Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Bộ ba bất khả thi - kết hợp tối ưu cho điều hành chính sách vĩ mô ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 135 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
-o0o-




CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2011”

TÊN CÔNG TRÌNH:
BỘ BA BẤT KHẢ THI - KẾT HỢP TỐ
I ƯU
CHO ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ 2011-2020



THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ


MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt
Danh mục đơn vị tiền tệ
Danh mục thuật ngữ kinh tế
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình
Danh mục phụ lục


PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VÀ
CÁC TRƯỜNG PHÁI VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI
1. Nghiên cứu bộ ba bất khả thi và các lý thuyết mở rộng 13
1.1 Các mô hình nền tảng dẫn đến lý thuyết bộ ba bất khả thi 13
1.1.1 Mô hình IS-LM mở rộng: Mô hình Mundell-Fleming 1
1.1.2 Lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển 5
1.2 Sự phát triển của Lý thuyết Bộ ba bất khả thi hiện đại 8
1.2.1 Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian 8
1.2.2 Dự trữ ngoại hối và mối liên hệ với bộ ba bất khả thi : sự phát triển của đồ
thị kim cương 9
1.3 Vấn đề định lượng trong bộ ba bất khả thi 24
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2 :
KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH VĨ MÔ
2. Kinh nghiệm của các quốc châu Á mới nổi trong việc điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô 17
2.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 17
2.1.1 Vấn đề kiểm soát vốn 17
2.1.2 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc 18


2.1.3 Chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Trung Quốc 19
2.1.4 Tác động từ việc gia tăng dự trữ ngoại hối trong mối liên hệ với Bộ ba bất
khả thi 20
2.1.5 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 35
2.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ 24

2.2.1 Hệ thống tỷ giá trên thực tế ở Ấn độ 24
2.2.2 Kiểm soát vốn 26
2.2.3 Bài học kinh nghiệm từ cách Ấn độ xử lý cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
Đông Á 28
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1990 ĐẾN NAY
3.1 Giai đoạn 1990-2007 31
3.1.1 Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990 - 2007 31
3.1.2 Vấn đề kiểm soát vốn: 32
3.1.2.1 Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI: 33
3.1.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài: 34
3.1.3 Chính sách tỷ giá: 36
3.1.4 Chính sách tiền tệ: 37
3.1.4.1 Vấn đề lạm phát 38
3.1.4.2 Mức cung tiền M2 và tăng trưởng tín dụng: 39
3.2 Giai đoạn 2008-2010 41
3.2.1 Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008 -2010: 41
3.2.2 Chính sách kiểm soát vốn 42
3.2.3 Chính sách tỷ giá 44
3.2.4 Chính sách tiền tệ 45
3.3 Giai đoạn đầu năm 2011 đến nay 48
3.3.1 Tổng quan kinh tế vĩ mô từ đầu năm 2011 đến nay 48
3.3.2 Nguy cơ lạm phát cao và những bất ổn vĩ mô 50
3.3.3 Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa 51


3.3.4 Chính sách tỷ giá 53
3.4 Dự trữ ngoại hối 54

3.4.1 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và giá trị nhập khẩu ……………………55
3.4.2
Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài ……… 56
3.4.3 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và mức cung tiền ………………………57
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VĨ MÔ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM – GÓC NHÌN TỪ BỘ
BA BẤT KHẢ THI
4.1 Phân tích tình hình hiện tại và nhận định vị thế tối ưu cho Việt Nam trên
tam giác bất khả thi giai đoạn hiện nay: 60
4.1.1 Vị trí Việt Nam trên tam giác bất khả thi 60
4.1.2 Bộ ba chính sách lý tưởng cho Việt Nam trong ngắn và trung hạn 62
4.2 Giải pháp cho Việt nam trong giai đoạn 2011-2020 77
4.2.1 Nhóm giải pháp chủ đạo 77
4.2.1.1 Giải pháp cho kiểm soát vốn 77
4.2.1.2 Giải pháp cho chính sách tỷ giá 67
4.2.1.3 Giải pháp cho chính sách tiền tệ: 69
4.2.2 Nhóm giải pháp bổ trợ 74
4.2.2.1 Phân quyền, phân nhiệm và công bố thông tin: 74
4.2.2.2 Vai trò tư vấn của giới học thuật và hội đồng chuyên gia 75
4.2.2.3 Hấp thu nguồn vốn trong một nền kinh tế mở cửa 76
4.2.2.4 Xem xét tác động của an ninh năng lượng và an ninh lương thực đến tình
hình vĩ mô của Việt Nam 77
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
PHẦN KẾT LUẬN






DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

WTO

Tổ chức thương mại thế giới
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN
Hiệp hội các quốc giá Đông Nam Á
EIU
Đơn vị dự báo, phân tích của tạp chí The Economist
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
WB
Ngân hàng thế giới
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTW
Ngân hàng trung ương



DANH MỤC ĐƠN VỊ TIỀN TỆ

USD
Đô la Mỹ

NDT


Nhân dân tệ Trung Quốc
VND
Tiền đồng Việt Nam







DANH MỤC THUẬT NGỮ KINH TẾ

GDP
Tổng sản phẩm quốc nội

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
MI
Chỉ số độc lập tiền tệ
ERS
Chỉ số ổn định tỷ giá
KAOPEN
Chỉ số hội nhập tài chính
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
UIP
Ngang giá lãi suất không phòng ngừa

IRP
Ngang giá lãi suất
PPP
Ngang giá sức mua
ICOR Hệ số hiệu quả đầu tư














DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tính ổn định của tỷ giá Rupi/USD
Bảng 3.1: Diễn biến tỷ giá năm 2008

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá
Hình 1.2: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt
Hình 1.3: Lý thuyết bộ ba bất khả thi
Hình 1.4: Lý thuyết bộ ba bất khả thi mở rộng
Hình 1.5: Đồ thị kim cương đối với các nước công nghiệp hoá
Hình 1.6: Đồ thị kim cương đối với các nền kinh tế mới nổi tại Châu Á và Trung Quốc

Hình 2.1: Tác động của các dòng vốn vào đối với chính sách tiền tệ của Trung Quốc
Hình 2.2: Tỷ giá hối đoái đồng nhân dân tệ trong giai đoạn 2007-2010
Hình 2.3: Lạm phát ở Trung Quốc qua các năm
Hình 2.4: Lãi suất đồng Nhân dân tệ qua các năm
Hình 3.1: Mô hình kim cương cho Việt Nam năm 1996
Hình 3.2: Mô hình kim cương cho Việt Nam năm 2004
Hình 3.3: Mô hình kim cương cho Việt Nam năm 2008
Hình 3.4: Tỷ lệ lạm phát Việt Nam, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng, 1996-2009
Hình 3.5: Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế của các nước trung bình giai đoạn
2003-2006
Hình 3.6: Tương quan giữa lạm phát và lãi suất Việt Nam năm 2010
Hình 3.7: Tăng trưởng tín dụng 2010
Hình 3.8: Mô hình kim cương cho Việt Nam năm 2010
Hình 3.9: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam giai đoạn 2007-2011
Hình 3.10: Xu hướng dự trữ ngoại hối ở Việt Nam thời gian qua
Hình 3.11: Dự trữ ngoại hối thể hiện theo tháng nhập khẩu
Hình 3.12: Biểu đồ thể hiện dự trữ ngoại hối/Nợ ngắn hạn

Hình 3.13: Cung tiền và tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên cung tiền
Hình 4.1: Mô hình kim cương của Chinn-Ito đối với lựa chọn chính sách Việt Nam


cho các năm 1996, 2004, 2008 và 2010
Hình 4.2: Lựa chọn chính sách kiểm soát vốn cho nền kinh tế
Hình 4.3: Thống kê của IMF về các chế độ tỷ giá hối đoái
Hình 4.4: Lựa chọn bộ ba chính sách cho Việt Nam hiện nay và năm 2020

DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Đo lường mức độ ổn định tỷ giá, độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính của
Việt Nam từ 1990 đến 2010

Phụ lục 2: Một số chỉ số tài chính Việt Nam trong giai đoạn 1990 đến 2010
Phụ lục 3: Sự khác biệt về trình độ phát triển của các quốc gia trong khu vực ASEAN
Phụ lục 4: Chính sách kiểm soát vốn có thể giải quyết đươc vấn đề bộ ba bất khả thi ở
các nước châu Á không?
Phụ lục 5: Kiểm định kiểm soát vốn ở Việt Nam
Phụ lục 6: Phát triển thuyết tam giác mở rộng – một hướng nghiên cứu bộ ba bất khả
thi














PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý thuyết bộ ba bất khả thi là một lý thuyết kinh tế nền tảng, phổ biến trong
kinh tế học vĩ mô. Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 tại Châu Á, vấn đề
bộ ba bất khả thi của từng quốc gia đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đánh giá,
nhằm tìm ra đâu là điểm mạnh, điểm yếu trong điều hành vĩ mô của từng quốc gia. Từ
nền tảng lý thuyết ban đầu của giáo sư Mudell, nhiều học giả đã tiếp tục phát triển
thành thuyết tam giác mở rộng, thuyết tứ diện Cho đến hiện tại, vấn đề bộ ba bất khả
thi, đặc biệt là liên quan đến chính sách tỷ giá, đang là vấn đề nóng cần mỗi quốc gia

giải quyết trong “cuộc chiến tỷ giá” đang ngày càng gay gắt hiện nay. Những động
thái mới trong chính sách tỷ giá Trung quốc, nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, đã và
đang tác động không nhỏ đển các nền kinh tế xung quanh, buộc chính quyền của các
quốc gia này, trong đó có Việt Nam, phải có những bước đi hợp lý, vừa phải bảo vệ
nền kinh tế nội địa, vừa phải hòa nhập vào xu hướng toàn cầu.
Trong bối cảnh hiện nay, những bất ổn vĩ mô của nền kinh tế đã và đang tác
động sâu sắc đến từng ngành nghề, từng người tại Việt Nam. Tác giả đã chọn đề tài
này nhằm đưa ra quan điểm học thuật, đóng góp một góc nhìn tham khảo cho vấn đề
nóng bỏng hiện nay về điều hành chính sách vĩ mô.
2. Xác định vấn đề nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sâu từng chính sách đồng thời đưa ra cái nhìn tổng quát trên cơ sở
đánh giá tổng hòa tác động đối với nền kinh tế của chính sách tỷ giá, chính sách kiểm
soát vốn và chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô khác của nền kinh tế
cũng được xem xét như các nhân tố bổ trợ cho hiệu quả chính sách.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là vĩ mô nền kinh tế Việt Nam trong mối tương
quan với hệ thống tài chính thế giới.
Đề tài cũng đề cập đến các nhóm giải pháp chủ đạo ở tầm quốc gia, chỉ ra đâu
là kết hợp tối ưu mà Việt Nam nên hướng đến, cũng như nhóm giải pháp bổ trợ để
đảm bảo các giải pháp được thực hiện đồng bộ, toàn diện và bền vững.


3. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học của bộ ba chính sách điều hành
kinh tế vĩ mô: chính sách kiểm soát vốn, chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ và mối
lien hệ, tương quan thực tế. Khảo cứu các trường phái lý thuyết phân tích đánh giá các
hình thức kết hợp, đặc biệt là bổ sung thêm góc nhìn của dự trữ ngoại hối bên cạnh
quan điểm truyền thống.
Thứ hai, tìm hiểu kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều điểm tương đồng với
Việt Nam như Trung Quốc, Ấn độ, … Xem xét lựa chọn và những thành công hoặc

thất bại trong thực tiễn để qua đó, tìm hướng đi cho Việt Nam.
Thứ ba, tìm hiểu thực trạng kinh tế vĩ mô Việt Nam dưới quan điểm bộ ba bất
khả thi từ giai đoạn những năm Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế đến nay (tháng
3/2011). Qua đó, đề ra các giải pháp ở cả mức độ tầm nhìn và giải pháp cụ thể trên
phương diện khuyến nghị trực tiếp và các khuyến nghị bổ sung, tầm nhìn đến năm
2020, có xem xét đến dự báo của nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới và am hiểu về nền
kinh tế Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do nội dung của đề tài liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, cần đánh giá, nhìn nhận
dưới góc độ tổng quát, khách quan nên tác giả đã kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau:
 Phương pháp hệ thống hóa, mô tả, phân tích các yếu tố liên quan đến từng
chính sách nhìn trong mối quan hệ biện chứng với các nhân tố kinh tế thế giới và cơ sở
hạ tầng và quan điểm điều hảnh của chính phủ trên cơ sở các kinh nghiệm và lý luận
cơ bản về vấn đề bộ ba bất khả thi đã được trình bày và công bố trong các công trình
liên quan đến đề tài và các văn bản chính thức của chính phủ. Sau đó, tác giả tiếp tục
kế thừa và phát triển dựa trên góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu riêng của
chuyên đề.


 Phương pháp phân tích, xử lý số liệu, dữ liệu thứ cấp được công bố từ các cơ
quan thống kê, cơ quan quản lý, các tổ chức chuyên môn, các tổ chức quốc tế uy tín để
dẫn chứng cho các luận điểm trong chuyên đề.
 Bên cạnh đó, đề tài còn kết hợp phương pháp so sánh trường hợp nghiên cứu
cụ thể là nền kinh tế Việt Nam với các quốc gia lân cận trong khu vực (phân tích theo
chiều ngang) và những thay đổi trong suốt thời gian từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh
tế đến hiện nay (tháng 3/2011) (phân tích theo chiều dọc).
Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan, cập nhật cho các luận điểm, tác giả cũng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu phổ biến khác như phương pháp chuyên gia,
phương pháp mô hình toán…

5. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất
khả thi. Giới thiệu tổng quan về cơ sở lý luận của bộ ba bất khả thi, tập hợp nhiều
phân tích, nghiên cứu hàn lâm của nhiều tác giả trên thế giới để phục vụ cho mục đích
nghiên cứu của chuyên đề.
 Chương 2: Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về điều hành chính
sách vĩ mô. Giới thiệu kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaysia và Ấn độ cùng những
thành công trong điều hành chính sách vĩ mô. Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng điều hành chính sách vĩ mô của Việt Nam giai đoạn
từ 1990 đến nay. Trình bày thực trạng tình hình kinh tế và những giải pháp của chính
phủ trong việc bình ổn nền kinh tế, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng bền vững. Ngoài ra,
chương này sẽ cho thấy những thay đổi trong quan điểm hội nhập kinh tế và các biện
pháp ứng biến của nhà hoạch định chính sách trong tình hình mới. Đặc biệt, giai đoạn
hiện nay, chính sách không ổn định khi gặp phải rủi ra lạm phát và hiệu quả đầu tư
công.
Chương 4: Giải pháp điều hành vĩ mô nền kinh tế Việt Nam – Góc nhìn từ
bộ ba bất khả thi. Chương này trình bày góc nhìn của tác giả về định hướng chính


sách. Các nhóm giải pháp chủ đạo và bổ trợ đã được đưa ra nhằm giúp Việt Nam lựa
chọn sự kết hợp tốt nhất từ nay đến năm 2020.
6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về lựa chọn bộ ba chính sách, có
xét đến các yếu tố khác như dự trữ ngoại hối…. Trình bày những đặc thù của nền kinh
tế Việt Nam cũng như khả năng quản lý, tầm nhìn ngắn, trung và dài hạn qua các cuộc
khủng hoảng kinh tế.
Nâng cao trình độ lý luận về mối tương quan, và những hiểu biết sâu sắc về
điều hành kinh tế vĩ mô cho cán bộ quản lý chuyên môn, chỉ rõ hướng đi nên có chính
sách tỷ giá, tiền tệ và lộ trình hội nhập tài chính của Việt Nam.

Phân tích, đánh giá thực trạng kết hợp bộ ba chính sách của Việt Nam, cùng
những thay đổi trong quan điểm điều hành của chính phủ. Với những phân tích đánh
giá trong chuyên đề, các tác giả khác có thể tiếp tục phát triển ý tưởng thành nhiều đề
tài nghiên cứu chuyên sâu dựa trên nền tảng là chuyên đề này của tác giả.
7. Hướng phát triển của đề tài
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chưa định lượng một cách sâu sắc về các vấn đề
nghiên cứu, mà chủ yếu là dựa trên cơ sở định tính để nhằm đưa ra những khuyến nghị
chính sách giai đoạn 2011-2020. Do đó, hướng phát triển của đề tài là đi sâu vào định
lượng nhằm thuyết phục hóa đề tài.










CHƯƠNG 1
NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT TỔNG QUAN

VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI
1. Nghiên cứu bộ ba bất khả thi và các lý thuyết mở rộng
1.1 Các mô hình nền tảng dẫn đến lý thuyết bộ ba bất khả thi
1.1.1 Mô hình IS-LM mở rộng : Mô hình Mundell-Fleming
Đã có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng mô hình IS-LM bằng cách đưa yếu tố
nước ngoài vào mô hình. Trong đó, nỗ lực thành công nhất được xem là của “Mô
hình Mundell-Fleming”. Đây là kết quả nghiên cứu của Robert Mundell (1962,
1963) và J.M.Fleming (1962) trong thời gian làm việc tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF.

Mô hình Mundell-Fleming là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi có tính đến
tác động của yếu tố nước ngoài, được đại diện bằng cán cân thanh toán (Balance
Payment - BP). Đây được xem là điểm khởi đầu cho lý thuyết Bộ ba bất khả thi. Mô
hình Mundell-Fleming chỉ ra sự tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
dưới các chế độ tỷ giá khác nhau. Chúng ta sẽ cùng lần lượt phân tích các tác động này
dưới chế độ tỷ giá cố định và thả nổi.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định
Nếu như kết quả nghiên cứu mô hình IS-LM cho ta một kết luận: chính sách
tiền tệ và chính sách tài khoá thay đổi có thể dẫn đến sự thay đổi của thu nhập quốc
gia; thì mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng: hai chính sách trên có thể làm thay đổi
trạng thái của cán cân thanh toán, khiến cho cán cân thanh toán trở nên thâm hụt hay
thặng dư.
Hình 1.1: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá


r

Y

LM
IS

BP
E

G

F

H


BP > 0
BP < 0
LM’



Bắt đầu tại điểm cân bằng E ở hình 1.1, nơi mà cán cân thanh toán đang trong
trạng thái cân bằng, nếu chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng (LM
dịch chuyển sang phải thành LM’) thì sẽ có một điểm cân bằng mới nằm dưới đường
BP (điểm F), và tại đó cán cân thanh toán thâm hụt. Chúng ta cũng lý luận tương tự
cho trường hợp LM dịch chuyển sang trái, cũng như khi IS dịch chuyển (tức chính phủ
mở rộng hoặc thắt chặt chính sách tài khoá). Những lý luận của mô hình hoàn toàn có
thể được áp dụng vào thực tế với những trường hợp cụ thể. Ví dụ, chính phủ triển khai
chính sách mở rộng tiền tệ trong bối cảnh muốn giữ cố định tỷ giá hối đoái, việc làm
này có thể khiến cho lạm phát gia tăng với giả định thị trường hàng hoá đã cân bằng.
Lạm phát trong nước khiến cho giá hàng hoá nhập khẩu rẻ hơn một cách tương đối so
với hàng nội địa và giá hàng hoá xuất khẩu đắt một cách tương đối so với hàng nước
ngoài. Việc này không có lợi cho cán cân thương mại. Ta cũng có thể lý luận tương tự
đối với tài khoản vốn đầu tư. Như vậy, việc thay đổi chính sách tiền tệ hay chính sách
tài khoá của chính phủ sẽ ảnh hưởng đến trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán
trong nền kinh tế mở.
Khi cán cân thanh toán thặng dư, NHTW sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào
(cung tiền tăng). Ngược lại, khi cán cân thanh toán thâm hụt, NHTW sẽ bán ngoại tệ
để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trên thị trường (cung tiền giảm). Do đó, một cán cân
thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền của nền kinh tế vì
NHTW sẽ mua vào hoặc bán ra ngoại tệ. Kết quả là, một cán cân thanh toán thặng dư
hay thâm hụt sẽ không được duy trì, nhưng để làm được điều này, NHTW đã tác
động đến lạm phát trong nước. Luận điểm này sau đó được Frankel và Krugman
khai thác và xây dựng nên lý thuyết bộ ba bất khả thi.

Trên thực tế, có nhiều nỗ lực ở các quốc gia nhằm xoá bỏ một phần hay toàn bộ
tác động của lạm phát khi can thiệp vào thị trường bằng các chính sách trên. Theo đó,
với một nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái được giữ ổn định, việc điều hành chính sách
tiền tệ hay chính sách tài khoá sẽ không tác động đến mức lạm phát trong nước. Việc
này có phải là một liều thuốc “thần dược” để biến bộ ba bất khả thi thành bộ ba khả thi
hay không? Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc tìm hiểu về các loại can thiệp không vô
hiệu hoá và vô hiệu hoá.



Can thiệp không vô hiệu hoá và can thiệp vô hiệu hoá
Can thiệp không vô hiệu hoá và can thiệp vô hiệu hoá là hai loại được xếp vào
nhóm can thiệp trực tiếp. Can thiệp trực tiếp là loại can thiệp của chính phủ vào cung
tiền của quốc gia. Thông thường, các chính phủ sẽ khiến cho đồng tiền nước mình
giảm giá bằng cách bán nội tệ và đổi lấy đồng ngoại tệ (thường là đô la) trên thị trường
ngoại hối. Điều này khác với can thiệp gián tiếp bằng cách tác động lên những yếu tố
ảnh hưởng đến tiền tệ, ví dụ như lãi suất.
Khi NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái mà không điều chỉnh sự thay đổi
mức cung tiền tệ, điều này được gọi là can thiệp không vô hiệu hoá. Ví dụ, nếu NHTW
đổi đồng nội tệ lấy đồng đô la nhằm mục đích phá giá đồng nội tệ, đảm bảo ổn định tỷ
giá, mức cung tiền sẽ gia tăng.
Khi NHTW muốn can thiệp vào thị trường hối đoái trong khi vẫn duy trì mức
cung tiền tệ, họ sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hoá bằng các giao dịch trong thị trường
ngoại hối và các hoạt động trên thị trường mở. Ví dụ, nếu NHTW muốn hạ giá đồng
nội tệ mà không làm ảnh hưởng đến mức cung tiền, họ có thể đổi nội tệ lấy đô la, tăng
mức cung tiền, và sau đó bán một số chứng khoán kho bạc hiện có để thu nội tệ về,
giảm mức cung tiền. Nếu như lượng nội tệ thu vào do bán chứng khoán đúng bằng
lượng nội tệ tung ra thị trường khi mua đô la, lạm phát sẽ không xảy ra. Chúng ta cũng
có thể đưa ra một vài ví dụ tương tự khi NHTW muốn tăng giá đồng tiền.
Chính sách tài khoá hay chính sách tiền tệ?

Nếu chúng ta vẫn tiếp tục giữ nguyên giả định chế độ tỷ giá hối đoái là cố định
và thị trường vốn mở, nhưng lại thêm một giả định là không có chính sách vô hiệu
hoá, thì sau đó tất yếu rằng, chính sách tài khoá trở nên hiệu quả hơn chính sách tiền
tệ. Hãy nhìn lại hình 1.1 một lần nữa. Bắt đầu tại điểm E, một sự mở rộng chính
sách tiền tệ sẽ chuyển đường LM sang LM’ và do đó đạt được một cán cân thanh toán
thâm hụt tại điểm F. Tuy nhiên, không có sự vô hiệu hoá, cung tiền sẽ giảm (do chính
phủ cố gắng cân bằng cán cân thanh toán bằng cách tung ngoại tệ ra thị trường để đáp
ứng nhu cầu thị trường) và sau đó LM’ sẽ dịch chuyển sang phía trái trở lại LM và
điểm F sẽ quay trở lại điểm E. Nghĩa là, sản lượng sau khi gia tăng trong một thời
gian ngắn sẽ quay lại điểm cân bằng Y*. Do đó, chính sách tiền tệ không hiệu quả
hoàn toàn để làm gia tăng sản lượng quốc gia. Ngược lại, giả định rằng, bắt đầu tại


điểm E, chúng ta thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng, đường IS dịch chuyển
sang IS’, dẫn tới một cán cân thanh toán thặng dư tại điểm G. Không có chính sách
vô hiệu hoá, một cán cân thanh toán thặng dư hàm ý rằng cung tiền sẽ tăng nhằm
đáp ứng cho sự gia tăng trong sản lượng quốc gia. Do đó, đường LM dịch chuyển
sang phía phải đến LM’. Tại điểm cân bằng mới, điểm H, là một vị thế dài hạn. Như
vậy, sản lượng đã tăng đáng kể trong trường hợp này vì sự dịch chuyển của cung tiền
khi không có vô hiệu hoá bổ sung cho sự mở rộng chính sách tài khoá ban đầu. Điều
này đưa ta đến kết luận: dưới chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khoá có hiệu quả
cao hơn và chính sách tiền tệ kém hiệu quả hơn trong việc gia tăng sản lượng.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt
Các hàm ý của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới chế độ tỷ giá
linh hoạt có thể được hình dung trong hình 1.4. Giả định chúng ta bắt đầu tại điểm E,
phần giao nhau của đường cong IS, LM, BP; và giả định có một sự mở rộng chính
sách tiền tệ từ LM sang LM’. Kết quả, chúng ta dịch chuyển từ E đến F, là một cán
cân thanh toán thâm hụt. Tại điểm F, có một cầu thặng dư về ngoại tệ và cung thặng
dư về nội tệ trên thị trường ngoại hối. Dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt, tỷ giá thực sẽ
giảm, do đó đường BP dịch chuyển sang phải thành BP’ và IS dịch chuyển sang

phải thành IS’, tạo nên một điểm cân bằng sản lượng mới J lớn hơn là Y*J. Chúng ta
có được sự cân bằng bên trong và bên ngoài khi có sự giao nhau của ba đường IS’,
LM’ và BP’. Do đó, dưới chế độ tỷ giá linh hoạt, chính sách tiền tệ tỏ ra khá hiệu
quả để gia tăng sản lượng.
Hình 1.2: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá
linh hoạt


r

Y

LM

IS

BP

E

G

F

BP


IS



LM


J



Từ những hàm ý của mô hình Mundell-Fleming ở trên ta thấy rằng: hiệu quả
của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và
mức độ kiểm soát vốn. Ví dụ, quốc gia nào có chuyển dịch dòng vốn tự do và tỷ giá
cố định, thì các nhà quản lý tiền tệ không thể theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập.
Trong một quốc gia có cơ chế tỷ giá cố định thì không có rủi ro tỷ giá, và lãi suất
trong nước biến động cùng với lãi suất nước ngoài.
Từ những nhận định trên, các nhà kinh tế như Krugman (1979) và Frankel
(1999) đã mở rộng mô hình Mundell-Fleming thành Lý thuyết bộ ba bất khả thi.
Frankel (1999) cho rằng, một quốc gia phải từ bỏ một trong ba mục tiêu: chính sách
tiền tệ độc lập, sự ổn định của chính sách tỷ giá, và hội nhập thị trường tài chính. Lý
thuyết này sẽ được tìm hiểu ở phần dưới.
1.1.2 Lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển
Robert Mundell – người đã nhận giải Nobel kinh tế vào năm 1999 – là cha đẻ
của lý thuyết Bộ ba bất khả thi, ông đã xây dựng nên những nền tảng cơ bản về lý
thuyết này vào những năm 1960. Tiếp đó, vào những năm 1980, khi vấn đề kiểm soát
vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc cố định tỷ giá và độc lập
trong chính sách tiền tệ ngày càng rõ nét thì lý thuyết Bộ ba bất khả thi đã trở thành
nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế hiện đại.
Lý thuyết Bộ ba bất khả thi được phát biểu như sau: Một quốc gia không thể
đồng thời đạt được cả ba mục tiêu tỷ giá hối đoái cố định, hội nhập tài chính, và độc
lập tiền tệ. Tức là, một quốc gia chỉ có thể lựa chọn cùng một lúc đồng thời hai trong
ba mục tiêu kể trên. Đây chính là lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển.
Trong lý thuyết này, ba mục tiêu không thể đồng thời đạt được bao gồm:

Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền
tệ để thực hiện chính sách phản chu kì kinh tế. Ví dụ, nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát
triển nóng, lạm phát tăng cao, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc (và) thắt chặt cung tiền,
tương tự cho trường hợp ngược lại. Nhiều nhà kinh tế tin rằng sự độc lập tiền tệ sẽ
giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững hơn. Tuy nhiên, vấn đề là trong một
thế giới mà giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc, độc lập tiền tệ quá mức có thể là
một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong


ngắn hạn. Đó là chưa kể, độc lập tiền tệ quá mức có khả năng khiến cho chính phủ
phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách.
Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện
pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của
nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ, nhất là
đối với những quốc gia có đồng nội tệ yếu. Tất cả cũng đều vì mục tiêu làm cho môi
trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên, tỷ giá cố định quá mức cũng có mặt trái của nó. Tỷ
giá quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong
và bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế.
Hội nhập tài chính tất nhiên là xu thế khó có thể cưỡng lại được trong bối cảnh
toàn cầu hoá. Lợi ích của hội nhập tài chính đến từ hai mặt : hữu hình và vô hình. Về
mặt hữu hình, lợi ích của hội nhập tài chính giúp quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và
phân bổ nguồn lực tốt hơn. Chúng cũng giúp nhà đầu tư đa dạng hoá đầu tư, nhờ vậy
mà họ mới mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế, thị trường tài chính nội địa nhờ đó mà
cũng phát triển theo. Lợi ích lớn nhất – lợi ích vô hình – mang lại từ hội nhập tài chính
là tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và đưa ra chính sách tốt
hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Mặc dù vậy, hội nhập tài chính cũng được
cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây.
Hình 1.3 Lý thuyết bộ ba bất khả thi

Th



trư

ng v

n

đóng

Chính sách ti

n t


độc lập

n đ

nh t


giá

T


giá th



n

i

Liên minh

tiền tệ
H

i nh

p tài chính



Bộ ba bất khả thi được minh hoạ bởi hình 1.3; mỗi cạnh tượng trưng cho các
mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Mỗi cạnh mô
tả một mục tiêu kì vọng của nền kinh tế, tuy nhiên không nền kinh tế nào có thể thực
hiện được đồng thời cả ba cạnh của tam giác trên. Bất kì cặp mục tiêu nào cũng có thể
đạt được bằng một chế độ tỷ giá tương ứng nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách còn
lại:
 Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất
đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài.
 Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá thả nổi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, Ngân
hàng trung ương được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận
hành theo những nguyên tắc thị trường.
 Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn
đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm

soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ, và quốc gia có thể thực
hiện đồng thời hai mục tiêu này.
Kể từ khi vận hành theo chế độ bản vị vàng, nhiều kiểu hệ thống tài chính quốc
tế khác nhau đã được thiết kế để đạt hai trong số ba mục tiêu chính sách. Hệ thống
Bretton Woods được thiết lập để đạt được ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ trong khi hy
sinh mục tiêu tự do chu chuyển vốn, tức hội nhập tài chính. Hệ thống tiền tệ Châu Âu
được thiết lập trên cơ sở thoả thuận tỷ giá cố định và vốn chu chuyển tự do và từ bỏ
độc lập tiền tệ của các nước thành viên. Trong hơn 20 năm qua, hầu hết các nước đang
phát triển bắt đầu tăng tốc hội nhập tài chính. Điều này có nghĩa là một quốc gia phải
hoặc từ bỏ ổn định tỷ giá nếu muốn duy trì mức độ độc lập tiền tệ hoặc từ bỏ độc lập
tiền tệ nếu muốn duy trì ổn định tỷ giá.
Theo hình 1.3, một nền kinh tế trong cùng một thời điểm có thể lựa chọn một
trong ba đỉnh của tam giác với nguyên tắc: quốc gia sẽ thực hiện được đồng thời hai
mục tiêu trên hai cạnh chứa đỉnh đó. Việc xác định sự lựa chọn của quốc gia dựa theo
góc nhìn về “điểm” trong hình học có vẻ như không cần thiết trong lý thuyết Bộ ba bất


khả thi cổ điển trong những năm thập niên 60, nhưng lại có một tầm quan trọng nhất
định đối với việc nghiên cứu các mô hình phát triển của lý thuyết Bộ ba bất khả thi
hiện đại.
1.2 Sự phát triển của Lý thuyết Bộ ba bất khả thi hiện đại
1.2.1 Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết Bộ ba bất khả thi của
GS. Mundell và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng. Nền tảng của thuyết này là
những quan niệm mới về sự độc lập của chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá. Theo đó,
tam giác bất khả thi của Mundell chỉ mới tập trung đến các cơ chế tỷ giá nằm ở các
đỉnh của tam giác mà chưa đề cập đến một cơ chế tỷ giá trung gian nằm đâu đó trong
vùng tam giác bất khả thi. Yigang và Tangxian đã mở rộng mô hình này và kết luận
rằng một quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và không phải chấp
nhận sự đánh đổi hoàn toàn như trong lý thuyết bộ ba bất khả thi cổ điển.

Hình 1.4: Lý thuyết bộ ba bất khả thi mở rộng

Tương tự như hình 1.3, ba cạnh trong tam giác mở rộng ở hình 1.4 cũng tương
ứng cho ba mục tiêu chính sách. Trong phạm vi tam giác bất khả thi, chúng ta xác định
một điểm O tuỳ ý nằm ở vùng trong tâm giác. Khoảng cách từ điểm O đến mỗi cạnh
càng ngắn thì mức độ ưu tiên cho mục tiêu đại diện cho cạnh đó trong nền kinh tế càng
cao. Ngược lại, khoảng cách từ điểm O đến mỗi cạnh càng xa thì có vẻ như nền kinh tế
đó đang không chú trọng vào mục tiêu đại diện cho cạnh đó lắm. Trên hình 1.4, có vẻ
như nền kinh tế đang dàn trải thực hiện cả ba mục tiêu, nhưng mỗi mục tiêu không
được thực hiện hoàn toàn. Một ví dụ khác, tại điểm D, nền kinh tế đang ưu tiên cho hai
mục tiêu là ổn định tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập. Tuy vậy, lúc này nền kinh tế
Th


trư

ng v

n đóng

Chính sách
tiền tệ độc
lập

n đ

nh t


giá


T


giá th


n

i

T


giá c


đ

nh

H

i nh

p tài chính

O
Ev


K
c

Ms

A
B
C
D



không phải đánh đổi bằng việc đóng cửa tài khoản vốn hoàn toàn, ví dụ như khi quốc
gia thực hiện chính sách kiểm soát vốn như ưu tiên dòng vốn đầu tư trực tiếp, ưu tiên
dòng vốn đầu tư dài hạn, thực hiện việc kí quỹ khi đầu tư. Trong khi đó, tại điểm A –
thị trường vốn đóng, khoảng cách đến mục tiêu hội nhập tài chính là cực đại. Lúc này,
quốc gia sẽ hoàn toàn cấm các dòng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế, đổi lại, hai mục
tiêu chính sách tiền tệ độc lập và ổn định tỷ giá được đảm bảo thực hiện. Điều tương
tự cũng xảy ra đối với các điểm tỷ giá thả nổi và tỷ giá cố định. Như vậy, lý thuyết Bộ
ba bất khả thi cổ điển đã trở thành một trường hợp đặc biệt của lý thuyết tam giác mở
rộng, với các điểm đại diện cho sự chọn lựa nằm trên đỉnh của tam giác.
Gọi Ms, Kc và Ev là các khoảng cách từ điểm O đến ba cạnh, tượng trưng lần
lượt cho mức độ của độc lập chính sách tiền tệ, mức độ kiểm soát vốn và mức độ biến
động tỷ giá. Một tính chất quan trọng của tam giác đều là: tổng khoảng cách của bất kỳ
điểm nào ở bên trong tam giác đến ba cạnh bằng chiều cao của tam giác. Do đó ta có
Ms + Kc + Ev = Mh. Để đơn giản, đặt chiều cao của tam giác đều Mh = 1, thì ta có Ms
+ Kc + Ev = 1 (hằng số) và 0 <= Ms, Kc hoặc Ev <= 1.
Trong đó: (1) Khi Kc = 0, tức là dòng vốn lưu động hoàn toàn và Kc = 1 tức là
kiểm soát vốn hoàn toàn. (2) Ms = 0, nghĩa là chính sách tiền tệ hoàn toàn và Ms = 1,
nghĩa là mất độc lập về chính sách tiền tệ. (3) Ev = 0, tức là tỷ giá cố định và Ev = 1,

tức là tỷ giá thả nổi. Đây là những trường hợp đặc biệt đã được xét đến tại các điểm
A,B,C – đỉnh của tam giác bất khả thi.
1.2.2 Dự trữ ngoại hối và mối liên hệ với bộ ba bất khả thi : sự phát triển
của đồ thị kim cương
Phiên bản nguyên thuỷ của lý thuyết bộ ba bất khả thi không đề cập đến vai trò
của dự trữ ngoại hối. Lý thuyết tam giác mở rộng nghiên cứu về sự đánh đổi không
hoàn toàn giữa các lựa chọn mục tiêu cho nền kinh tế; thuyết tứ diện thêm vào một
nhân tố là khả năng vay mượn nước ngoài của quốc gia, nhưng vẫn chưa trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề dự trữ ngoại hối – một vấn đề thường xuyên được đề cập đến ở
các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi đang phát triển. Đó là do xu thế hội
nhập tài chính diễn ra ngày càng sâu rộng ở các quốc gia này nên ngày càng có nhiều
nghiên cứu cho thấy dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong mẫu hình bộ ba bất
khả thi, nhất là tại các quốc gia đang phát triển.


Trong hơn hai thập kỉ gần đây, ngày càng nhiều các nền kinh tế đang phát triển
có xu hướng thiên về lựa chọn chế độ tỷ giá trung gian giữa cố định và thả nổi, như
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, neo tỷ giá, hoặc dải băng tỷ giá. Chế độ tỷ giá hỗn
hợp như thế đòi hỏi các quốc gia phải gia tăng dự trữ ngoại hối để bảo đảm duy trì tỷ
giá trong một vùng mục tiêu nào đó theo kế hoạch của chính phủ. Sau khủng hoảng tài
chính Châu Á 1997, nhiều nước đang phát triển bắt đầu chuyển sang cơ chế tỷ giá linh
hoạt hơn, tức hướng về thị trường nhiều hơn. Mặc dù vậy, dự trữ ngoại hối ở các nước
đang phát triển vẫn tiếp tục tăng lên ấn tượng. Dự trữ ngoại hối toàn cầu tăng từ
khoảng 1000 tỷ đô la đến hơn 5000 tỷ đô la trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2006.
So sánh mức dự trữ ngoại hối của các nước bằng con số tuyệt đối có vẻ hơi
khập khiễng, vì mỗi nền kinh tế có quy mô, phạm vi và tính chất khác nhau. Để bỏ qua
quy mô nền kinh tế, ta sử dụng chỉ số IR/GDP, tức là tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên tổng
sản phẩm quốc nội. Trong khi IR/GDP tại các nước công nghiệp tương đối ổn định xấp
xỉ dưới 5% thì tỷ lệ này tại các nước đang phát triển tăng từ 5% đến khoảng 27%. Gần
đây các nước đang phát triển nắm giữ đến ba phần tư dự trữ ngoại hối toàn cầu, phần

lớn tập trung ở Châu Á, nơi tỷ lệ IR/GDP đã gia tăng từ khoảng 5% vào năm 1980 lên
khoảng 37% vào năm 2006. Đương nhiên, Trung Quốc là quốc gia có dự trữ ngoại hối
tăng ấn tượng nhất cả về khối lượng dự trữ ngoại hối tuyệt đối lẫn tỷ lệ dự trữ ngoại
hối trên GDP từ khoảng 1% vào năm 1980 lên xấp xỉ 41% vào năm 2006 (và sau đó là
gần 50% vào năm 2008).
Dự trữ ngoại hối gia tăng một phần do chính phủ các nước đang phát triển phải
đối phó với xu hướng dòng vốn mang tính đầu cơ. Dòng tiền nóng từ đầu cơ rất dễ
dừng lại đột ngột và đảo chiều, vì vậy tích luỹ dự trữ ngoại hối là phương thức mà
chính phủ các quốc gia đang phát triển hướng đến như là một tấm đệm can thiệp vào
thị trường ngoại hối để phòng ngừa rủi ro nguồn vốn đảo chiều.
Trong các nhân tố thương mại và tài chính, nhân tố nào là chủ yếu để giải thích
cho dự trữ ngoại hối tăng lên? Bằng việc nghiên cứu xem những yếu tố nào mang tính
quyết định dự trữ ngoại hối tại hơn 100 nền kinh tế trong giai đoạn từ 1975-2004,
Cheung và Ito (2007) nhận ra rằng nếu như trước đây nhân tố thương mại là thành
phần quan trọng dẫn đến gia tăng tích luỹ dự trữ ngoại hối, thì gần đây vai trò của
nhân tố thương mại ngày càng giảm dần. Thay vào đó, nhân tố tài chính ngày càng


đóng góp quan trọng vào dự trữ ngoại hối tăng lên ở các nước. Obstfeld (2008) cho
rằng các nhân tố tài chính liên quan đến quy mô của các khoản nợ trong nước có khả
năng chuyển đổi thành ngoại tệ (M2), mức độ mở cửa tài chính, khả năng tiếp cận
ngoại tệ thông qua các thị trường nợ, chính sách tỷ giá sẽ là những chỉ báo quan trọng
đối với dự trữ ngoại hối toàn cầu cũng như của một quốc gia.
Chính vì tầm quan trọng ngày càng tăng của hội nhập tài chính như là một nhân
tố quyết định đối với dự trữ ngoại hối như vậy nên các nhà kinh tế đã bắt đầu có những
nghiên cứu sâu hơn về mối liên kết giữa thay đổi trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi
và mức độ dự trữ ngoại tệ.
Những thay đổi trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi và mức độ dự trữ ngoại hối
có mối liên kết với nhau, vì vậy Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã triển khai một dạng
đồ thị hình kim cương để đo lường xu hướng của những thay đổi này. Aizenman,

Chinn và Ito xây dựng cho mỗi quốc gia một vector bộ ba bất khả thi và những cấu
hình của dự trữ ngoại hối để đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối
và hội nhập tài chính của mỗi quốc gia. Những thước đo này dao động từ 0 đến 1. Cấu
hình của mỗi quốc gia được tổng hợp bằng đồ thị hình kim cương tổng quát với bốn
đỉnh đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, chỉ số IR/GDP và hội nhập tài chínhc.
Hình 1.5 và 1.6 tổng hợp khuynh hướng đối với các quốc gia công nghiệp hóa
và những nền kinh tế mới nổi. Nhìn trên hình ta thấy các quốc gia công nghiệp ngày
càng tăng tốc tự do hóa tài chính nhiều hơn. Đi kèm với tự do hóa tài chính, các quốc
gia công nghiệp hóa cũng ngày càng hướng tới ổn định tỷ giá (chủ yếu ở các quốc gia
sử dụng đồng Euro).
Đồng thời cũng làm sáng tỏ sự thật là các nền kinh tế mới nổi đã hướng tới tỷ
giá linh hoạt cao hơn và hội nhập tài chính sâu hơn. Điều đáng lưu ý là bên cạnh đó,
dự trữ ngoại hối cũng được tích lũy nhiều hơn. Ngược lại, các quốc gia công nghiệp
hóa lại ngày càng giảm đi dự trữ ngoại hối của mình.







Hình 1.5: Đồ thị kim cương đối với các nước công nghiệp hoá

Hình 1.6: Đồ thị kim cương đối với các nền kinh tế mới nổi tại Châu Á và
Trung Quốc

1.3 Vấn đề định lượng trong bộ ba bất khả thi
Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba, dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo
lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một
quốc gia với IMF.

Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc
lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng,


lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là
khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ,
đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi.
Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp
cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên
lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào
trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục
tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ.
Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà
kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IMF
để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn. Tuy nhiên, điều mà các nhà kinh tế thực sự
quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố
kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông
thoáng.
Do tính phổ biến và dễ ứng dụng, phần còn lại của quyển sách này chủ yếu đề
cập đến cách thức đo lường những đánh đổi chính sách trong bộ ba bất khả thi của
Chinn và Ito (2008). Chinn và Ito đã phát triển 3 thước đo để đánh giá mức độ độc lập
tiền tệ (MI), ổn định tỷ giá (ERS) và hội nhập tài chính (KAOPEN).
Độc lập tiền tệ (MI). Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo
nghịch của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và
quốc gia cơ sở. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng:
 = 1−

,



()
()

Trong đó:
I : quốc gia sở tại
J : quốc gia cơ sở.
Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Giá trị càng
tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. Ví dụ nếu chúng ta muốn đo
lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, quốc gia sở tại là Việt Nam và quốc gia cơ
sở là Mỹ (nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VND với lãi suất USD).
Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá,
được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia

×