Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học phổ thông tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 123 trang )


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

COM

-----------------------

KS.

Dương Thị Thúy Nga

Nâng cao vai trị của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các

BOO

trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình hiện nay
Chuyên ngành

: 60 22 85

KIL
O

Mã số

: Chủ nghĩa xã hội khoa học

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS NGUYỄN VĂN OÁNH



HÀ NỘI - 2006
1



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

COM

Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, nước ta đang bước vào một thời kỳ
phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận lợi
và khó khăn, thử thách phải vượt qua. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Lấy việc phát triển nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội IX của Đảng chỉ

KS.

rõ: tiếp tục “phát huy nhân tố con người” và “tăng cường nguồn lực con người” để
“từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao" để "tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN" và "đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức". Bởi lẽ, con

BOO

người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, đầu tư cho con người

chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo đảm vững bền cho sự phồn
thịnh của mỗi quốc gia.

GD-ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong hệ
thống trường học là con đường ngắn nhất và khoa học nhất để truyền thụ tri thức
cho người học một cách cơ bản, có hệ thống và hiệu quả. Hệ thống giáo dục nước

KIL
O

ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và mang tính phát
triển. Đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu GD-ĐT, là người
xây dựng cho người học thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị cho người
học tri thức và phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo.
Vì vậy, vai trị của đội ngũ nhà giáo rất quan trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu
ấn trong tương lai. Khi nói về vai trò của đội ngũ nhà giáo, tại hội nghị giáo dục ở
Australia năm 1993 các đại biểu đã đưa ra nhận định: “Người giáo viên sẽ là người
có trách nhiệm làm thay đổi thế giới”. Đảng ta cũng xác định “Giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh” [9, tr.38-39].
2



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân, các trường THPT
là một cấp học, một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa bậc
tiểu học, THCS với bậc đại học. Nếu giáo dục đại học là khâu trực tiếp đào tạo

COM


nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quá trình
CNH, HĐH đất nước, thì giáo dục THPT là khâu chuẩn bị cho học sinh THPT – bộ
phận quan trọng của nguồn nhân lực tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động. Ở cấp học này, đội ngũ nhà giáo có vai trị rất quan trọng trong việc đào tạo
học sinh thành nguồn nhân lực có tri thức, có năng lực và phẩm chất, có đủ điều
kiện để tiếp cận bậc GD-ĐT cao hơn hoặc lao động ở một ngành nghề cụ thể khi

KS.

chưa có khả năng học tiếp. Nhưng hiện nay trong các trường THPT “đội ngũ nhà
giáo vừa thiếu lại vừa thừa, một bộ phận nhỏ nhà giáo chưa đạt chuẩn đào tạo, một
số thiếu năng lực giảng dạy và tinh thần trách nhiệm. Đáng lo ngại là tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường đã làm xói mịn phẩm chất của một số nhà giáo gây ảnh

BOO

hưởng xấu đến uy tín người thầy trong xã hội” [3, tr.21]. Điều đó làm hạn chế việc
thực hiện vai trò đào tạo nguồn nhân lực của đội ngũ nhà giáo, đồng thời là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực trạng: nhiều học sinh kiến thức lệch
lạc, thiếu hiểu biết về các vấn đề chính trị - xã hội, một bộ phận học sinh suy thoái
về đạo đức, lối sống; phần lớn học sinh sau khi tốt nghiệp THPT thiếu khả năng tự
tìm kiếm việc làm, chưa vững vàng trước những biến đổi phức tạp của cuộc sống.

KIL
O

Chất lượng đào tạo ở cấp học này chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Đặc
biệt, vào thời điểm hiện nay dấu hiệu của sự khủng hoảng trong GD-ĐT đã đến
mức khiến xã hội phải lên tiếng.


Là người đã từng trực tiếp tham gia công tác giáo dục ở một trường THPT
thuộc tỉnh Thái Bình, với mong muốn thơng qua việc khảo sát vai trị của đội ngũ
nhà giáo ở một tỉnh để có thể phát hiện những tiềm năng đang tiềm tàng và khơi
dậy năng lực sáng tạo, nhiệt tình cống hiến của đội ngũ nhà giáo trong công tác
giáo dục thế hệ công dân mới của đất nước, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao

3



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
vai trị của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các
trường trung học phổ thơng tỉnh Thái Bình hiện nay” .
2. Tình hình nghiên cứu

COM

Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của GD-ĐT và
vai trò của đội ngũ nhà giáo đối với việc phát triển nguồn nhân lực nên ở nước ta đã
có một số cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập tới các khía cạnh khác nhau của
vấn đề nhà giáo và vai trị của đội ngũ nhà giáo:

Những cơng trình có tính chất định hướng cho việc nghiên cứu về mối quan
hệ giữa GD-ĐT với việc phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ nhà giáo trong mối

KS.

quan hệ đó như: “Con người Việt Nam, mục tiêu và động lực phát triển kinh tế – xã
hội” mã số KX.07 (1991-1995) do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên với nhiều vấn
đề được phân tích trong đó có các vấn đề phát triển GD-ĐT, bồi dưỡng và đào tạo

lại đội ngũ nhân lực, gia đình - nhà trường - xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn,

BOO

giáo dục và đãi ngộ người tài…; “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21,
kinh nghiệm của các quốc gia” của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính
trị quốc gia (2002), là tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có
liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục.
Những cơng trình nghiên cứu khoa học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm, vai
trò của đội ngũ nhà giáo trong giai đoạn hiện nay như: luận án Tiến sĩ triết học của

KIL
O

Phạm Văn Thanh (2001): “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin trong
các trường đại học ở nước ta hiện nay”, luận án chủ yếu bàn về đội ngũ nhà giáo
Mác-Lênin và vai trò của đội ngũ này trong các trường đại học; “Trí thức giáo dục
đại học Việt nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” của Nguyễn Văn Sơn, Nxb
Chính trị quốc gia (2002) với nội dung xây dựng đội ngũ nhà giáo ở các trường đại
học đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay; luận án Tiến sĩ
triết học của Đỗ Tuyết Bảo (2001) “Giáo dục đạo đức cho học sinh THCS tại thành
phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” đi sâu nghiên cứu vai trị, ý
nghĩa của GD-ĐT đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh
4



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
THCS trong điều kiện mới; luận văn Thạc sĩ triết học của Nguyễn Như Thơ (1998)
“Kinh tế thị trường với sự hình thành và phát triển nhân cách của người thầy giáo

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” đã lý giải những biến đổi trong quá trình hình

COM

thành và xây dựng nhân cách sư phạm cho đội ngũ nhà giáo; luận văn thạc sĩ triết
học của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2003) “Giáo dục đạo đức XHCN qua bộ môn Giáo
dục công dân cho học sinh THPT ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu” với những giải pháp
đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT...

Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu về
vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường

KS.

THPT trên địa bàn một tỉnh, trong đó có tỉnh Thái Bình. Do vậy, trên cơ sở kế thừa
những thành quả của các cơng trình khoa học đi trước, đứng ở giác độ chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao vai trị của đội
ngũ nhà giáo trong q trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trung học

BOO

phổ thông tỉnh Thái Bình hiện nay” để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Trên cơ sở lý luận và làm rõ thực trạng vai trị của đội ngũ nhà
giáo trong q trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình,
đưa ra giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trị của đội ngũ nhà giáo trong q
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT của tỉnh.

KIL
O


* Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những khái niệm: đội ngũ nhà giáo, nguồn nhân lực, học sinh
THPT, từ đó phân tích đặc điểm, vai trò của đội ngũ nhà giáo với tư cách là chủ thể
quan trọng trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT.
- Đánh giá đúng thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào
tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tại tỉnh Thái Bình hiện nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình.

5



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nghiên cứu đội ngũ nhà giáo dưới góc độ chính trị - xã hội thể
hiện trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.

COM

* Phạm vi: Vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong
những năm gần đây.

Địa bàn nghiên cứu: Các trường THPT tỉnh Thái Bình.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư


KS.

tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của đội ngũ
nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn lực học sinh THPT.
* Cơ sở thực tiễn:

Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động của đội ngũ nhà giáo ở các trường
lực.

BOO

THPT tỉnh Thái Bình hiện nay trong mối quan hệ với quá trình đào tạo nguồn nhân

* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và lịch sử,
đề.

KIL
O

thống kê, điều tra xã hội học…, gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội của vấn
6. Những đóng góp mới của luận văn
Xác định rõ quan hệ giữa đội ngũ nhà giáo với nguồn lực học sinh THPT
trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn.

Xác định các xu hướng biến động về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT.
Xác định quan điểm và hệ thống giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ

nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trong thời gian
tới.
6



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
7. Ý nghĩa của luận văn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức
đầy đủ hơn về vai trị của đội ngũ nhà giáo trong q trình đào tạo nguồn nhân lực;

COM

làm cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo ở các trường
THPT; làm tài liệu tham khảo cho ngành GD-ĐT mà trước hết là ngành GD-ĐT
Thái Bình, góp phần làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu một số vấn đề về trí thức,
con người, nguồn nhân lực.
8. Kết cấu của luận văn

KIL
O

BOO

kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

KS.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được


7



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Chương 1. NGUỒN LỰC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG VÀ
VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO

COM

NGUỒN NHÂN LỰC NÀY

1.1. NGUỒN LỰC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ VAI TRÒ CỦA
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1 Quan niệm về nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc

KS.

phát triển nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực

Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, quốc gia nào
cũng nhận thức rõ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế -

BOO

xã hội của đất nước. Nhiều quốc gia đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển
nguồn nhân lực và coi đó là vấn đề cốt lõi cho sự phát triển.
Khi nói đến nguồn nhân lực tức là muốn nói đến một tài sản quý, vốn q có
khả năng sinh sơi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý, vốn quý đó gắn

liền với con người - một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân lực, là đối tượng cần
nội dung sau:

KIL
O

được đầu tư, được giáo dục và được đào tạo. Có thể hiểu nguồn nhân lực ở một số

Thứ nhất, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người hiện thực và chất
lượng phát triển của con người gắn liền với bản chất xã hội.
Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con người hiện thực là một chỉnh thể
sinh học - xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Kết
hợp hai mặt sinh học và xã hội, con người có một năng lực tiềm ẩn (tiềm năng), khi
được sử dụng và gặp mơi trường thuận lợi thì tiềm năng ấy được phát huy, lúc đó
con người trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Mơi trường đó
chính là hoạt động lao động - hoạt động bản chất nhất của con người nhằm tạo ra
8



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống. Khẳng định điều này, Ăngghen nói: “Lao
động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến
một mức mà trên một nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản

COM

thân con người”[24, tr.641]. Và, mặc dù: “Bản thân chúng ta, với cả xương thịt,
máu mủ và đầu óc, chúng ta là thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự
nhiên”[24, tr.665] nhưng nhờ có lao động mà: “Người là giống vật duy nhất có thể

bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” [24, tr.673]. Lao động
mang ý nghĩa nhân bản sâu xa bởi trong lao động con người đã làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã làm nên lịch sử của cả xã hội lồi người.

KS.

Điều đó cho thấy, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử - xã hội thì đặc
trưng bản chất nhất của nguồn nhân lực là sự phản ánh trình độ phát triển, mức độ
hồn thiện con người trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chính các hoạt động
nhận thức thực tiễn của con người đã làm hồn thiện nhân cách, trình độ, trí tuệ và

BOO

thể lực của con người, giúp con người thực hiện các chức năng xã hội của mình. Vì
vậy, khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển cả mặt sinh học (sức khỏe, nuôi
dưỡng, vệ sinh, môi trường...) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo đức, lối
sống...) cho con người. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng, tiềm năng của
nguồn nhân lực đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trị của nguồn
nhân lực.

KIL
O

Thứ hai, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người trong tư cách cá nhân
và cá thể tồn tại, hoạt động và tự biểu hiện đời sống của mình trong sự tác động
qua lại với những người khác, với cả cộng đồng, đồng thời chịu tác động của các
quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử - xã hội mà cá nhân đó đang sinh sống.
Khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, các nhà
triết học mácxít đã chứng minh rằng: con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng
thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhưng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh của

con người lại chỉ được thực hiện trong mối quan hệ với cộng đồng. Xã hội và quan
hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện bản tính phong phú và tư duy sáng tạo
9



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
của mình. Do đó, khả năng của con người hay của nguồn nhân lực được huy động
vào quá trình phát triển xã hội sẽ trở thành những thông số quan trọng để nghiên
cứu và điều chỉnh một cách có ý thức nguồn nhân lực của từng quốc gia hoặc từng

COM

địa phương.

Thứ ba, nói đến nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trị tích cực, sáng
tạo của con người trong hoạt động thực tiễn, thể hiện ở vai trị chủ thể sáng tạo
trong q trình phát triển, đồng thời cũng là khách thể của quá trình phát triển, thể
hiện trong việc con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo bản thân.
Các nhà mácxít khẳng định: sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội

KS.

trong lịch sử là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mà trong lực lượng sản
xuất, con người là yếu tố cách mạng và năng động nhất. Chính con người đã làm
nên những biến đổi về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để rồi đưa xã hội
tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng

BOO


tạo ra xã hội ở mức độ đó đã cho thấy: trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con
người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng
minh, ở đâu các lực lượng cách mạng có ý thức đầy đủ về vai trị của con người, có
giải pháp hiện thực hóa vai trị của con người thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ
giành thắng lợi. Với ý nghĩa đó, xét trong q trình phát triển thì con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực.

KIL
O

Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
tục nghiên cứu và khẳng định, con người là những cá nhân cụ thể, vừa tồn tại với tư
cách cá nhân với những nhu cầu, khát vọng và năng lực tiềm tàng, lại vừa tồn tại
với tư cách là những thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Bằng năng
lực và trách nhiệm đối với xã hội, con người có vai trị to lớn, quyết định tới thành
công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân
dân. Người viết: “Vơ luận việc gì đều do con người làm ra” [30, tr.113]. Rằng
“Phải bồi dưỡng, đào tạo và phát huy năng lực của con người, của từng cá nhân và
của cả cộng đồng dân tộc [32, tr.56].
10



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Từ cơ sở trên có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể những yếu
tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, trình độ tri thức, vị thế xã hội... tạo nên
năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá

COM


trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ
thể. Nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng
nhất của dân số, của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh
thần cho xã hội.

1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và vai trị của nó đối với sự phát triển xã hội

KS.

Để phát triển kinh tế - xã hội cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân
lực có vai trị quyết định sự phát triển, vì con người vừa là một nguồn lực của phát
triển, vừa là chủ thể của các nguồn lực khác. Con người bằng lao động sáng tạo đã
phát hiện ra ngày càng nhiều nguồn lực trong tự nhiên và khơi dậy tác dụng của các

BOO

nguồn lực tự nhiên tạo thành những nguồn lực mới, làm tăng lên những khả năng
có thể có của đất nước, của dân tộc cho sự phát triển. Mặt khác do đặc tính lao
động sáng tạo của con người mà nguồn nhân lực trở nên sinh động và không cạn
kiệt, hơn nữa nguồn nhân lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên
gấp bội. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.

KIL
O

Cách đây hơn 150 năm, Mác đã đề cập tới phát triển con người tồn diện, lấy
đó làm cơ sở cho sự phát triển xã hội CSCN. Ông cho rằng sự phát triển lực lượng
sản xuất trước hết là: “Phát triển sự phong phú của bản chất con người, như là một
mục tiêu tự thân”[26, tr.168]. Theo Mác-Ăngghen, cuộc đấu tranh của những người

cộng sản chống lại trật tự tư sản chính là nhằm mục đích “tạo ra hồn cảnh có tính
người” để “phát triển những năng lực phẩm chất người”. Kết quả của cuộc đấu
tranh đó là sự xuất hiện một liên hợp, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. Nguồn nhân lực vừa là một yếu
tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Do đó,
11



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư, là q trình bồi dưỡng, đào
tạo, sử dụng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra cho lực lượng

của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

COM

này những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
Việc phát hiện và làm bộc lộ tiềm năng của nguồn nhân lực nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của con người chỉ có thể thơng qua hoạt động thực tiễn, qua đó
làm tích cực hóa nguồn nhân lực, tạo ra sự giải phóng cho tiềm năng của con người
để dẫn tới sự sáng tạo của con người. Vấn đề là phải phát triển một nguồn nhân lực
như thế nào, làm thế nào để khơi dậy và phát huy được vai trị của của nguồn nhân

KS.

lực đó?

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để xây dựng CNXH và CNCS
cần phải có một nguồn nhân lực có chất lượng, nguồn nhân lực đó chính là những

con người mới XHCN. Thời Mác-Ăngghen, tuy chưa có những điều kiện khách

BOO

quan cho sự ra đời của con người mới XHCN nhưng qua việc nghiên cứu những
quy luật phát triển nội tại của CNTB, các ơng đã phác họa những nét chính của con
người mới đại diện cho nguồn nhân lực của chế độ xã hội mới. Đó là những con
người phát triển tồn diện, khơng bị trói buộc suốt đời vào một sự phân công lao
động nào, những con người lấy lao động làm nguồn hứng thú duy nhất trong đời
sống, ngày càng có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ

KIL
O

xã hội và làm chủ bản thân. Lênin cũng nói đến con người mới khá cụ thể, đó là
những con người có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực làm chủ, hăng say lao
động, coi trọng sản xuất, coi trọng của cơng, có kỷ luật tự giác cao, có tri thức khoa
học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại, vì
“người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi làm giàu trí tuệ của mình
bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”[21, tr.8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng thành cơng CNXH thì phải có những
con người XHCN, đó là những con người vừa hồng vừa chuyên, vừa có đức vừa có
tài, những con người phát triển tồn diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí, những
12



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
con người u nước, u chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những luận điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong vấn đề đào tạo một nguồn nhân lực với những con người cường tráng về

COM

thể chất, trong sáng về tinh thần, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cách đáp
ứng được sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc tạo ra
nguồn nhân lực để xây dựng xã hội là sự nghiệp của nhiều “binh chủng”, trong đó
ngành GD-ĐT đóng vai trị quyết định.

1.1.1.3. Giáo dục - đào tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định chất lượng nguồn

KS.

nhân lực

Nguồn nhân lực được phát triển bằng nhiều con đường khác nhau, song GDĐT là con đường có hiệu quả nhất. GD-ĐT là hoạt động đặc biệt chỉ có trong xã
hội lồi người, đó là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dưỡng và phát triển

BOO

các phẩm chất và năng lực cho con người cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức
khỏe và nghề nghiệp. Ngay từ khi CNXH còn là học thuyết, Mác-Ăngghen đã đánh
giá cao vai trò của sự nghiệp giáo dục, các ông cho rằng giáo dục là nhiệm vụ cần
thiết, bắt buộc đối với mọi người. Trong tác phẩm “Nguyên lý của CNCS”, MácĂngghen đã nói tới chế độ giáo dục trong một xã hội tổ chức theo nguyên tắc
CSCN là “giáo dục công cộng, không mất tiền cho tất cả trẻ em”, giáo dục tồn

KIL
O

diện cả “trí dục, thể dục” và “kỹ thuật bách khoa”. Các ông nhấn mạnh: sự nghiệp

xây dựng xã hội mới trong đó cùng với phát triển kinh tế cịn phải xây dựng văn
hóa, đào tạo con người, vì thế cần phải chú ý đến nhiệm vụ giáo dục, coi đó là biện
pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức
của xã hội mới. Lênin đã vận dụng quan điểm của Mác-Ăngghen để phát triển giáo
dục ở nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười. Trong lúc nước Nga cịn đang
rất khó khăn, nghèo về kinh tế, lạc hậu về văn hóa, …Lênin đã nhận thấy việc nâng
cao trình độ văn hóa, giáo dục và kỹ thuật là vơ cùng cần thiết để thoát khỏi tối
tăm, nghèo nàn, bệnh tật. Ơng nhấn mạnh: lúc này Nhà nước Xơ Viết phải coi phát
13



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
triển giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm; tất cả mọi người, đặc biệt là thanh niên
phải có nhiệm vụ học tập vì nếu không xây dựng được một nền học vấn hiện đại thì
“CNCS cũng chỉ là một nguyện vọng mà thơi”[22, tr.175]. Những luận điểm của

COM

Mác-Ăngghen và Lênin cùng những kinh nghiệm thực tiễn về tầm quan trọng của
giáo dục trong quá trình đào tạo con người mới để xây dựng xã hội mới đến nay
vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi sáng cho các dân tộc muốn có sự phát triển
nhanh và bền vững.

Việt Nam là một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, trọng học vấn. Từ ngàn xưa
ông cha ta đã đúc kết nên bài học lịch sử: để xây dựng xã tắc vững bền, để quốc gia

KS.

cường thịnh thì phải chăm lo cho nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhà bác học Lê

Quý Đôn đã từng khẳng định “Phi trí bất hưng”, nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội
Châu cũng cho rằng: Người Việt Nam phải ngẩng cao đầu để tự cứu lấy mình bằng
tài năng và trí tuệ của mình, bằng việc khai trí và chấn hưng tân học. Chủ tịch Hồ

BOO

Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã học tập lý
luận và kinh nghiệm thế giới, kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc trong việc
xây dựng một nền giáo dục tiến bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường và mục tiêu đã lựa chọn.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn

KIL
O

thực dân dùng để cai trị chúng ta… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tơi
đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” [32, tr.8]. Rằng phải xây dựng một
nền giáo dục mới, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người”, vì “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người
XHCN” [35, tr.310].

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của
nguồn nhân lực, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội, con người là nguồn vốn, là tài sản quý giá nhất. Đảng ta
khẳng định: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
14




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ
bản và tồn diện về giáo dục”[11, tr.201], vì “Phát triển GD-ĐT là một trong những
động lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực

COM

con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”[11, tr.108]. Với phương châm giáo dục là quốc sách hàng đầu, Đảng ta
nhấn mạnh: một quốc gia phát triển cần có một nền kinh tế phát triển, một nền kinh
tế có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được một nguồn nhân lực với một trình
độ trí tuệ ngang tầm thời đại và một nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ
để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển các hoạt động

KS.

dịch vụ, hoạt động văn hóa, tinh thần, tất cả những điều này đều phụ thuộc vào
GD-ĐT. Hơn nữa GD-ĐT đóng vai trị chủ đạo trong việc hình thành con người lao
động mới - người công dân Việt Nam có lý tưởng XHCN, có lịng tự hào dân tộc,
có khả năng tiếp thu những tiến bộ của khoa học, cơng nghệ và tinh hoa văn hóa

BOO

của nhân loại, có khả năng lao động và tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho
xã hội. Với ý nghĩa đó Đảng ta chỉ rõ: giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực là một
khâu chủ yếu trong toàn bộ quá trình phát triển nguồn lực của đất nước. Trên nền
tảng học vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội, nhân cách…, giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực phải hướng tới việc hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng lao
động phù hợp với cách thức tổ chức, phân công lao động xã hội theo từng giai đoạn


KIL
O

phát triển, trong các lĩnh vực hoạt động và điều kiện cụ thể.
Những quan niệm trên là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về một bộ phận
quan trọng của nguồn nhân lực, đó là học sinh THPT - đối tượng tác động và cũng
là sản phẩm lao động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT.
1.1.2. Học sinh trung học phổ thông
1.1.2.1. Đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Theo điều 4 Luật Giáo dục (2005), giáo dục THPT là một bộ phận hữu cơ
của giáo dục phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân.
15



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Căn cứ vào điều 83 Luật Giáo dục (2005), những người đang học tập tại các cơ sở
giáo dục phổ thông (gồm bậc tiểu học và bậc trung học, trong bậc trung học có 2
cấp là cấp THCS và cấp THPT) và giáo dục nghề nghiệp (gồm các trường trung

COM

học chuyên nghiệp và dạy nghề) được gọi là học sinh.

Kết hợp điều 4 và điều 83, có thể hiểu học sinh THPT là những người đang
theo học ở cấp THPT, cấp học kế tiếp sau cấp THCS và “được thực hiện trong ba
năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp
THCS, có tuổi là mười lăm ”[20, tr.20]. Điều lệ trường trung học (2000) cũng quy
định rõ tuổi của học sinh THPT “là 15 đến 19”[13, tr.26].


KS.

Theo quy định của luật Lao động nước ta, nam tuổi từ 15-60; nữ tuổi từ 1555, có khả năng lao động đều thuộc lực lượng lao động. Như vậy, với lứa tuổi trên
học sinh THPT là lực lượng nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và là
bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực. Đây là lứa tuổi có sự phát triển đa dạng,

BOO

phong phú nhưng cũng phức tạp cả về mặt sinh học và mặt xã hội, là thời kỳ học
sinh bước vào giai đoạn cuối của quá trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia của
họ vào hoạt động nghề nghiệp và các dạng lao động xã hội. Xem xét nguồn nhân
lực trên cả hai phương diện cá thể và xã hội thì học sinh THPT với tư cách là một
bộ phận của nguồn nhân lực cũng được xem xét trên hai phương diện đó với những
đặc điểm tâm sinh lý, những hoạt động đặc trưng và nhân cách xác định.

KIL
O

Với độ tuổi từ 15 đến 19, học sinh THPT là những con người đang trưởng
thành, có khả năng phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhanh chóng về thể lực. Ở góc
độ sinh học, đây là lứa tuổi đang dần hoàn thiện về cơ thể, là giai đoạn các em phát
triển về chiều cao, trọng lượng và thể trạng với tốc độ nhanh. So với các thế hệ cha
anh trước đây, học sinh THPT ngày nay do được sống trong hịa bình, do đời sống
ngày một nâng cao và nhu cầu dinh dưỡng được đáp ứng ngày càng đầy đủ nên có
sự phát triển tốt hơn về thể lực. Các em đã có một thể hình đẹp hài hịa, một sức
khỏe dồi dào có thể đáp ứng được những địi hỏi về sự hao phí các sức lực thần
kinh, cơ bắp trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp khác nhau. Hơn nữa ở
16




THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
độ tuổi này tính chủ định phát triển mạnh, khả năng quan sát, ghi nhớ đạt ở mức độ
khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, khả năng tư duy lý luận, tư
duy trừu tượng cũng như năng lực tư duy độc lập sáng tạo được hình thành, phát

COM

triển và ngày càng hồn thiện. Đây chính là cơ sở để học sinh THPT có thể tiếp
nhận và xử lý một khối lượng lớn tri thức, là điều kiện để bồi dưỡng trí tuệ, tay
nghề, để trang bị chun mơn, nghề nghiệp và là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của
các em với tư cách là một bộ phận của nguồn nhân lực. Ở góc độ tâm lý, học sinh
THPT thích cái mới, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, nhiều ước mơ,
hồi bão, có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu tình bạn, tình yêu…Những đặc điểm này đã

KS.

tác động rất mạnh đến sự hình thành tư tưởng của các em, khi các em xác định
được niềm tin, lý tưởng thì các em có thể xả thân vì lý tưởng và phấn đấu với niềm
lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó. Ở các em
khơng có tính bảo thủ, trì trệ, dễ thích ứng với đường lối đổi mới, rất quan tâm đến

BOO

tương lai nên cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của thời cuộc.
Đây là điều kiện để học sinh THPT xác định được phương hướng tiến thân, lập
nghiệp và xây dựng sự nghiệp cho mình.

Với tư cách là nguồn nhân lực trẻ, đang được chuẩn bị để thực hiện chức
năng của một công dân có học vấn, được quyền tham gia vào các hoạt động lao

động, học tập và các mối quan hệ xã hội, nhân cách của học sinh THPT được hình

KIL
O

thành trong q trình xã hội hóa và giải quyết các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa
sự phát triển mạnh mẽ về thể lực, trí lực, những mơ ước nhiều chiều với khả năng
thực hiện những mơ ước đó theo định hướng xác định phù hợp với năng lực và điều
kiện vốn có của bản thân, của gia đình; giữa lượng thơng tin lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội… với khả năng tiếp nhận, xử lý, chọn lọc những thơng tin đó; giữa khối
lượng lớn tri thức phải học ở giai đoạn cuối của các trường phổ thông với những
nhu cầu hoạt động của tuổi trẻ; giữa tính phong phú, đa dạng của nghề nghiệp xã
hội, của tri thức với quỹ thời gian và điều kiện học tập có hạn của học sinh…Q
trình giải quyết những mâu thuẫn đó khiến cho học sinh THPT phát triển mạnh mẽ
17



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
về các mặt, nhất là về tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp và xu hướng
nghề nghiệp. Đây là thời kỳ của sự hình thành, ổn định về tính cách để chuẩn bị
cho các em tiến dần tới vị trí xã hội của một người cơng dân đích thực trong giai

COM

đoạn tiếp theo. Điểm nổi bật trong nhân cách của học sinh THPT là sự tự ý thức, tự
khẳng định mình, biết nhìn nhận và suy nghĩ về hành vi của mình so với chuẩn mực
của tập thể, biết đánh giá cái đúng sai trong hành vi của mình và những cá nhân
khác. Tuy nhiên sự đánh giá đó thường bị thiên lệch, hoặc đề cao quá mức bản thân
dẫn tới sự kiêu căng, hoặc lý tưởng hóa người khác một cách q mức dẫn tới mặc

cảm tự ty với chính mình. Làm cho các em biết người biết ta một cách khách quan

KS.

là cả một q trình địi hỏi nghệ thuật sư phạm của đội ngũ nhà giáo. ở học sinh
THPT, nhu cầu được sống trong một tập thể mạnh, có uy tín tốt đã tạo cho hoạt
động giao tiếp của các em mang tính xã hội rõ nét, các em đã biết được lợi ích của
những việc mình làm, biết tự điều chỉnh khi xảy ra xung khắc trong giao tiếp. Cùng

BOO

với giao tiếp, đời sống tình cảm của các em ngày càng phong phú, nó khơng chỉ
dừng lại ở những sở thích sinh hoạt thường nhật mà cịn được xây dựng trên những
mục đích lâu dài như phấn đấu trong học tập và tu dưỡng, trong các phong trào tập
thể… Trong quan hệ với người lớn tuổi, các em tự tin hơn, các em khơng chỉ biết
địi hỏi người lớn phải ưu ái những quyền lợi của cá nhân mà còn thấy được trách
nhiệm của bản thân trước gia đình, dịng họ, làng xóm. Tình cảm nam nữ cũng

KIL
O

được nảy sinh ở giai đoạn này. Có thể thấy mỗi nhân cách là một thế giới riêng, đặc
biệt là trong vấn đề tình cảm, do đó việc nhận biết, bồi dưỡng hoặc khắc phục
những biểu hiện sai lệch trong đời sống tình cảm của các em là cơng việc hết sức
nhạy cảm, đòi hỏi sự tỷ mỷ, cần mẫn và tấm lòng nhân ái bao dung của các nhà
giáo trong mọi tình huống giáo dục.

Học sinh THPT là nguồn nhân lực đang bước qua lứa tuổi vị thành niên để
trở thành một công dân trong cộng đồng xã hội, là nguồn nhân lực chuẩn bị bổ sung
vào lực lượng lao động có tri thức của xã hội, cho nên hoạt động của các em rất đa

dạng về loại hình và tính chất. Các hoạt động giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thể dục
18



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
thể thao trở thành nhu cầu thường trực, song hoạt động học tập vẫn là hoạt động
chủ đạo. Thái độ, động cơ lựa chọn đối với các môn học để thỏa mãn các khuynh
hướng nghề nghiệp là nét đặc thù so với học sinh cấp THCS. Vì thế, hoạt động của

COM

học sinh THPT mang tính năng động, độc lập và chủ động hơn. Đối tượng hoạt
động của học sinh THPT được mở rộng, nó khơng chỉ đóng khung trong khn khổ
nhà trường mà ngày càng tiếp cận với những hoạt động phong phú ngoài xã hội
thơng qua những nội dung sinh hoạt chính khóa, ngoại khóa và sự mở rộng giao lưu
của các em. Hoạt động của học sinh THPT diễn ra trong môi trường và những điều
kiện đã được thiết kế một cách có kế hoạch để chuẩn bị cho các em kết thúc giai

KS.

đoạn học tập ở phổ thông chuyển sang giai đoạn học đại học, học nghề, lập nghiệp.
Sự nghiêm túc của các kỳ thi vào các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp mà học sinh
THPT phải trải qua là những điều kiện khách quan ràng buộc các em vào hoạt động
học tập. Như vậy, hoạt động của học sinh THPT là q trình nhằm đạt tới mục đích

BOO

hồn thiện kiến thức phổ thông, chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp ở mức cao hơn. Điều này địi hỏi ở các em tính tự lập, chủ động, hoạt

động lý trí của bản thân và cách nhìn đúng đắn hơn những giá trị xã hội và những
gì vốn có của cá nhân. Do đó, đội ngũ nhà giáo cần hiểu rõ hoạt động đặc trưng của
học sinh ở cấp học này để có thể định hướng cho hoạt động đó theo mục tiêu đã xác
định.

KIL
O

Từ những phân tích trên có thể hiểu: Học sinh THPT là lứa tuổi chuyển tiếp
từ trẻ em sang người lớn, đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần và trí
tuệ, lứa tuổi với những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân cách và phẩm chất
của một cơng dân, hình thành thế giới quan và lý tưởng, là lứa tuổi ln ln tự
tìm hiểu bản thân mình và tìm hiểu người khác, lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách
xác định vị trí, vai trị của mình trong xã hội.

19



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
1.1.2.2. Vai trị của học sinh trung học phổ thông
Nếu con người là nguồn lực quý giá nhất của sự phát triển xã hội thì học sinh
THPT là bộ phận kế cận nguồn lực ấy. Sinh lực của một dân tộc, một quốc gia thể

COM

hiện ở chính lực lượng này, trong tương lai các em sẽ là lực lượng có khả năng dời
non lấp biển, là rường cột của nước nhà, là mùa xuân của nhân loại. Là những
thanh niên, lực lượng giàu tiềm năng phát triển, học sinh THPT chính là nguồn tài
sản vơ giá của đất nước hôm nay và mai sau.


Trước đây trong lý luận về con người, chủ nghĩa Mác-Lênin rất quan tâm
đến thanh niên, đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng thế

KS.

giới. C.Mác đã hình dung thấy tương lai của cả lồi người phụ thuộc vào thế hệ
cơng nhân đang lớn, cịn Lênin đã chỉ rõ vai trị của thanh niên khi ơng khẳng định
nhiệm vụ của nhà trường là “phải đào tạo được một thế hệ có khả năng thực hiện
vĩnh viễn CNCS”[21, tr.9]. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, vai trị của thanh niên

BOO

trong đó có học sinh THPT ln gắn với vận mệnh của dân tộc. Sẽ khơng thể giải
phóng được dân tộc khỏi cuộc sống nô lệ nếu không thức tỉnh được thế hệ trẻ.
Người viết: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh
niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”[30, tr.173]. Trong thư gửi học sinh
nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa, Người
khẳng định “cơng học tập của các cháu” sẽ góp “một phần lớn” để đem lại tương

KIL
O

lai tươi sáng cho dân tộc. Người xác định rõ vai trò của thế hệ trẻ là chủ nhân tương
lai của đất nước bởi vì “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do
thanh niên”[37, tr.185].

Ngày nay, Đảng ta đánh giá rất cao vai trị của thế hệ trẻ trong đó có học sinh
THPT. Đảng ta đã khẳng định, họ là những người giữ “vai trị xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[11, tr.126], họ chính là nguồn nhân lực đầy

tiềm năng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Vai trị đó
được khẳng định bởi những yếu tố sau:
20



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Một là, với tư cách là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực, học sinh
THPT đang học tập, tiếp thu tri thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để sau này tham
gia vào các lực lượng lao động xã hội, góp phần quyết định “Non sơng Việt Nam

COM

có trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang hay
không”[32, tr.33].

Hai là, học sinh THPT phần lớn là những Đồn viên Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, họ có sức khỏe, có tri thức, là cánh tay đắc lực “là đội dự bị tin cậy
của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế thừa sự nghiệp vẻ
vang của Đảng và Hồ Chủ Tịch”[10, tr.59].

KS.

Ba là, học sinh THPT là những người có học vấn phổ thơng hồn chỉnh, là
lực lượng quan trọng hàng năm bổ sung vào lực lượng học sinh trong các trường
trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, sinh viên các trường cao đẳng, đại
học ở nước ta. Với tiềm năng trí tuệ khá cao, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu

BOO


với thử thách, học sinh THPT sẽ là lực lượng lao động có trí tuệ trong tương lai.
Bốn là, học sinh THPT là nguồn nhân lực kế thừa và phát triển truyền thống
dân tộc, kế thừa những thành quả của các thế hệ đi trước, đồng thời đang được
chuẩn bị đầy đủ tri thức, đạo đức, sức khỏe, năng lực nghề nghiệp để sau này trực
tiếp tiếp bước cha anh xây dựng đất nước giàu mạnh, đồng thời có nhiệm vụ vẻ
vang là chăm lo dìu dắt thiếu niên nhi đồng để tạo ra sự thống nhất, nối tiếp, kế

KIL
O

thừa giữa các thế hệ nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, học sinh THPT với độ tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ và
tâm hồn, họ là lực lượng có khả năng nhận thức nhanh, trí nhớ tốt, độ nhạy cảm cao
để tiếp nhận những tri thức khoa học cơ bản, liên tục, hệ thống từ nhiều nguồn khác
nhau. Họ là một bộ phận của nguồn nhân lực, có vai trị quan trọng đối với tương
lai của nước nhà, được giáo dục theo yêu cầu của quá trình đào tạo nguồn nhân lực,
họ sẽ trở thành những con người tồn diện, có đức, có tài, có sức khỏe, có năng lực,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, là nguồn nhân lực đảm bảo cho sự thành công của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
21



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO TRONG VIỆC ĐÀO
TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.2.1.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo


COM

1.2.1. Đặc điểm của đội ngũ nhà giáo ở các trường trung học phổ thông

Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội, đã xuất hiện và tồn tại cùng
với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển
những kinh nghiệm, tri thức mà nhân loại đã tích lũy được. Nhiệm vụ đặc biệt đó từ

KS.

thời cổ đại đến nay đã trở thành một chức năng chuyên biệt và được giao cho các
nhà giáo.

Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, nhà giáo là một chức danh xã hội
được xếp đầu tiên và khơng hàm nghĩa giới tính. Theo từ điển Tiếng Việt, nhà giáo

BOO

là “Những người làm nghề dạy học”[55, tr.516]. Nếu hiểu như vậy thì có thể nói
rằng đất nước ta là đất nước của nghề dạy học, vì ở nước ta cứ biết chữ là có thể đi
dạy học, điều này thường thấy và rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến và thời kỳ Pháp
thuộc. Thời phong kiến, những người làm nghề dạy học gọi là thầy giáo (Về danh
hiệu được gọi là thầy đồ – thời nhà Lê gọi tắt là sinh đồ, thời nhà Nguyễn là tú tài).
Đây là những người rất được coi trọng, được xếp ở vị trí rất cao, vị trí thứ hai trong

KIL
O

ba bậc “quân, sư, phụ”, trước cả cha mẹ. Trong nhiều gia đình nghề dạy học là một

nghề truyền thống: cả ông cháu, cha con đều nối nghiệp làm thầy, có người thi đỗ
cao nhưng không chịu làm quan chỉ nhất quyết làm thầy giáo, có người làm quan
rồi cũng rời bỏ quan trường để lui về dạy học. Với quan niệm “nhất tự vi sư, bán tự
vi sư”, đã làm thầy giáo tự nhiên là được tất cả mọi người trong làng xóm kính
trọng, kể cả những thầy giáo khơng có danh tiếng hoặc đức hạnh khơng cao.
Sau Cách mạng tháng Tám, nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập ra đời.
Nền giáo dục đó địi hỏi phải có đội ngũ thầy giáo đáp ứng được nhiệm vụ diệt giặc
dốt- một trong những loại giặc nguy hiểm không kém giặc đói và giặc ngoại xâm.
22



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân tham gia chống nạn thất học của Hồ Chủ Tịch,
người chưa biết chữ phải coi học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, người biết
chữ có nghĩa vụ phải dạy người chưa biết chữ. Các lớp bình dân học vụ, các trường

COM

lớp bổ túc văn hóa, các trường lớp sư phạm kháng chiến được tổ chức, thu hút được
hàng triệu trẻ em và người lớn đi học, hàng vạn người biết chữ tham gia dạy học.
Người thầy giáo trong giai đoạn này là những người làm cơng tác xóa mù chữ cho
nhân dân để từng bước nâng cao dân trí phục vụ đắc lực cho cơng cuộc kháng chiến
và kiến quốc, xây dựng và phát triển đất nước.

Vừa tiến hành chiến dịch chống mù chữ, Đảng và Nhà nước chủ trương phát

KS.

triển giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học. Chủ trương cải cách

nền giáo dục thành nền giáo dục phát triển những năng lực sẵn có của thế hệ trẻ,
đào tạo thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực có trình độ, thành những người cơng dân
hữu ích cho đất nước. Nền giáo dục đã tiến dần từ mục tiêu nâng cao dân trí là chủ

BOO

yếu sang mục tiêu đào tạo nhân lực, nhân tài cho đất nước. Người thầy giáo giai
đoạn này không chỉ đơn thuần là những người biết chữ đi dạy cho mọi người biết
đọc, biết viết mà phải là một đội ngũ những người có trình độ, có năng lực, có nghệ
thuật sư phạm, tiến hành dạy học trong một tổ chức chặt chẽ theo một chương
trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Những nhà giáo thời nay phải có đủ điều kiện để
đào tạo được một lớp người có tri thức, sức khỏe, đạo đức, tay nghề, đào tạo được

KIL
O

một nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu của đất nước
trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, để làm rõ hơn khái niệm nhà giáo là
“Những người làm nghề dạy học” đồng thời quy định địa vị pháp lý của nhà giáo,
tại điều 70 của Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam
đã đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ về nhà giáo: “Nhà giáo là những người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác” [20, tr.56].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là nhà giáo. Những nhà giáo ở bậc đại
học được gọi là giảng viên, những nhà giáo ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục
23



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

nghề nghiệp, giáo dục phổ thơng trong đó có giáo dục THPT được gọi là giáo viên.
Như vậy, thầy giáo, giảng viên hay giáo viên chính là nhà giáo (từ đây trong luận
văn những thuật ngữ tương đương trên được dùng với nghĩa như nhau).

COM

Về đội ngũ nhà giáo, thuật ngữ “đội ngũ” được hiểu chung nhất là tập hợp
một số đông người cùng đặc điểm, chức năng hoặc nghề nghiệp...được tổ chức
thành một lực lượng xã hội. Do đó, đội ngũ nhà giáo là tập hợp những người làm
nghề dạy học hay những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường, cơ sở giáo dục khác, được tổ chức thành lực lượng và hoạt động theo mục
đích của ngành GD-ĐT đề ra.

KS.

Hai khái niệm nhà giáo và đội ngũ nhà giáo có mối liên hệ với nhau nhưng
khơng hồn tồn đồng nhất. Trước hết cả hai khái niệm đều phản ánh những mặt,
những khía cạnh liên quan đến cùng một đối tượng là những người làm nghề dạy
học. Song, khái niệm nhà giáo phản ánh mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ

BOO

biến của những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường với tính
cách là những cá nhân nói chung, từ đó giúp chúng ta phân biệt được một người
nào đó trong xã hội có phải là nhà giáo hay khơng. Cịn khái niệm đội ngũ nhà giáo
phản ánh mối liên hệ, thuộc tính bản chất, phổ biến về sức mạnh, vai trị của nhà
giáo với tính cách là cộng đồng được tổ chức thành lực lượng để thực hiện các hoạt
động có mục đích. Khái niệm này giúp chúng ta nhận biết và phân biệt về quy mơ,

KIL

O

các hình thức tồn tại, vận động, biến đổi, cơ chế sắp xếp trong một tổ chức nhất
định và ở những thời điểm cụ thể. Cả hai khái niệm đều là phương tiện giúp chúng
ta nhận định, đánh giá tương đối tồn diện và chính xác vai trị của nhà giáo với cả
tính cách cá nhân và cộng đồng để từ đó có những giải pháp nâng cao vai trị của
lực lượng này trong q trình đào tạo nguồn nhân lực.
1.1.2.2. Đặc điểm của nhà giáo ở các trường trung học phổ thông
Thời cổ đại, mỗi nhà giáo vừa tự xác định mục tiêu, nội dung và phương
pháp giáo dục, vừa trực tiếp lựa chọn người học và truyền thụ nội dung giáo dục
24



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
cho học trị của mình. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và giáo
dục nói riêng những chức năng đó khơng cịn tập trung ở một nhà giáo. Mặc dù chỉ
mang tính tương đối nhưng sự phân cơng chức năng này đã được phân hóa và hình

COM

thành ở ba nhóm chức năng: có những nhà giáo đảm nhiệm chức năng nghiên cứu
những vấn đề mục tiêu, nội dung, phương pháp (ta gọi là nhà giáo nghiên cứu giáo
dục); có những nhà giáo đảm nhiệm công việc truyền thụ những nội dung giáo dục
cho người học sau khi những nội dung đó đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền
quyết định (ta gọi là nhà giáo dạy học); có những nhà giáo chuyên hay chủ yếu làm
việc ở những cơ quan quản lý giáo dục (ta gọi là nhà giáo quản lý). Trong các

KS.


trường THPT, nhà giáo đảm nhiệm cả ba chức năng trên chỉ là số ít, cịn số đông
các nhà giáo chủ yếu đảm nhiệm việc dạy học, vì thế trong luận văn, chúng tơi chủ
yếu bàn về “đội ngũ nhà giáo dạy học” ở các trường THPT.
Giáo dục phổ thông là một bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, và là

BOO

một bộ phận quan trọng của hệ thống đào tạo nhân lực. Mục tiêu của giáo dục phổ
thơng là: “giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,
hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [20, tr.21].

KIL
O

Cấp THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa
cấp tiểu học, THCS với bậc đại học. Đây là cấp học làm cho hệ thống GD-ĐT nước
ta mang tính chỉnh thể, hệ thống và liên thơng. Bởi lẽ:
Nếu cấp tiểu học có mục tiêu hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS; cấp THCS có mục tiêu giúp học
sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn ở trình độ
cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
THPT, thì mục tiêu của cấp THPT là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những
25



×