này tương tự như phương
pháp trên. Các phương pháp đánh giá dự án bằng tiêu chuẩn hoàn vốn có một nhược
điểm cơ bản là khi đánh giá chỉ quan tâm đến các khoản thu nhập trong giai đoạn đầu
khi dự án hoạt động mà không quan tâm đến khoản thu nhập của khoảng thời gian sau
thời gian hoàn vốn nên có thể dẫn đến sai lầm khi ra quyết định chấp nhận đầu tư.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 19
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
3.2 Tỷ suất chiết khấu (r)
Tỉ suất chiết khấu đóng vai trò chìa khóa trong đánh giá dự án đầu tư. Các giá
trị khác nhau của r có thể đưa đến các kết luận khác nhau liên quan đến việc thừa nhận
và có thể so sánh các dự án.
3.2.1 Xác định tỷ suất chiết khấu của dự án đầu tư
a. Trường hợp đầu tư hoàn toàn bằng nguồn vốn tự có
Trong trường hợp này, mục đích đầu tư là nhằm thu lời lớn hơn việc gửi vốn
trên thị trường vốn. Do vậy tỷ suất chiết khấu của dự án theo nguồn vốn tự có (rvtc)
phải được xác định cao hơn mức lãi suất tiền gửi (rgửi) ở thị trường vốn. Tức là rvtc >
rgửi.
Tỷ suất chiết khấu của nguồn vốn tự có có thể được lấy bằng lãi suất tiền vay
của ngân hàng thương mại.
b. Trường hợp đầu tư hoàn toàn bằng nguồn vốn đi vay
Để đảm bảo độ tin cậy của tính toán và an toàn về vốn, chủ đầu tư cần chọn tỷ

suất chiết khấu của dự án theo vốn đi vay (rvđv) không nhỏ hơn mức lãi suất tiền vay
(rvay) , tức là rvđv > rvay.
c. Trường hợp đầu tư vừa bằng nguồn vốn tự có vừa bằng nguồn vốn đi
vay
Trong trường hợp này tỷ suất chiết khấu lấy theo mức trung bình chung lãi suất
của cả 2 nguồn vốn và được xác định theo công thức:
d. Trường hợp đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau
Trong trường hợp này tỷ suất chiết khấu của dự án được xác định theo trung
bình chung lãi suất của tất cả các nguồn vốn.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 20
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
Chú ý: Khi xác định tỷ suất chiết khấu của dự án đầu tư thường gặp phải các
trường hợp sau:
* Các nguồn vốn vay có các kỳ hạn khác nhau
Trong trường hợp này, trước khi áp dụng công thức tính tỷ suất chiết khấu
chung phải tính chuyển các mức lãi suất đi vay về cùng kỳ hạn là năm.
rn = (1 + rt)
m
- 1
Trong đó:
rn - Mức lãi suất năm
rt - Mức lãi suất theo kỳ hạn t (tháng, quý, 6 tháng)
m - Số kỳ hạn t trong năm
* Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mức lãi suất không trùng
với thời đoạn ghép lãi kỳ hạn.
Lãi suất thực là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mức lãi suất trùng với thời đoạn
lãi ghép. Trong thực tế nếu lãi suất không ghi thời hạn ghép lãi kèm theo thì lãi suất đó
được hiểu là lãi suất thực và thời đoạn ghép lãi trùng với thời đoạn phát biểu mức lãi.
Khi xác định tỷ suất chiết khấu của dự án, nếu lãi suất của một nguồn vốn nào

đó là lãi suất danh nghĩa thì phải chuyển về lãi suất thực theo công thức:
e. Tỷ suất chiết khấu điều chỉnh theo sự rủi ro
Công thức tính như sau:
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 21
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
f. Tỷ lệ chiết khấu điều chỉnh theo lạm phát
Lạm phát cũng được coi là một yếu tố rủi ro khi đầu tư. Vì vậy khi lập dự án
đầu tư cần tính đến yếu tố lạm phát, trên cơ sở đó xác định lại hiệu quả của dự án đầu
tư. Có thể sử dụng tỷ lệ chiết khấu điều chỉnh theo lạm phát làm cơ sở cho việc xác
định lại hiệu quả dự án. Công thức xác định tỷ lệ chiết khấu được điều chỉnh theo lạm
phát như sau:
R
L
= (1 + r) (1 + L) - 1
Trong đó:
R
L
- Tỷ lệ chiết khấu được điều chỉnh theo lạm phát
r - Tỷ lệ chiết khấu được chọn để tính toán
L - Tỷ lệ lạm phát
3.2.2 Suất chiết khấu biến đổi
Cho tới nay, chúng ta vẫn giả thiết rằng suất chiết khấu không thay đổi trong
suốt thời gian của dự án. Nhưng không hẵn như vậy. Giả sử vốn ở thời điểm hiện tại là
rất khan hiếm so với trước đây. Khi đó, ta sẽ thấy rằng chi phí của vốn vào thời điểm
hiện tại sẽ cao một cách bất thường và do đó suất chiết khấu theo thời gian sẽ giảm
dần khi cung và cầu của vốn trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại vốn rất
dư giả, chúng ta dự kiến chi phí của vốn và suất chiết khấu sẽ thấp hơn mức trung bình
dài hạn. Trong trường hợp này, có thể dự kiến suất chiết khấu sẽ tăng lên khi cung và
cầu vốn dần dần quay trở về xu hướng dài hạn.
Công thức tổng quát để tính hiện giá ròng của một dự án với tuổi thọ là n năm,

tính chiết khấu về năm 0, trở thành:


=
=
+

+−=
t
i
i
n
t
tt
r
CB
CBNPV
1
1
00
)1(
)(
)(

Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 22
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
(với r
i
là suất chiết khấu của giai đoạn t của dự án)
Cũng như trong trường hợp suất chiết khấu không đổi, giai đoạn thực tế để tính

chiết khấu các dự án là không quan trọng với điều kiện là NPV của các dự án đang
được so sánh phải được chiết khấu về cùng thời điểm.
3.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến suất chiết khấu của các dự án khu vực công
Đối với đầu tư trong khu vực tư nhân, suất chiết khấu thích hợp nhất được suy
ra từ chi phí của vốn tư nhân mà công ty phải trả để tài trợ cho các khoản đầu tư mới.
Chi phí vốn này được tính bằng chi phí vốn bình quân có trọng số thu được từ việc bán
cổ phần (hay thu nhập được giữ lại) và chi phí của vốn vay.
Tuy nhiên, chi phí vốn tài trợ của tư nhân tính bình quân có trọng số ở trên
phần lớn không liên quan gì đến việc xác định suất chiết khấu trong thẩm định kinh tế
của các dự án. Suất chiết khấu đúng trong thẩm định kinh tế cần phản ảnh lợi ích kinh
tế mà nền kinh tế phải từ bỏ để phát triển các hoạt động đầu tư này. Chi phí kinh tế của
vốn sẽ phản ảnh toàn bộ lợi ích kinh tế mà nền kinh tế phải từ bỏ bởi vì các hoạt động
đầu tư khác đã bị thay thế (hay hoãn lại) và bởi vì tiêu dùng tư nhân bị giảm đi để giải
phóng các nguồn lực cho việc thực hiện dự án này. Phương pháp tính chi phí cơ hội
kinh tế của ngân sách sẽ được trình bày chi tiết trong một chương khác khi nói đến
phần đánh giá kinh tế các dự án đầu tư.
Mục đích tính toán hiện giá ròng của dự án là để xác định xem các nguồn lực sử
dụng trong dự án được đề xuất có mang lại lợi ích lớn hơn chi phí của nguồn lực đó
hay không, mà chi phí đó được phản ảnh bằng suất chiết khấu thích hợp. Nếu như có
lợi, hiện giá ròng sẽ là dương; nếu không hiện giá ròng sẽ là âm.
Để hiện giá ròng của một dự án công có ý nghĩa, tất cả lợi ích và chi phí kinh tế
cần được tính đầy đủ vào biên dạng của dự án trước khi tính chiết khấu. Đồng thời, chi
phí cơ hội kinh tế của vốn phải được phản ảnh trong suất chiết khấu. Khi có những
lệch lạc đáng kể giữa biên dạng chi phí và lợi ích tài chính với biên dạng chi phí và lợi
ích kinh tế của dự án, thì hiện giá ròng của ngân lưu tài chính sẽ đưa đến sai lầm khi
được dùng như một tiêu chuẩn để xét đầu tư. Để biết được dự án này có tốt khi sử
dụng nguồn lực hay không, các quyết định phải dựa vào hiện giá ròng của dòng lợi ích
kinh tế ròng của dự án. Tuy nhiên, ngân lưu tài chính lại đóng vai trò trung tâm, nó
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 23
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân

cho biết công ty có duy trì được khả năng thanh toán đề tồn tại từ năm này sang năm
khác hay không.
Khi có đối tác tư nhân tham gia vào một dự án, họ sẽ thấy có ý nghĩa khi tính
toán hiện giá ròng trên quan điểm của khu vực tư nhân, nhưng chính quyền thì không
nên dùng giá trị hiện tại ròng này của tư nhân để quyết định xem đây có phải là một dự
án sử dụng tốt nguồn lực theo quan điểm của khu vực nhà nước hay không.
4. Giải quyết các nội dung đánh giá trong DAĐT công
Xuất phát từ tầm quan trọng của các dự án đầu tư công trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Chính phủ đã xếp các dự án này vào đối
tượng ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước nhằm khuyến khích các chủ đầu tư
xây dựng và thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư mang tính xã hội hóa. Vì vậy, việc
đánh giá dự án đầu tư là một việc hết sức quan trọng. Cũng giống như một dự án đầu
tư bình thường, dự án đầu tư công cũng được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn tương
tự như một dự án ở khu vực tư. Tuy nhiên cũng có những đặc trưng và những khác
biệt so với dự án đầu tư ở khu vực tư.
4.1 Đánh giá lợi ích – chi phí
4.1.1 Lý thuyết phân tích lợi ích – chi phí trong đánh giá DAĐT công
Đánh giá dự án đầu tư công là một hoạt động rất phổ biến trong quy trình chính
sách. Nhìn chung, một dự án đầu tư công là nhằm để giải quyết vấn đề tác động đến xã
hội. Hoạch định dự án đầu tư công cũng đồng nghĩa với việc xác định thứ tự ưu tiên
giải quyết các vấn đề liên quan tới quốc gia hay địa phương, và trên cơ sở đó, quyết
định cách giải quyết trên cơ sở tính toán lợi ích chung của xã hội. Để phân tích và
đánh giá một dự án đầu tư công, người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau. Một trong các phương pháp đó là phân tích lợi ích và chi phí (benefit & cost
analysis - BCA). Phân tích lợi ích và chi phí của một dự án đầu tư công là gì? Theo
Frances Perkins (1994): BCA là phân tích mở rộng của phân tích tài chính, được sử
dụng chủ yếu bởi các chính phủ và cơ quan quốc tế để xem xét một dự án hay chính
sách có làm tăng phúc lợi cộng đồng hay không.
Boardman (2001) cũng giải thích: BCA là một phương pháp đánh giá chính
sách, trong đó giá trị của tất cả các kết quả dự án đầu tư công đối với mọi thành viên

Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 24
Bài tập nhóm: Tài chính công GVHD: PGS.TS. Nguyễn Hòa Nhân
trong xã hội nói chung được lượng hóa bằng tiền. Lợi ích xã hội ròng là thước đo giá
trị của dự án. Như vậy, có thể hiểu BCA đối với dự án đầu tư công là một phương
pháp thường được tiến hành trong quá trình ra quyết định có nên chấp nhận hay loại
bỏ một chính sách kinh tế - xã hội dựa trên tính hiệu quả của nó, hoặc quyết định lựa
chọn giữa hai hay nhiều các chính sách có tính chất loại trừ lẫn nhau, ví dụ: do ngân
sách bị hạn chế, một địa phương có thể chỉ được chọn một trong hai chính sách: hoặc
miễn phí khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, hoặc miễn toàn bộ học phí cho trẻ
em dưới 12 tuổi đang học tại các trường công lập tại địa phương; đây là hai chính sách
loại trừ nhau.
Có hai lý do để sử dụng BCA: Một là, BCA giúp người phân tích hiểu rõ
hơn về dự án đầu tư công; hai là, BCA sẽ giúp cho việc người ra quyết định có thêm
cơ sở để lựa chọn, cải thiện hiệu quả của sự phân bổ nguồn lực, cụ thể là nó cho biết
sự can thiệp của chính quyền có đem lại hiệu quả xã hội lớn hơn hay không. Với
phương pháp BCA, người ta sẽ tìm cách xác định giá trị bằng tiền cho mỗi một đầu
vào cũng như đầu ra của dự án.
Sau đó so sánh các giá trị của các đầu vào và các đầu ra, nếu lợi ích mà dự án
đem lại có giá trị lớn hơn chi phí mà nó tiêu tốn, chính sách đó sẽ được coi là đáng giá
và nên được triển khai.
Cũng cần nhắc lại, BCA không phải là phương pháp duy nhất để đánh giá một
dự án. Có nhiều phương pháp khác được sử dụng để đánh giá chính sách như: mô hình
hóa, phân tích thống kê, RIA (Regulatory Impact Analysis – Đánh giá tác động pháp
luật)… và có thể tiêu chuẩn để quyết định việc lựa chọn hay loại bỏ một dự án không
phải là lợi ích ròng. Vì vậy, trên thực tế, chúng ta có thể bắt gặp nhiều dự án vẫn được
thực hiện mặc dù nếu xem xét kết quả lợi ích ròng thì dự án đó được coi là không đáng
giá. Lý do có thể là dự án này nằm trong một chương trình mang ý nghĩa chính trị
hoặc xã hội. Chẳng hạn, một tỉnh ở Tây Nguyên có chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp cao su, cà phê tuyển dụng người đồng bào dân tộc thiểu số vào làm việc.
Lợi ích ròng của dự án này có thể âm, nhưng vẫn được thực hiện vì sự thúc đẩy của

chương trình tái bố trí dân cư và ổn định chính trị - xã hội vùng biên giới.
Nhóm 6 – Lớp K26.TNH.DN1 Trang 25

×