TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------------- ---------------
BÀI TẬP LỚN
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Hà Nội, 2022
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................3
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................4
1. Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế.................................4
2. Tính tất yếu khách quan của việc hội nhập kinh tế quốc tế..................4
3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế.....................................................6
II. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM. .7
1. Bối cảnh toàn cầu..................................................................................7
2. Những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
hiện nay.......................................................................................................9
3. Những hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế....................13
III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ...................................................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế hiện đang được phần lớn quốc gia trên thế giới khẳng
định là một xu hướng, là quá trình tăng trưởng tất yếu trong sự phát triển của
thời đại tồn cầu hóa. Hội nhập là sự hợp tác giứa nhiều quốc gia, dân tộc ở
nhiều lĩnh vực và trên nhiều mức độ, tạo ra nguồn động lực mở rộng thị
trường từ quốc gia thành thị trường quốc tế.
Trong cuộc đua đó, nền kinh tế thị trường chính là yếu tố cốt lõi, thúc
đẩy q trình hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại toàn cầu hóa. Bằng những
chính sách đổi mới vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước đến nay, nền
kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trong vài thập kỷ qua với sự
chuyển dịch cơ cấu đáng kể, từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp. Với những nỗ lực cải cách thị trường đầu tư và kinh doanh, dốc sức
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, Việt Nam đang dần khẳng định vị thế
đúng đắn của mình trên trường quốc tế. Thế nhưng, chúng ta vẫn khơng thể
bỏ qua được những thách thức cịn đang là những rào cản khiến đất nước phải
gồng mình hơn nữa để sánh vai với các cường quốc.
Nhận thức được thực tế đó, em xin lựa chọn đề tài “Thực trạng hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” nhằm hiểu rõ hơn về những cơ hội và thách
thức của nước ta cũng như có thể đưa ra các đề xuất giải pháp nhằm đạt được
mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong q trình hồn thiện đề tài chắc chắn sẽ cịn sai sót chưa thể khắc
phục cũng như thiếu sót về thơng tin của đề tài, vì vậy em rất mong nhận
được ý kiến, phê bình của cơ để bài viết có thể hồn thiện hơn cũng như em
có thể rút thêm kinh nghiệm quý báu cho những lần sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
I.
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế, theo quan niệm phổ biến nhất, là sự gắn kết
giữa các nền kinh tế lại với nhau. Ở đó, các quốc gia sẽ mở cửa nền kinh tế
của mình, phát triển kinh tế quốc gia với quan hệ mật thiết với nền kinh tế
khu vực và thế giới. Q trình xã hội hóa mang tính chất quốc tế này đã gắn
kết các nền kinh tế thông qua các biện pháp tự do hóa và mở cửa thị trường ở
các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương với nhiều liên minh kinh
tế chính trị hay những hiệp định hợp tác quốc tế nổi. Những hiệp định hợp tác
do hai hay nhiều chính phủ ký với nhau để tạo nên các khuôn khổ pháp lý
chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các nước.
Ở đây việc hội nhập kinh tế quốc sẽ là sự liên kết giữa các nền kinh tế
trong khu vực và quốc tế nhầm đem lại những lợi ích về nguồn lực và thị
trường để phát triển kinh tế của nước thực hiện hội nhập. Điều này là khác với
phạm trù tồn cầu hóa kinh tế khi q trình này sẽ làm cho các nền kinh tế
quốc gia bị hịa nhập và tái cấu trúc tầm vĩ mơ thơng qua một loạt q trình
giao lưu, trao đổi. Tồn cầu hóa kinh tế sẽ khơng chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau
của các nền kinh tế mà còn là sự hòa nhập để tạo nền một nền kinh tế tồn cầu
thống nhất. Do đó chúng ta cần phải phân biệt hai phạm trù hội nhập kinh tế
quốc tế và tồn cầu hóa kinh tế vì túy có cùng một mục đích phát triển kinh tế
và các hình thức hợp tác giữa các quốc gia và nền kinh tế nhưng kết quả cuối
cùng lại khác nhau.
2. Tính tất yếu khách quan của việc hội nhập kinh tế quốc tế
Có hai lý do để khiến hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu hướng tất
yếu khách quan:
4
2.1.Do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế:
Tồn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội,... trong đó tồn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là
trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy tồn cầu hóa các lĩnh
vực khác.
Tồn cầu hóa tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự
vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Tồn cầu hóa đi liền với khu vực hóa nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xóa bỏ các rào cản lưu thơng vốn, lực
lượng lao động, hàng hóa dịch vụ... tiến tới tự do hóa hồn tồn giữa các nước
thành viên trong khu vực.
2.2.Hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của
các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện
hiện nay:
Xu hướng hội nhập kinh tế đã giúp các nước đang và kém phát triển
tiếp cận các nguồn lực như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của
các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là cơ hội cho các nước đang và kém phát triển khắc
phục nguy cơ tụt hậu và rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động tích cực lên nền kinh tế vĩ mô.
Mở cửa thị trường, thu hút vốn khơng chỉ thúc đẩy cơng nghiệp hóa mà
cịn tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình
hỗ trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng
cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và cơng nghệ
đang lợi dụng q trình tồn cầu hóa thành q trình tự do hóa nền kinh tế và
áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Điều này gây ra cho các nước
5
đang và kém phát triển sự phụ thuộc do nợ nước ngồi, tình trạng bất bình
đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và
phát triển.
Một nhận định khá rõ ràng đó là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang là
xu thế tất yếu tồn cầu bởi những lợi ích to lớn mà nó mang lại. Bất kỳ một
quốc gia, một địa phương nào muốn phát triển, muốn nâng cao đời sống của
mỗi người dân đều phải nỗ lực hết mình nhằm đạt được hiệu quả cao nhất của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện,
việc đạt được mong muốn đó hay khơng và đạt đến mức độ nào lại là một
thách thức không hề dễ của mỗi địa phương, mỗi quốc gia trên thế giới.
3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với nước Việt Nam đóng vai trị quan
trọng trong việc phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, được thể hiện ở chỗ:
Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh
vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng
thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất
nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với
hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng
tâm, là nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh
tế quốc tế cần đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác
trong các lĩnh vực khác.
Xét theo thực tế khách quan, các hoạt động hội nhập chỉ có thể tiến
hành dựa trên một nền tảng kinh tế tương đối vững chắc, khi đó mới có thể
đảm bảo cho chúng ta tiến hành hội nhập mà vẫn có thể giữ vững độc lập tự
6
chủ, khơng bị phụ thuộc vào bên ngồi. Nói cách khác, chỉ khi chúng ta đã
hội nhập kinh tế quốc tế đến một mức độ nhất định mới có điều kiện để hội
nhập trên các lĩnh vực khác, và hội nhập trên các lĩnh vực khác cũng khơng
nằm ngồi mục tiêu phục vụ cho phát triển kinh tế.
Tham gia nền kinh tế quốc tế, chúng ta có điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển kinh tế, song sự phát triển của chúng ta tiến bộ hơn là đi liền với
tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ mội trường, mơi sinh.
Tham gia tồn cầu hố, giao lưu về văn hố, chuyển mình vào dịng
chảy của tư duy và thực tiễn của nhân loại, những người làm công tác lý luận,
giáo dục lý luận ở Việt Nam có dịp thâu nhận những tinh hoa của thế giới, có
dịp mở rộng đối sánh , điều này rất quan trọng và cần thiết.
II.
THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM
1. Bối cảnh tồn cầu
Q trình quốc tế hóa tiếp tục dễ ra với quy mô và tốc độ lớn dần trên
mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Các nước trên thế giới đã xích lại gần
nhau hơn, dễ dàng trao đổi văn hóa và thị trường, mỗi quốc giá đã trở thành
một bộ phần không tách rời và phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng cũng chính vì thế,
sự biến động dù chỉ xảy ra ở một nước nào đó nhất định sẽ dẫn tới những ảnh
hưởng đến các quốc gia khác trên thế giới. Quốc tế hóa có thể diễn ra trên quy
mơ tồn cầu hoặc trên các khu vực. Liên kết kinh tế khu vực, trong vài thập
qua, đã trở thành mơ hình phổ biến của nền kinh tế thế giới giúp các nước
giảm dần khoảng cách chênh lệch và mở ra những đường hướng, khuôn khổ
mới cho sự phát triển tồn diện.
Hịa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày
càng rõ nét. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp
7
nhiều trở ngại, thách thức; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ có xu hướng tăng lên; sự
điều chỉnh chính sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và
trên thế giới diễn biến khó lường. Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại,
đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; nợ cơng tồn cầu tăng, rủi ro trên thị trường
tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 diễn biến phức
tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế tồn
cầu, có khả năng kéo dài sang đầu thập niên 20; làm thay đổi sâu sắc trật tự,
cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế
và tổ chức đời sống xã hội của thể giới.
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước
ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt
bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các
năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh
tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân
tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn
của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào
cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng,
ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta
đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại
dịch Covid-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do
dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước
khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016 - 2020. Việt
Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi
"mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch Covid-19 thành công; vừa
phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.
8
2. Những thành tựu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
hiện nay
Trên cơ sở đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước,
thờigian qua, Việt Nam đã tiến hành hội nhập dưới nhiều góc độ:
Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ
thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ
chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác
kinh tế đa phương. Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau
11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu
một mốc mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, mở ra một
giai đoạn mới: nền kinh tế nước ta hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền
kinh tế thế giới.
Về hội nhập khu vực, tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại
tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về
hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó,
năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và
đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC).
Về hội nhập song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ thương mại, xuất
khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ , ký kết
trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích
9
và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định
hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có
các nước trong nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở
thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến
lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài
cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái
đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực tham gia
đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong bối cảnh hệ
thống thương mại đa biên đang gặp phải những khó khăn nhất định, sự phát
triển hợp tác kinh tế song phương và khu vực, thể hiện qua việc hình thành
các FTA là một sự bổ trợ quan trọng cho mục tiêu tự do hoá thương mại và
đầu tư đa phương trên phạm vi tồn cầu hiện nay. Việc hình thành các FTA
với mức độ tự do hoá sâu rộng đã và đang đem lại những cơ hội và cả thách
thức không nhỏ đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Chính vì vậy, Việt Nam khơng thể đứng ngoài cuộc mà cần phải chủ động
nắm bắt xu thế FTA, tham gia có lựa chọn để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị
trường, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các đối tác quan trọng.
Mặc dù, tình hình kinh tế thế giới, khu vực có những diễn biến phức
tạp, khó lường, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế tồn diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, coi hội nhập kinh
tế quốc tế và tự do hóa thương mại là xu thế tất yếu khách quan. Một số thành
tựu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của Việt Nam gồm:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng
hợp quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi
mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường,
10
nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) ngày
càng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch,
bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.
Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền
kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có
triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mơ tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn
được bảo đảm, lạm phát được kiểm sốt, tạo mơi trường, động lực thúc đẩy
kinh tế phát triển. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính
tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I
năm 2021 và 3,66% của quý I năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng
6,85% của q I năm 2019. Trong đó, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2,45%, đóng góp 5,76% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 6,38%, đóng góp 51,08%; khu vực dịch vụ tăng
4,58%, đóng góp 43,16%. Quy mơ kinh tế Việt Nam trong năm 2020 đạt
khoảng 343 tỷ USD, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng
thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ 6
ASEAN.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến tăng trưởng, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. GDP bình quân đầu người tăng từ
2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo
sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007,
tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Tuy
nhiên, 4 năm sau đó, do ảnh hưởng từ những biến động của kinh tế thế giới,
nên tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%.
Đáng chú ý những năm tiếp theo, kinh tế khởi sắc hơn. Cụ thể, năm 2014 đạt
5,98%, năm 2015 đạt 6,68%; 2016 đạt 6,1%, năm 2017 GDP đạt 6,81%, năm
2018 đạt 7%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 240 tỷ USD, bình quân đầu
11
người đạt 2.540 USD, mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua
(2008-2018).
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế
của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở
rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu. Việt Nam
đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu với tổng kim ngạch xuất
khẩu, nhập khẩu đạt gần 480 tỷ USD, gấp gần 2 lần GDP. Từ chỗ thường
xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, thậm
chí là xuất siêu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác
công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả
năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Liên
minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ,...
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam
trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với
các nền kinh tế hàng đầu thế giới (gồm 12 FTA đã ký và đang thực thi; 2 Hiệp
định đã ký kết, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương mại tư do,
ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt
Nam); đồng thời, tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi
mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Mơi trường pháp lý, chính
sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng
phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh
bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thơng
thống hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới.
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết
quả ấn tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá,
Việt Nam nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực
12
tiếp nước ngồi (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang
hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần
130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam
trong giai đoạn 2018 - 2020. Việt Nam từng bước trở thành một trong những
công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giày, điện
thoại di động,...
3. Những hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Cũng cần phải thấy rằng, không phải khi hội nhập Việt Nam mới nói
đến những thách thức và lo đến những tác động ảnh hưởng. Và cũng không
phải riêng Việt Nam mới lo chuyện tác động hay ảnh hưởng. Bên cạnh những
kết quả đạt được, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cịn tồn tại
một số hạn chế, khó khăn. Cụ thể như:
(1) Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa
biến thành yếu tố nội sinh trong hành động của các cấp, các ngành và doanh
nghiệp.
Các chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế chậm được lồng
ghép, nhìn nhận đầy đủ trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, chưa gắn kết chặt chẽ với công tác quản lý điều hành phát triển kinh tế xã hội, và thiếu nguồn lực để thực hiện.Tính gắn kết giữa các ngành, lĩnh vực
chưa cao, nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý hoặc xử lý cục
bộ, ngắn hạn. Ở cấp độ vi mô, chủ trương, chính sách hội nhập chưa được cụ
thể hóa dẫn đến tình trạng thụ động,các doanh nghiệp chưa nhận thức hết tính
cấp thiết và lợi ích của hội nhập đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Cơ chế giám sát, theo dõi việc thực hiện các kế hoạch, đề án, chương
trình về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự được chú trọng, gây khó khăn
13
trong việc tổng hợp đầy đủ, kịp thời cũng như đánh giá kết quả của việc triển
khai một cách xác đáng và tồn diện.
(2) Q trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể
chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện
một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu hội nhập và quá trình
nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, mơi trường sinh thái, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc cải cách thể chế kinh tế trong nước vẫn chưa đáp ứng và theo kịp
các yêu cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy
mạnh quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo
sức ép đổi mới trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách hành chính.
Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật để hội nhập và thực hiện các cam kết
trong khuôn khổ WTO và tham gia các FTA, song vẫn thiếu các chính sách
cụ thể và hiệu quả để thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy nội
lực, phát triển doanh nghiệp trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp
hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ,... nhằm phát huy hiệu
quả của hội nhập,thúc đẩy quá trình tái cơ cấu và đổi mới mơ hình tăng
trưởng và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Việc điều chỉnh chính sách thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc
tế trong nhiều trường hợp còn thiếu chủ động, chưa đồng bộ. Việc hoàn thiện
khung pháp lý chưa chủ động đi trước một bước để người dân và doanh
nghiệp tận dụng các cơ hội mới cũng như có các giải pháp hỗ trợ cụ thể toàn
diện, tận dụng các điều khoản WTO và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế khác
để tăng khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và tác động tiêu cực.
(3) Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh
vực khác chưa chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo
14
được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là
các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác
động từ môi trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng
bộ.
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động
trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu
với nền kinh tế thế giới nhìn chung cịn yếu. Cơng tác tham mưu, tư vấn chính
sách vẫn cịn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những vấn
đề hội nhập kinh tế quốc tế phát sinh.
(4) Nền kinh tế vẫn mang tính gia cơng, chưa tạo ra các thương hiệu
Việt Nam có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng
chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn
thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn cịn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi.
Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền
vững. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào
khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thơ
và sơ chế, bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất
khẩu. Xuất khẩu của các mặt hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng
kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng
của hàng hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngồi khống sản, nhiên
liệu thơ thì hàng hóa nơng nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế. Hàng công
nghiệp chế biến chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu nguyên
liệu, phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điều đó phản ánh một
nền kinh tế trình độ thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên kim
ngạch xuất khẩu lớn,những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn phụ thuộc
15
vào một vài thị trường trọng điểm nên tiềm ẩn rủi ro lớn khi các thị trường
này có biến động. (Cao su và rau quả phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc,
thủy sản phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, gạo phụ thuộc thị
trường Đông Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị trường Hoa Kỳ, da giày
phụ thuộc chủ yếu vào thị trường EU. Xuất khẩu cà phê nhân phụ thuộc vào
vài tập đoàn đa quốc gia có văn phịng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam).
Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu mới chỉ chú trọng đến bề rộng, chưa chú
trọng đến nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm, những
ngành mang lại giá trị gia tăng lớn. Vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa
các sản phẩm xuất khẩu và chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa
thực sự quan tâm đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu trí
tuệ;cịn nhiều lúng túng và bị động trong ứng phó với các rào cản thương mại
mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an tồn thực phẩm, mơi trường, dư
lượng kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá).
(5) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản
phẩm chủ lực còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và
sản phẩm nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.
Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam
còn yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh và
cả sự tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các doanh
nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, cơng nghiệp phụ trợ chưa
phát triển, vì vậy, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn rất
hạn chế.
16
III.
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
Tiếp nhận thuận lợi, hạn chế thách thức là một nguyên lý chung trong
ứng xử những vấn đề của ta trong quan hệ quốc tế. Để có thể đạt được những
mong muốn thành quả nhất định nhà nước ta phải đưa ra một số những giải
pháp cụ thể. Trên đây là một số giải pháp cụ thể để thục đẩy phát triển quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của tồn dân và chỉ có thể
thành cơng khi có sự tham gia hưởng ứng của các doanh nghiệp và người dân.
Do vậy, cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành cần quyết liệt vào cuộc, để
tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trên tinh thần Nghị quyết số 22NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy
mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 và các nghị quyết,
chương trình hành động, kế hoạch cơng tác hội nhập của Chính phủ.
Thứ hai, cùng với đẩy mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt
Nam cần nâng cao năng lực phòng chống, giải quyết, xử lý các tranh chấp,
khiếu nại, khiếu kiện về thương mại, đầu tư quốc tế, trong đó chú trọng đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư, cán bộ pháp lý để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới,
từ đó có điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển, tận dụng
triệt để những cơ hội mới mở ra. Tại phiên họp thứ nhất năm 2019 (tháng
6/2019), Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế đã đề nghị: Các
bộ, ngành, địa phương cần coi trọng, tăng cường nghiên cứu, đánh giá, dự báo
các vấn đề mới của hội nhập kinh tế quốc tế tác động tới Việt Nam...
Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện rõ những thách thức của các
FTA để có hội nhập phù hợp song khơng để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các
17
trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại trừ và hình thành những liên kết khép
kín trong làn sóng FTA.
Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và
hiện đại vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Để có được điều này
cần có những chính sách củng cố quyền sở hữu nhằm thúc đẩy đầu tư dài hạn;
thực hiện hiệu quả cải cách hành chính cơng nhằm tăng tính minh bạch, giảm
quan liêu và hạ chi phí giao dịch vốn có ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trị của địa
phương, của doanh nghiệp trong cơng tác hội nhập kinh tế quốc tế. Dư địa
phát triển lớn nhất nằm ngay trong sự nỗ lực không ngừng, sức sáng tạo của
mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân. Địa phương, doanh nghiệp là chủ thể trung
tâm của hội nhập, phải được thụ hưởng thành quả của hội nhập. Doanh
nghiệp, người dân phải chủ động hơn, thực thi đầy đủ, nghiêm túc các cơ chế,
chính sách, quy định pháp luật về hội nhập, khơng để tình trạng vi phạm quy
định pháp luật tiếp diễn, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con
người Việt Nam.
18
KẾT LUẬN
Trải qua q trình đấu tranh khó khăn và gian khổ. Khi đất nước thống
nhất, Đảng nhà nước quyết định đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ này Đảng ta chủ trương xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế tư nhân mà
nhiều vấn đề của nó cịn có nhiều ý kiến. Vì vậy việc làm rõ bản chất đặc
trưng của khu vực kinh tế tư nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lý luận
và thực tiễn. Sự phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay tuy cịn
gặp nhiều khó khăn nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó
nó cũng còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục. Trong thời gian tới
chúng ta cần tiếp tục đổi mới hồn thiện các chính sách kinh tế xã hội hành
lang pháp lý khắc phục những hạn chế đó, đặt kinh tế tư nhân vào đúng vị trí
của nó.
Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, do đó những biến
động trong cục diện kinh tế và chính trị thế giới hiện nay sẽ có tác dộng lớn
và ngay lập tức đối với tiến trình hội nhập của đất nước. Để nâng cao hơn nữa
hiệu quạ hội nhập kinh tế quốc tế, vấn dề đặt ra là Việt Nam cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp trên, đặc biệt đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng,
nâng cao năng suốt năng lực cạnh tranh của nên kinh tế. Đây chính là tiền đề
và là giải pháp quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt
qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học –
khơng chun lý luận chính trị), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2019.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh cục diện kinh tế
thế giới mới, Viện hàn lâm khoa học – xã hội Việt Nam, vass.gov.vn,
cập nhật 10/07/2020.
3. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế.
4. Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương
đến năm 2030.
5. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại, Văn phịng
Chính phủ, Hồng Xuân Hòa, tapchicongsan.org.vn, cập nhật
12/07/2019.
6. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, Tạp
chí tài chính online, ThS. Nguyễn Thị Thúy Ngọc, tapchitaichinh.vn,
cập nhật 29/09/2019.
7. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm đổi mới,
Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, hdll.vn, cập nhật
14/03/2019.
20