Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận phân tích quan điểm của đcsvn về cnh hđh thời kì đổi mới lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.77 KB, 18 trang )

BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
Đề bài: Phân tích quan điểm của ĐCSVN về CNH, HĐH thời kì đổi mới “
lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững”. Em hãy nêu nhận thức của bản thân khi nghiên cứu quan điểm trên
của Đảng
I.
Cơ sở khoa học của quan điểm
1.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin về vai trò của nhân dân và
quần chúng trong lịch sử
+
Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất quyết định sự tồn tại của xã hội
Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác đã chứng minh rằng
phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Nguyên lý cơ bản đó của chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch rõ rằng, khơng có sản
xuất vật chất thì bất cứ xã hội nào cũng khơng tồn tại được. C.Mác viết: “Việc
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp… tạo ra 1 cơ sở, từ đó
người ta phát triển ra các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ
thuật và thậm chí cả những quan niệm tơn giáo của con người ta”. Thực tiễn lịch
sử xã hội loài người cho thấy , mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội dù thể
hiện trong bất kì lĩnh vực nào: Chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo
đức, tôn giáo hay khoa học… tất cả đều hình thành và biến đổi trên cơ sở của sự
vận động của nền sản xuất vật chất. Cộng đồng xã hội nào cũng được tạo nên
những con người cụ thể, do đó sự tồn tại và phát triển của con người là điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Song , con người muốn tồn tại,
trước hết phải ăn, uống, mặc,ở,...mà để có những thứ đó, họ phải sản xuất và tái
sản xuất. Nghĩa là, loài người bắt đầu làm nên lịch sử của mình từ việc chế tạo
ra cơng cụ lao động, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến


các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người.
Khi nghiên cứu về xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lenin cho rằng, “ điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã
hội loài vật là ở chỗ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại
sản xuất”. Thật vậy, lồi vật khơng sản xuất mà chỉ thích ứng với những biến
đổi khách quan, tự phát của mơi trường tự nhiên; trong khi đó, lồi người chủ
động tiến hành sản xuất vật chất, cải biến môi trường tự nhiên cho phù hợp với
nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật
chất, con người ngày càng hiểu biết về giới tự nhiên, tích lũy kinh nghiệm, thói

1


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
quen trong sản xuất, cải tiến và chế tạo công cụ ngày càng tinh xảo, đồng thời
tri thức của con người không ngừng được nâng cao và lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển.
Lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội là quần chúng nhân dân lao động
bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. V.I.Lenin chỉ rõ: “ Lực lượng
sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động”.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay thế các quan hệ
sản xuất mới, dẫn đến sự thay đổi toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội. Như
vậy, lịch sử của xã hội loài người trước hết là lịch sử của sự thay đổi các
phương thức sản xuất khác nhau qua các thời đại, lịch sử của những người sản
xuất của cải vật chất, của quần chúng nhân dân.
Ngày nay, cách mạng khoa học- cơng nghệ có vai trị đặc biệt đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Song, nó chỉ có thể được phát huy thơng qua

thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ cơng nhân
hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại kinh tế tri thức. Do
vậy, có thể nói rằng, chính quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của cải vật
chất của xã hội, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Dù xem xét trong toàn
bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của xã hội loại người nói chung, hay
xem xét trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của các xã hội hiện thực nói riêng, thì
sự sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân vẫn ln đóng vai trị là cơ sở,
nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội.Bởi vậy, việc giải thích các hiện
tượng của đời sống xã hội chỉ có căn cứ khi xuất phát từ chính nền sản xuất vật
chất xã hội do quần chúng nhân dân tạo nên.




+
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội
Từ khi xã hội được phân chia thành giai cấp đến nay, lịch sử xã hội là lịch
sử đấu tranh giai cấp. Đây là q trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức
giai cấp, không do 1 lý thuyết xã hội nào tạo ra. Theo quan niệm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lenin, đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc
bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa phá hoại, tiêu cực mà là những cuộc
đấu tranh rộng khắp quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị
bảo thủ. Theo V.I.Lenin, mọi cuộc cách mạng xã hội đều biểu hiện dưới hình
thức đấu tranh giai cấp và thông qua đấu tranh giai cấp mà đưa xã hội tiến lên từ
thấp đến cao. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân lao động
ln giữ vai trị quyết định.

2



BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
Khi nghiên cứu lý luận và thực tiễn cách mạng, C.Mác cho rằng: “ chính
con người làm ra lịch sử của mình”; rằng, lịch sử là lịch sử của con người theo
đuổi những mục đích của mình. Tuy nhiên, lịch sử đó khơng phải được tạo nên
từ những cá nhân riêng lẻ, mà phải do số đơng thực hiện, đó là quần chúng nhân
dân. Lịch sử đã chứng minh rằng, khơng có cuộc chuyển biến cách mạng nào
mà khơng phải là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng . V.I.Lenin khẳng định: “Cuộc cách mạng chỉ thực sự là 1 cuộc cách
mạng khi nào hàng chục triệu người đồng lịng hăng hái nổi dậy”, “Tồn bộ lịch
sử các cuộc chiến tranh giải phóng đều chỉ cho chúng ta thấy rằng khi các cuộc
chiến tranh đó được đơng đảo quần chúng tham gia một cách chủ động tì cơng
cuộc giải phóng được thực hiện 1 cách nhanh chóng”
Như vậy, vai trò của quần chúng nhân dân rất to lớn trong các cuộc cách
mạng, nhất là giai cấp công nhân. Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng
xã hội là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu, còn nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Điều đó cũng có nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản
xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động chính là chủ
thể của các q trình kinh tế, chính trị, xã hội; họ đóng vai trị là động lực cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
+
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần
Quần chúng nhân dân khơng những là lực lượng quyết định và sáng tạo
trong sản xuất của cải vật chất, trong cách mạng xã hội, mà còn là người sáng
tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào vai trị này

của quần chúng nhân dân cũng được xem xét đúng mức. Trong lịch sự, các giai
cấp bóc lột thống trị thường cho rằng, nhân dân lao động là những người thấp
hèn, “ vai u thịt bắp” thì khơng thể có vai trị gì trong việc phát minh khoa học
và sáng tạo văn học, nghệ thuật; rằng, hoạt động tinh thần là lĩnh vực dành riêng
cho những người trí thức, thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Bên cạnh đó, quan
niệm duy tâm cho rằng, lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần như khoa học, triết
học, nghệ thuật,... không thuộc về nhân dân lao động, mà thuộc về những thiên
tài, những người sáng tác chuyên nghiệp đã được “ thần thánh” trao cho những
khả năng ấy. Đây là những quan niệm sai lầm mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
bác bỏ.




3


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
Với phương pháp biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử trong khi không
hề phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trị của các danh nhân văn hóa nhân loại, như các
nghệ sĩ, các nhà triết học, các nhà khoa học,... vẫn ln khẳng định vai trị to lớn
của quần chúng nhân dân lao động đối với sự phát triển đời sống tinh thần của
xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, ngay từ buổi đầu của lịch sử,
trong xã hội cộng sản nguyên thủy, bên cạnh những hoạt động sản xuất vật chất,
con người đã có những hoạt động về tinh thần, về văn học, nghệ thuật, mặc dù
những lĩnh vực này cịn thơ sơ, mộc mạc. Có thể nói, từ khi lồi người biết chế
tạo và sử dụng công cụ để tiến hành sản xuất của cải vật chất, thì đồng thời họ
cũng bắt đầu sản xuất ra những giá trị tinh thần. Trong lao động sản xuất, con

người luôn tiếp xúc với tự nhiên và xã hội; nhờ đó, trí tuệ của họ về mọi lĩnh
vực dần hình thành và phát triển, hiểu biết về tự nhiên, về xã hội, về chính bản
thân mình được nâng cao.
Một mặt, quần chúng lao động là người trực tiếp tham gia sáng tác; mặt
khác, những hoạt động thực tiễn, những nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của họ
là nguồn cảm hứng vô tận giàu chất thơ cho hoạt động sáng tác của những
người làm văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Bất cứ một giá trị văn hóa nghệ
thuật nào cũng không thể tách rời đời sống phong phú của quần chúng nhân
dân. Cùng với văn học, nghệ thuật, sự ra đời và phát triển của khoa học, kỹ
thuật cũng chứng minh vai trò to lớn của quần chúng nhân dân. Khoa học, kỹ
thuật ra đời trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn lao động sản xuất va
fđấu tranh quần chúng lao động cũng như do sự thôi thúc của nhu cầu sản xuất.
Thực tiễn sản xuất ln đặt ra những vấn đề mới địi hỏi khoa học, kỹ thuật giải
quyết, thúc đẩy khoa học, kỹ thuật giải quyết, thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát
triển không ngừng. Ph.Anghen chỉ rõ: “ Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu
kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên hơn một chục trường đại học”.
Sự phát triển khơng ngừng đó ln mang tính kế thừa, luôn dựa vào những
thành tựu của các thế hệ trước, dựa trên tri thức và kinh nghiệm của quần chúng
nhân dân.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động
tinh thần, quần chúng nhân dân ln đóng vai trị quyết định trong lịch sử. Tuy
nhiên, phải trải qua 1 thời gian đến khi chủ nghĩa Mác ra đời thì chân lý “quần
chúng sáng tạo ra lịch sử” mới được nêu lên. Từ khi có được nhận thức đúng về
vai trị của quần chúng và nhận thức ấy được ăn sâu vào hàng triệu con người
thì lịch sử biến chuyển nhanh chóng lạ thường, tính tích tực và sáng tạo cách
mạng của quần chúng nhân dân, quan niệm chủ nghĩa Mác - Lenin về vấn đề











4


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
này đã thể hiện sự vượt trội hơn hẳn cả từ góc độ lý luận lẫn thực tiễn.
V.I.Lenin đã đánh giá cao quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác về vai trò của
quần chúng nhân dân: “ Những lý luận trước kia đã khơng nói đến chính ngay
hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu
tiên, đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác, như khoa học tự nhiên, những
điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều
kiện ấy”.


2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong Cách Mạng
- Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành cơng của sự nghiệp
cách mạng.


Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời khơng q bằng nhân dân. trong thế
giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vơ luận
việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người
cho rằng "việc dễ mấy khơng có nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu

cũng xong". Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ
Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người phân tích phẩm chất tốt đẹp
của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ
gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc,
bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.




Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một
cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to
lớn, nghĩ mãi khơng ra"'. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực
hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh
thần quật cường và lực lượng vơ tận của dân tộc ta, với lịng u nước và chí
kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi,
mà chúng ta nhất định thắng lợi.




Nhân dân là yếu tố quyết định thành cơng của cách mạng. "Lịng u nước
và sự đồn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng
nổi"[1].




- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi
trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người





5


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý,
Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải
phóng lao động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh
lầm than. Người ra đi với ý chí "quyết giải phóng gơng ta được hồn tồn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được cùm nơ lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng
là của Đảng và Chính phủ là "làm sao cho nước học hành".




Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những
người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thơng kiểu tơn
giáo; ngược lại, người có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người,
ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức để
xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do,
hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nơ lệ, lầm than thì mục
tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc. Sau khi
chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa

bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy chúng ta phải thực
hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối
với con người".
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có
thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận,
giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù
nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức
tránh.








Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng
tạo của quần chúng.




6


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân
thì có tất cả"...




Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu khơng có nhân dân
thì Chính phủ khơng đủ lực lượng: nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng
có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội
như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân,
dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vơ địch. Bởi
vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng
chục triệu quần chúng nhân dân.




Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là
nguời cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức
mạnh cho người cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.




Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân
dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân

dân; không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là
nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ
dẫn đến kết quả là "hỏng việc".




Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh lấy cơng - nơng trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười phải nhìn nhận và
đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới,đó là giai cấp cơng
nhân. Chỉ có giai cấp cơng nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh
đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp cơng nhân
chỉ có liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực
lượng hùng mạnh.




7


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những. con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo
đức, được ni dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong

động lực con người.




Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức,
có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
3. Thực tiễn kinh nghiệm sử dụng nguồn lực trong quá trình CNH ở NHật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore
+
Nhật Bản:
Ai cũng biết, Nhật Bản ngày nay là nước đứng đầu Châu Á và đứng thứ
hai thế giới về phát triển kinh tế, nhưng cách đây hơn 100 năm về trước thì Nhật
Bản cũng là một nước nông nghiệp cổ truyền tự cấp, tự túc, sản xuất manh mún,
với những hộ nông dân qui mô nhỏ như Việt Nam, thậm chí về điều kiện đất
đai, khí hậu, thời tiết để phát triển sản xuất nông nghiệp cịn có phần khó khăn
hơn cả Việt Nam (70% diện tích đất đai là đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, bị chia
cắt bởi nhiều con sông chảy xiết). Vậy nhưng, Nhật Bản đã nhanh chóng chuyển
được nền nơng nghiệp cổ truyền kiểu Đông Á thành nền nông nghiệp hiện đại,
đưa nền kinh tế thuần nông trở thành nền kinh tế cơng nghiệp, dịch vụ. Có được
thành cơng đó là do Nhật Bản biết lựa chọn và thực hiện mơ hình cơng nghiệp
hóa dựa trên sự tương tác năng động của hai hệ thống nội lực và ngoại lực, đồng
thời chuyển hóa thành cơng các yếu tố ngoại lực thành nội lực.
Nhật Bản tiến hành CNH từ nửa cuối thế kỷ XIX, và đến đầu thế kỷ XX thì
sự nghiệp CNH tại Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó
một số ngành cơng nghiệp nặng đã đạt được trình độ hiện đại của thế giới.
Nhưng rồi, cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai nổ ra và đã để lại hậu quả nặng
nề và lâu dài cho đất nước này: 34% máy móc trong cơng nghiệp, 81% tàu bè,
25% cơng trình xây dựng đã bị phá hủy...; tổng sản phẩm quốc dân năm 1946
chỉ bằng 61%, sản lượng cơng nghiệp bằng 14%, và thu nhập quốc dân bình

qn đầu người bằng 55% so với trước chiến tranh. Trước tình hình đó, Chính
phủ Nhật Bản đã xác định là vừa phải tiến hành khôi phục nền kinh tế với mục
tiêu “đảm bảo an ninh lương thực và cải cách kinh tế nông thôn”; vừa phải tiếp
tục đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa đất nước nhằm tạo ra một trật tự cơng
nghiệp mới, linh hoạt nhằm thích ứng với những biến động của kinh tế trong
nước và quốc tế.












8


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
Thực hiện mục tiêu thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều đạo
luật và thực thi nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển và bảo vệ lợi ích
của nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Thực hiện mục tiêu thứ hai, Chính phủ Nhật Bản tiến hành nhiều biện
pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực từ bên ngồi và làm cho chúng thích
ứng với điều kiện Nhật Bản theo phương châm kết hợp “kỹ thuật phương Tây”

với “Tinh thần Nhật Bản”.
Phương pháp chủ yếu và xuyên suốt của Nhật Bản trong việc tiếp cận với
kỹ thuật tiên tiến phương Tây là bằng con đường nhập khẩu với nhiều hình thức
khác nhau: nhập khẩu trực tiếp cơng nghệ, mua bằng phát minh sáng chế,
khuyến khích người Nhật đi du học để tiếp thu những tri thức mới của phương
Tây, và “nhập khẩu" cả chuyên gia giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Nhật Bản đã không chỉ nhập khẩu máy móc thiết bị để sử dụng, mà còn nhập
khẩu cả bằng phát minh sáng chế để triển khai, hoặc để nghiên cứu, bắt chước;
không chỉ học tập phương Tây về kỹ thuật, mà họ đã học tất cả các mặt tiên tiến
khác về thể chế kinh tế, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm phát triển giáo
dục…. Điều đặc biệt là, Nhật Bản không bắt chước nguyên mẫu của nước
ngồi, mà họ ln tìm cách cải tiến cơng nghệ nhập khẩu để thích nghi chúng
(thích ứng chuyển đổi).
+
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore (các nước công
nghiệp mới (NICs))
Các nước và vùng lãnh thổ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và
Singapore được gọi là các nước công nghiệp mới (NICs) thuộc thế hệ thứ nhất ở
Châu Á đã tạo nên những nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chưa từng thấy
trong lịch sử. Thời gian để hoàn thành q trình cơng nghiệp hóa tại các quốc
gia và lãnh thổ này chỉ mất khoảng 30 năm.



















Ngược dòng lịch sử, vào những năm trước 1960 các nước NICs cũng là
những nước nông nghiệp, với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tới 75% lao
động và trên 30% GDP. Tuy có những điểm khác nhau, nhưng tất cả các nước
đều có điểm chung là thực hiện kết hợp và chuyển đổi giữa các mơ hình CNH
thay thế nhập khẩu, CNH hướng về xuất khẩu, và CNH hướng tới công nghệ
cao phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Điều đó đã tạo nên thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa tại các nước này.




Bước đi của các NICs là trong giai đoạn đầu, họ thực hiện mơ hình CNH
thay thế nhập khẩu- CNH hướng nội (đây cũng là mơ hình được áp dụng phổ


9


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công

biến tại nhiều nước vào những năm giữa thế kỷ XX về trước). Mơ hình này đã
giúp cho các nước giải quyết được các vấn đề về vốn và kỹ thuật để phát triển
một số ngành công nghiệp và đáp ứng nhu cầu cơ bản của dân chúng về việc
làm và thu nhập… Đến cuối thập niên 1960, với xu hướng tồn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ, mơ hình CNH thay thế nhập khẩu đã bộc lộ những hạn chế, thì các
NICs đã bắt đầu chuyển sang thực hiện mơ hình CNH hướng vào xuất khẩu
(CNH hướng ngoại), mà Singapore là nước đầu tiên trong nhóm thực hiện bước
chuyển này. Mục tiêu mơ hình này là khai thác lợi thế về nguồn lao động và tài
nguyên dồi dào, giá rẻ để xuất khẩu, tạo nguồn vốn tích lũy cho phát triển cơng
nghiệp. Cịn từ giữa thập niên 1990 đến nay, NICs đã chuyển sang mơ hình
CNH hướng tới cơng nghệ cao, bằng việc tập trung phát triển các ngành có hàm
lượng khoa học cao như: sản xuất xe hơi, máy công cụ, máy kỹ thuật số, người
máy…, làm đầu tàu cho tăng trưởng.


Bài học kinh nghiệm quan trọng nhất của NICs đối với các nước đi sau là
ở chỗ biết kết hợp khéo léo, thay thế lẫn nhau giữa các mơ hình CNH bằng
chính sách bổ sung lẫn nhau giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu,
trong đó hướng về xuất khẩu là trọng tâm. CNH đi từ bước nhỏ đến bước lớn, từ
điểm đến tuyến rồi đến diện, từ thị trường trong nước đến thị trường khu vực rồi
thị trường thế giới, từ cơng nghệ có hàm lượng lao động cao đến cơng nghệ có
hàm lượng vốn và khoa học cao. CNH kết hợp giữa thay thế nhập khẩu, hướng
vào xuất khẩu và hướng tới công nghệ cao được thực hiện bằng các bước đi lần
lượt theo một trình tự có tính chu kỳ là: bắt đầu từ nhập khẩu, đến thay thế nhập
khẩu, rồi xuất khẩu(1). Các quá trình này được diễn ra theo cách thay thế liên
tục cho nhau, với trình độ kỹ thuật – công nghệ chu kỳ sau cao hơn chu kỳ
trước. Cụ thể là, đầu tiên các nước này thực hiện xuất khẩu các sản phẩm truyền
thống của nền kinh tế nông nghiệp như lương thực, thực phẩm thô (bước 1); tiếp
đến là tự sản xuất các sản phẩm vốn trước đó phải nhập khẩu như quần áo, giày
dép và các hàng hóa tiêu dùng thơng dụng khác (bước 2); đến xuất khẩu các sản

phẩm chế biến có nguồn gốc từ nơng nghiệp như giấy, đồ gồ, dệt may, mía
đường... (bước 3); sau đó đến sản xuất hàng cơng nghiệp chế tạo lâu bền để thay
thế nhập khẩu như máy móc, dụng cụ... (bước 4); và cuối cùng là xuất khẩu
hàng công nghiệp chế tạo cao cấp như tivi, tủ lạnh, xe hơi, phần mềm... (bước
5). Tại Hàn Quốc và Đài Loan, quá trình chuyển từ bước 1 sang bước 2 diễn ra
vào khoảng những năm 1950 – 1960; bước 3 vào đầu thập niên 1960 – 1970;


10


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
bước 4 bắt đầu từ nửa cuối của thập niên 1970; và bước 5 là từ những năm cuối
1980 đầu 1990.


Việc kết hợp, thay thế lẫn nhau giữa các mô hình CNH nêu trên đã giúp
các NICs phát huy được tiềm năng nội sinh và cơ hội ngoại sinh để đẩy nhanh
quá trình CNH. Tại Đài Loan, sau 10 năm thực hiện mơ hình CNH hướng nội
(những năm 1950), với trọng tâm chính là thúc đẩy phát triển nơng nghiệp (lợi
thế của nước này lúc đó), tăng tích lũy từ nông nghiệp, lấy nông nghiệp nuôi
công nghiệp; đến những năm 1960 họ đã chuyển từ mơ hình CNH thay thế nhập
khẩu sang từng bước mở cửa, hướng về xuất khẩu. Thông qua việc thành lập
các khu chế xuất (Cao Hùng năm 1966; Đài Trung năm 1969), Chính phủ
khuyến khích các dự án đầu tư quy mô nhỏ, sử dụng nhiều lao động, quay vòng
vốn nhanh (nhất là các ngành giấy, kính, nhựa...), nền kinh tế Đài Loan đã có
bước phát triển khá nhanh. Vào những năm 1960 - 1970, Đài Loan đã xuất
khẩu sang thị trường Mỹ khoảng 40 - 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của

họ. Mặc dù vậy, họ vẫn chú trọng phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ để sản
xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sử
dụng được hàng ngàn lao động ở nông thôn. Cịn Hàn Quốc thì, trong thời gian
đầu vẫn phụ thuộc vào nước ngồi (chủ yếu với Nhật) thơng qua hình thức liên
doanh vốn để chế tạo động cơ và máy kéo nhỏ; cịn sau đó, khi đã đủ sức họ dần
dần tự sản xuất trong nước phần lớn các máy móc chủ yếu cho nơng nghiệp. Tại
Singapore, do đặc điểm riêng mà sự phụ thuộc vào nước ngoài là rất chặt, thậm
chí họ cịn phải dựa vào các cơng ty và nhà quản lý nước ngoài để xuất khẩu.
Hàng năm, các cơng ty nước ngồi chiếm đến 70% giá trị hàng xuất khẩu công
nghệ của Singapore.




Việc thực hiện chuyển giao cơng nghệ thơng qua con đường khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài là con đường phổ biến tại nhiều nước, nhưng Hàn
Quốc lại thực hiện điều đó chủ yếu bằng các hợp đồng nhập khẩu công nghệ và
bằng sáng chế kỹ thuật. Vì vậy, nếu các dự án đầu tư nước ngồi trực tiếp đưa
cơng nghệ vào Hàn Quốc thì phải chấp nhận điều kiện là tỷ lệ góp vốn của đối
tác chỉ dưới 49%. Để làm được như vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành qui
chế giám sát cần thiết để lựa chọn công nghệ tiên tiến với giá cả phù hợp; đồng
thời đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực để tiếp thu, học hỏi và phát triển
cơng nghệ. Ngồi ra, Chính phủ cũng tăng cường bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển với mục tiêu là phát triển và hoàn thiện các công nghệ


11


BÀI TẬP LỚN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
được du nhập từ nước ngồi và thành lập các cơ quan quản lý, các viện nghiên
cứu để phổ biến, khai thác và hướng dẫn chuyển giao cơng nghệ. Nhìn chung,
các NICs đều chú trọng việc nghiên cứu, phân loại tính chất cơng nghệ và đặc
điểm các kênh chuyển giao để tránh nhập những “công nghệ rác”, mà đi thẳng
vào cơng nghệ hiện đại, cơng nghệ cao. Điều đó đã có tác dụng làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế các NICs theo hướng hiện đại, tạo ra những ngành công nghiệp
mới có giá trị gia tăng cao, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia của họ.


Để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới, hầu hết các NICs đều
thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc “Xuất khẩu hay là Chết”. Nguyên tắc này vừa
nhằm đề cao vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp, vừa tạo ra sức ép đối với các
doanh nghiệp trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Theo nguyên tắc đó, nếu
doanh nghiệp nào khơng tạo được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế thì sẽ khơng có cơ hội tồn tại, bởi Chính phủ khơng “chạy theo”
doanh nghiệp mà chỉ thực hiện hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó, hay
thậm chí một cơng ty cá biệt nào đó trong thời kỳ đầu khi cịn non trẻ, cịn sau
đó một vài năm thì các cơng ty sẽ phải tự tồn tại bằng cách xác lập vị trí của
mình trên thị trường thế giới. Cho nên, những công ty nào chỉ quen dựa dẫm
vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước mà
không phải đối mặt với áp lực cạnh tranh... thì sớm muộn cũng sẽ bị thất bại(2).




Ngày nay, đối với các nước thực hiện CNH muộn, việc thực hiện mơ hình
cơng nghiệp hóa xen kẽ giữa thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu đã trở
thành xu thế tất yếu, nhưng kết hợp thế nào để đạt đến thành cơng sự nghiệp

CNH thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có vai trị của các Chính phủ.
Vì vậy, kinh nghiệm của các nước đi trước là bài học bổ ích cho các nước đi sau
trong vấn đề này.




II.

Phân tích nội dung
1.
Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII ( tháng 1-1994), đã có bước đột phá mới
trong nhận thức về khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. “ Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển


12


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động cho xã
hội cao”.
2.
Nguồn lực con người và các yếu tố cấu thành nguồn lực con người

Theo Đảng Cộng Sản Việt Nam : “ Nguồn lực con người Được xem xét ở
các tiêu chí: số lượng và chất lượng con người ( bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ , năng lực và phẩm chất); là tổng thể chất dự trữ, những
tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người; là
kinh nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm được tích lũy qua sự nếm trải trực
tiếp của con người tạo thành thói quen, kỹ năng tổng hợp của mỗi người, của
cộng đồng”.
3.
Đảng và chủ trương phát huy nguồn lực con người cho phát triển
nhanh và bền vững
Trong các yếu tố tham gia vào q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5
yếu tố chủ yếu là: vốn; khoa học công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế
chính trị và quản lý nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát
triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục và đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản
lý cũng như đội ngũ cơng nhân lành nghề giữ vai trị đặc biệt quan trọng. Nguồn
nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa địi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về
cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đại hội
XI chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo
đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”.
III.
Bản thân
1.

Đánh giá quan điểm
Đây là 1 quan điểm đúng đắn về mặt lý luận, Trong đường lối phát triển,
Đảng Cộng sản Việt Nam ln có những định hướng chuẩn giá trị cho việc xây
dựng con người Việt Nam. Điều đó được phản ánh trong việc Đảng ta luôn coi
trọng, đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo dục ”















13


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
đào tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện để hình
thành và phát triển các thế hệ con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng
về tâm hồn, có trình độ chun mơn cao đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp cách

mạng, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: con người là vốn
quý nhất và muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa.
Với những định hướng đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trị của nhân tố
con người, chúng ta đã xây nên những thế hệ con người Việt Nam có lý tưởng
cách mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý thức rõ ràng về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính những chuẩn giá trị đó là động lực quan
trọng thúc đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập và sáng tạo,
đem lại những thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.






2.

Thực tiễn
Từ sự đúng đắn về mặt lý luận của quan điểm này đã giúp Đảng đề ra các
chủ trương, chính sách và các biện pháp, giải pháp để đào tạo bồi dưỡng, phát
huy nguồn nhân lực con người:
- Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm lực trí
tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trí tuệ là một trong những
chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời đại
cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa học
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức
hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống

cho con người, trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất
nước.
- Hai là tạo lập mơi trường để hồn thiện và phát triển con người. Đó một
mơi trường kinh tế phát triển, mơi trường chính trị ổn định, mơi trường văn hóa
- xã hội lành mạnh, trong đó mỗi cá nhân sống, lao động sáng tạo, cống hiến và
hưởng thụ hài hòa.Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin về con người vào hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay để hoạch định
phương hướng và giải pháp phát triển con người. Trước hết, Đảng lãnh đạo
nhân dân kiên định trên con đường đổi mới, xây dựng xã hội dân chủ vì lợi ích










14


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Cơng
chân chính và phẩm giá con người. Văn kiện Đại hội XII đã khẳng định rõ:
“Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân” . Đồng thời hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây

dựng con người hướng tới các giá trị phổ quát của nhân loại là chân - thiện mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của cơng dân; nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập; xây
dựng và phát triển lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”;
nâng cao ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật;
phát huy tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia
đình và xã hội. Vì vậy, các yếu tố trên là mơi trường để hồn thiện và phát triển
con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay.
- Ba là tạo động lực để phát huy nhân tố con người. Để phát huy nhân tố
con người cần phải giải quyết hài hịa mối quan hệ về lợi ích - giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Lợi ích riêng là động
lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con người. Con người ở bất kỳ thời đại nào
cũng hoạt động trước hết cho lợi ích của bản thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân
đóng vai trị trực tiếp, cơ sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của
con người. Lợi ích cá nhân là nhân tố quyết định trước hết, là cơ sở để thực hiện
lợi ích xã hội. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là hướng vào giải quyết những nhu cầu
chung của nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích xã
hội đóng vai trị là điều kiện và định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân.
Không chỉ quan tâm đến lợi riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thực hiện
các chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phục vụ
lợi ích chung. Lợi ích chung ln bao hàm và khơng mâu thuẫn với lợi ích riêng
và lợi ích cá nhân. Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân” .











15


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
- Đảng coi chăm lo đời sống của nhân dân, cán bộ công nhân viên chức.
Năm nào cũng nâng lương cho cán bộ. người lao động.
- Thực hành chế độ bảo hiểm y tế bắt buộc, y tế tự nguyện. Đảng có hẳn 1
nghị quyết về dân số về CSSK
3.
Trách nhiệm bản thân
+
Trước hết, là 1 công dân của nước CHXHCN VIệt Nam, tôi cần
phải hiểu rõ và nắm vững quan điểm của Đảng về các nghị quyết được đề ra.
Các nghị quyết được đề ra tất cả đều nhắm tới lợi ích của người dân và đất
nước. Đặc biệt là quan điểm của ĐCSVN về CNH, HĐH thời kì đổi mới “ lấy
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”.
Lấy ví dụ, khi cịn là học sinh , tơi được hưởng 1 nền giáo dục toàn diện về
mọi mặt về kiến thức và đạo đức để trở thành một cơng hồn chỉnh có thể cống
hiến giúp đất nước phát triển sánh ngang với thế giới, như Bác Hồ đã từng nói

rằng với những mầm non tương lai của đất nước rằng: "Non sơng Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu". Bên cạnh đó, việc được đào tạo tồn diện giúp tơi có thể đáp ứng được
nền kinh tế thị trường đầy biến động hiện nay.
Khi đã hiểu được những quan điểm của Đảng đều hướng tới, mỗi chúng ta
phải có trách nhiệm tuyên truyền quan điểm đó ra xã hội nhằm đấu tranh chống
lại sự xuyên tạc từ các thế lực thù địch, chống phá nhà nước. Là một công dân
yêu nước, tơi khơng những có trách nhiệm gánh vác non sơng mà cịn có trách
nhiệm bảo vệ non sơng này trước động cơ xấu của thế lực thù địch.
+
Là 1 sinh viên năm nhất của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân,
chúng ta cần có nghĩa vụ rèn luyện bản thân cho thật tốt. Tơi ln muốn bản
thân phải có ý thức tôi luyện bồi dưỡng với tư cách, năng lực chân thực
- Về thể lực, phải rèn luyện thường xuyên, sinh hoạt điều độ, không thức
khuya, phải tập thể dục điều độ, học tập tốt môn giáo dục thể chất, ăn uống đầy
đủ chất lượng. Như Bác Hồ đã từng nói: “ Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả
nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”. Chỉ
khi bản thân khỏe mạnh thì mới có sức lực và trí lực góp sức cho xã hội và tổ
quốc.
- Về trí lực, là một sinh viên nên rèn giũa ý thức học tập tự giác, đi học
đúng giờ thể hiện ý thức tôn trọng giảng viên và ý chí “ vượt sướng” của bản
thân. Bên cạnh đó nên có ý thức theo dõi bài giảng của giảng viên, tìm tịi chủ





























16


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
đề và rèn luyện tư duy phản biện cho từng vấn đề. Luôn luôn ý thức được được
rằng “ Lao động là vinh quang”, “ Trên con đường thành công khơng có dấu
chân của kẻ lười biếng”. Để phát triển trí lực tồn diện, ngồi việc trau dồi ‘

kiến thức chuyên môn hẹp’, tôi cần phải trau dồi thêm ‘ kiến thức ngồi chun
mơn hẹp’ bao gồm: chính trị, lịch sử, địa lý, văn hóa- xã hội, ngoại ngữ, kỹ
năng mềm và kỹ năng tin học.
Sau khi rèn giũa được ý chí của bản thân, tơi cần lập cho mình một kế
hoạch học tập cụ thể. Với mục tiêu cụ thể đó là lĩnh hội được tất cả các kiến
thức về kinh tế, phân bổ thời gian cho học tập khoa học để đạt năng suất cao
nhất.
Bên cạnh đó, tơi cần tham gia thêm các dự án nghiên cứu khoa học của
nhà trường giúp bản thân củng cố, tổng hợp và nâng cao kiến thức đã học, tiếp
cận và biết vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học; giúp tơi đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu những vấn đề cụ thể mà chun mơn đặt ra. Hơn nữa, cịn giúp
tơi vận dụng kiến thức đã học và phương pháp nghiên cứu khoa học để giải
quyết một số vấn đề khoa học gắn với thực tiễn.
- Về đạo đức, tôi cần phải biết rằng đạo đức là làm được cái gì góp ích cho
xã hội này chứ khơng phải chỉ ngồi đấy nói xng mà khơng thực hiện, đó là
những kẻ đạo đức giả. Tơi cịn cần học tập và noi theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về đức tính tiết kiệm và khiêm tốn. Bên cạnh đó, tơi phải bỏ đi suy
nghĩ hẹp hịi, ln suy nghĩ vì lợi ích của mình mà làm tổn hại người khác hay
dùng con mắt chủ quan của cá nhân mà đi phán xét người khác. Đặc biệt, khi
còn trẻ bản thân cần phải loại bỏ được sự lười biếng, ỷ lại. Bởi vì người lười
biếng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của cuộc đời.
- Cuối cùng là về phần kỹ năng, sống trong một xã hội hiện đại khơng
ngừng phát triển từng với tốc độ chóng mặt. Hiện tại Việt Nam đang từng bước
thực hiện cuộc cách mạng 4.0, nên yêu cầu về lao động chất lượng cao rất cao.
Thế nên việc học các kỹ năng là rất cần thiết, các kỹ năng bao gồm: kỹ năng
thuyết trình, làm việc nhóm, tin học và ngoại ngữ. Bên cạnh đó, khi học chun
ngành kinh tế quốc tế tơi cịn cần học thêm kỹ năng đàm phán quốc tế và tìm
hiểu văn hóa của các nước.
IV. Kết luận
Như vậy, vấn đề con người và phá huy nhân tố con người luôn được Đảng

Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất
nước, với quan điểm đổi mới xuất phát từ con người, vì mục tiêu con người và
“lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh


















17


BÀI TẬP LỚN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIẢNG VIÊN: TS.Nguyễn Hữu Công
và bền vững”. Sau 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con
người, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên

con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” ; để
lại những bài học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó “đổi mới phải luôn
quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân phát huy
vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân
dân…”. Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ
và thách thức mới, để tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều kiện cách
mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, trong đó, tập trung vào
một số giải pháp như: Phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước; tạo lập mơi trường để hồn thiện
và phát triển con người; đồng thời tạo động lực để phát huy nhân tố con người,
vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”… con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.


18



×