Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

MBA kinh tế quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 181 trang )










Kinh tÕ qu¶n lý






Ch−¬ng tr×nh §μo t¹o Th¹c sÜ
Qu¶n trÞ Kinh doanh Quèc tÕ


TÀI LIỆU THAM KHẢO - LƯU HÀNH NỘI BỘ


6/2009

MBA


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
2



MỤC LỤC



Chương I
GIỚI THIỆU MÔN KINH TẾ QUẢN LÝ 3
Chương II PHÂN TÍCH CẦU 16
Chương III

SẢN XUẤT-CHI PHÍ: LÝ THUYẾT VÀ ƯỚC
LƯỢNG
28
Chương IV CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG VÀ VIỆC ĐỊNH GIÁ 48
Chương V

PHÂN TÍCH RỦI RO VÀ CÁC QUYẾT ĐỊNH
ĐẦU TƯ
116
Chương VI

CẠNH TRANH PHI GIÁ VÀ CƠ CẤU
MARKETING
146
Chương VII
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
169





























KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
3
Chương I


GIỚI THIỆU MÔN KINH TẾ QUẢN LÝ



I. BẢN CHẤT VÀ PHẠM VI CỦA KINH TẾ QUẢN LÝ
Trong phần này chúng ta xác định bản chất, chức năng của kinh tế quản lý và xem xét
mối quan hệ của nó với lý thuyết kinh tế, khoa học ra quyết định và các lĩnh vực chức năng
của hoạt động quản trị kinh doanh.
1. Khái niệm kinh tế quản lý
Kinh tế quản lý là môn khoa học về vận dụng lý thuyết kinh tế và các công cụ phân
tích của khoa họ
c ra quyết định để xem xét cách thức một tổ chức đạt được mục tiêu với
hiệu quả cao nhất.
Các vấn đề ra quyết định quản lý luôn xuất hiện ở bất cứ tổ chức nào dù cho nó là
doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận (bệnh viện, trường học) hoặc một cơ quan của chính phủ
khi chúng ta tìm cách đạt được mục tiêu đề ra. Thí dụ, một doanh nghiệp tìm cách tối
đa lợi
nhuận trong điều kiện các yếu tố đầu vào là hạn chế và các quy định về pháp luật. Một bệnh
viện tìm cách chữa cho nhiều bệnh nhân nhất trong điều kiện các nguồn lực có sẵn. Một
trường đại học có mục tiêu đào tạo nhiều nhất số lượng sinh viên với sự sẵn có về các điều
kiện giảng dạy. Một tổ
chức của chính phủ có thể tìm cách cung cấp một loại dịch vụ cụ thể
nào đó cho nhiều người tiêu dùng nhất với mức chi phí thấp nhất. Như vậy có thể thấy rằng
trong tất cả mọi trường hợp các tổ chức đều có các vấn đề quản lý là tìm cách đạt được các
mục tiêu nào đó trong điều kiện các nguồn lực có hạn.


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
4

Mục tiêu và các hạn chế có thể khác nhau song quá trình ra quyết định là giống nhau.








































Hình 1.1 Bản chất của kinh tế quản lý

2. Mối quan hệ của kinh tế quản lý với lý thuyết kinh tế

Một tổ chức có thể ra quyết định quản lý bằng cách vận dụng lý thuyết kinh tế và các
công cụ phân tích của khoa học ra quyết định. Lý thuyết kinh tế
bao gồm kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô nghiên cứu hành vi kinh tế của các cá thể ra quyết định
Lý thuyết kinh tế
Kinh tế học vi mô
Kinh
t
ế học vĩ
m
ô
Các vấn đề về việc ra
quyết định quản lý
Khoa học ra quyết định
Toán kinh tế
Kinh tế lượng

KINH TẾ QUẢN LÍ
Vận dụng lý thuyết kinh tế và công
cụ của khoa học ra quyết định để
giải quyết các vấn đề ra quyết định
quản lý

GIẢI PHÁP TỐI ƯU
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ
RA QUYẾT ĐỊNH
QUẢN LÍ


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
5
như là người tiêu dùng, người chủ các nguồn lực, các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các vấn đề kinh tế tổng hợp như là tăng trưởng, tổng sản lượng,
tiêu dùng, lạm phát, đầu tư giá cả chung cho cả nền kinh tế. Như vậy ta thấy rằng lý thuyết
doanh nghiệp là phần trọng tâm của kinh tế quản lý, còn các điều kiện kinh tế vĩ mô củ
a nền
kinh tế trong đó các doanh nghiệp hoạt động cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Các lý thuyết kinh tế tìm cách dự đoán và giải thích các hành vi kinh tế. Các lý thuyết
kinh tế thường được xây dựng trên cơ sở các mô hình. Các mô hình là sự trừu tượng thực tế
bằng cách loại bỏ các chi tiết không quan trọng, chỉ giữ lại các đặc điểm quan trọng nhất của
thực tế.
Quá trình xây dựng và kiểm
định một mô hình kinh tế có thể được mô tả ở hình 1.2
dưới đây. Đầu tiên là xây dựng các khái niệm và các giả định về thực thể mà chúng ta sẽ mô
hình hoá. Đó có thể là thị trường cho một sản phẩm nào đó, toàn bộ nền kinh tế hoặc là một
doanh nghiệp. Sau đó là phần phân tích về lý thuyết, hay là suy luận logic dựa trên các giả

định đã đưa ra. Đây là một công việc rất khó khăn vì rằng các suy luận logic t
ừ các giả định có
thể là cực kỳ khó và các suy luận đó có thể thay đổi đáng kể khi có sự thay đổi rất nhỏ của các
chi tiết của giả định đó. Kết quả là bước này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất của mọi nỗ lực
của các nhà kinh tế khi xây dựng mô hình. Sau đó mô hình sẽ được kiểm định so với thực tế.
Nếu mô hình xây dựng giả
i thích được thực thể được mô hình hoá thì mô hình đó là có nghĩa
và được sử dụng như công cụ để giải thích và dự đoán hành vi của thực thể. Còn trong trường
hợp ngược lại, phải xây dựng lại mô hình từ đầu.























Hình 1.2: Xây dựng và kiểm định mô hình kinh tế

Khái niệm và giả định
Phân tích lý thuyết
Dự đoán
Kiểm định các dự đoán với
th

c tế
Dự đoán phù hợp > Mô
hình có nghĩa
Dự đoán khung phù hợp > Loại
b
ỏ mô hình


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
6
Thí dụ, chúng ta thấy rằng lý thuyết doanh nghiệp giả định rằng mục tiêu của doanh
nghiệp tối đa hoá lợi nhuận và trên cơ sở đó chúng ta sẽ dự đoán sản lượng của doanh nghiệp
sẽ sản xuất ra trong các điều kiện khác nhau của thị trường. Chúng ta cũng đã biết rằng doanh
nghiệp cũng có thể theo đuổi các mục tiêu khác nữa. Ở đây phương pháp luậ
n là chấp nhận lý
thuyết hoặc mô hình nếu như nó dự đoán chính xác và các dự đoán đó tuân theo các giả định
logic.
3. Mối quan hệ của kinh tế quản lý với các môn khoa học ra quyết định.
Kinh tế quản lý liên hệ mật thiết với các môn khoa học ra quyết định. Các môn khoa
học này sử dụng công cụ toán học và kinh tế lượng để xây dựng và ước lượng các mô hình

khoa học nhằm mục tiêu xác định hành vi tối ư
u của doanh nghiệp. Cụ thể chúng ta dùng kiến
thức toán kinh tế để biểu diễn các mô hình dưới dạng các phương trình dựa vào các lý thuyết
kinh tế. Kinh tế lượng sử dụng các công cụ thống kê (đặc biệt là phép phân tích hồi quy) để
ước lượng và dự đoán các mô hình kinh tế dựa vào các số liệu thực tế và lý thuyết kinh tế.
Thí dụ, lý thuyết kinh tế cho biết rằng lượng cầu đối với một hàng hoá (Q) là mộ
t hàm
số của hàng hoá (P), thu nhập của người tiêu dùng (Y) và giá của hàng hoá liên quan (hàng
hoá thay thế và hàng hoá bổ sung P
s
và P
c
). Giả sử thị hiếu không thay đổi, chúng ta có thể
xây dựng mô hình sau:
Q = f (P, Y, P
c
, P
s
)

Dựa vào các số liệu về Q, P, Y, P
c
và P
s
đối với một hàng hoá cụ thể, chúng ta có thể
ước lượng mối quan hệ thực nghiệm đó. Mối quan hệ này cho biết doanh nghiệp sẽ thay đổi
sản lượng (Q) khi các yếu tố khác như P, Y, P
c
, P
s

thay đổi và dự báo về cầu đối với hàng hoá
đó trong tương lai. Các số liệu rất quan trọng giúp cho bộ máy quản lý đạt được mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận một cách hiệu quả nhất.

4. Mối quan hệ của kinh tế quản lý với các lĩnh vực chức năng của lý thuyết quản trị
kinh doanh.
Sau khi xác định được đối tượng và bản chất của kinh tế quản lý, chúng ta sẽ
xem xét
mối quan hệ giữa kinh tế quản lý với các lĩnh vực chức năng của lý thuyết quản trị kinh
doanh. Đó là các môn học như kế toán, tài chính, marketing, quản lý nguồn nhân lực và tổ
chức sản xuất. Các môn học này nghiên cứu môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp và
cung cấp các cơ sở cho việc ra quyết định và do đó kinh tế quản lý có thể xem xét như một
môn học tổng hợp lý thuyết kinh tế, khoa họ
c ra quyết định và các môn học theo chức năng
của quản trị kinh doanh.

II. LÝ THUYẾT DOANH NGHIỆP
Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu các hình thức khác nhau của doanh nghiệp,
phân tích các ưu nhược điểm của từng loại hình và sẽ giới thiệu các mô hình cơ bản về lý
thuyết doanh nghiệp.

1. Các hình thức của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường chúng ta thường gặp các loại hình doanh nghiệp sau đây:

1.1. Doanh nghiệp một chủ s
ở hữu (proprietorship)
Đây là hình thức đơn giản nhất của một tổ chức kinh doanh. Doanh nghiệp có một


KINH TẾ QUẢN LÝ

Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
7
người chủ sở hữu duy nhất. Người chủ sở hữu này cung cấp vốn, trực tiếp ra quyết định kinh
doanh và chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi khoản lỗ hoặc lãi của doanh nghiệp. Loại hình
doanh nghiệp này có ưu điểm nổi bật là tốc độ ra các quyết định và tính linh hoạt của doanh
nghiệp trước những sự thay đổi của thị trường. Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này cũng có
nh
ững hạn chế do lượng vốn ít của người sở hữu và trách nhiệm vô hạn của người chủ đối với
các khoản lỗ của doanh nghiệp. Trong thực tế, loại hình doanh nghiệp này thường gặp trong
các ngành nông nghiệp, bán lẻ, xây dựng và dịch vụ.

1.2. Doanh nghiệp đồng sở hữu (partnership)

Đây là loại hình doanh nghiệp có hai hoặc nhiều hơn chủ sở hữu. Họ cùng cung cấp
vốn và cùng tham gia vào việ
c ra quyết định kinh doanh. Tuy nhiên, các thành viên có thể
đóng vai trò hoàn toàn khác nhau. Có thành viên tích cực và có thành viên không tích cực. Lợi
thế cơ bản của loại hình này là mỗi thành viên có thể chuyên môn hoá theo một lĩnh vực nào
đó của hoạt động kinh doanh, điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, loại hình
doanh nghiệp này có những ưu và nhược điểm giống như doanh nghiệp một chủ sở hữu. Vì
rằng số lượng thành viên thường ít do đó quá trình ra quyết định tươ
ng đối linh hoạt, nhưng
các thành viên có thể có trách nhiệm vô hạn đối với các khoản lỗ - đó là nhược điểm lớn nhất
của loại hình doanh nghiệp này. Sự tồn tại của loại hình doanh nghiệp này phụ thuộc vào sự
nhất trí của các thành viên và điều này cũng rất khó duy trì trong các điều kiện biến động của
thị trường. Loại hình doanh nghiệp này thường được tồn tại trong các ngành k
ế toán, y tế và
luật.

1.3. Công ty cổ phần (the joint stock company)

Sự ra đời của công ty cổ phần là một trong những phát minh quan trọng nhất của lịch
sử phát triển kinh tế. Có hai loại công ty cổ phần - công ty cổ phần công cộng (Plc) và công ty
cổ phần tư nhân (Ltd). Các công ty cổ phần chịu sự kiểm soát về luật pháp và định kỳ phải
báo cáo và cung cấp các thông tin tài chính cho các cơ quan chức trách.
Một ưu điểm lớn nhấ
t của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn. Công ty hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước pháp luật về các khoản nợ của công ty. Tuy nhiên các cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm đối với các khoản tiền mà họ đóng góp. Điều này đã kích thích được các cá nhân
cung cấp vốn để kinh doanh. Đây cũng là ưu điểm nổi bật của hình thức tổ chức này vì có thể
huy động một nguồn vốn l
ớn thông qua phát hành cổ phiếu. Công ty cổ phần có thể huy động
vốn thông qua ba hình thức sau:
- Cổ phiếu ưu đãi;
- Cổ phiếu thông thường;
- Giấy nợ (debenture).
Những người chủ của các cổ phiếu ưu đãi được hưởng ưu tiên trong việc thanh toán lãi
cổ phần (cổ tức) so với các loại cổ phiếu khác. Trong hầu hết các trường hợp, mức sinh lời (lãi
suất) đối với các c
ổ phiếu ưu đãi thường được xác định theo tỷ lệ cố định của giá trị danh
nghĩa của cổ phiếu. Nếu công ty không kiếm được lợi nhuận, chủ nhân của các cổ phiếu ưu
đãi không được hưởng lãi cổ tức (trừ khi họ có các cổ phiếu ưu đãi dồn đặc biệt special
cumulative P.S, phần lãi sẽ được trả vào năm sau). Nếu lợi nhuận củ
a công ty quá cao, các chủ
cổ phiếu cũng không nhận được thêm ít nào (trừ khi họ có một loại cổ phiếu ưu tiên đặc biệt
khác có tên gọi là cổ phiếu thành viên ưu đãi - participating preference shares).


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
8

Lãi suất đối với các cổ phiếu ưu đãi không gắn liền với kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Các cổ đông chỉ được phép bầu tại hội nghị hàng năm nếu như họ không nhận lãi cổ
tức của họ.
Những người chủ sở hữu của các cổ phiếu thông thường phải chịu nhiều rủi ro nhất vì
rằng ph
ần họ sẽ được chia là phần lợi nhuận còn lại sau khi đã thanh toán tất cả các khoản.
Lợi tức của họ phụ thuộc vào mức độ lãi của doanh nghiệp và quyết định của giám đốc về việc
xác định lượng lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp. Hầu hết các cổ phiếu thông thường có
quyền bầu ra và vốn cổ phần thông thường của doanh nghiệp là vốn t
ự có (equity).
Giấy nợ (debenture) không phải là cổ phiếu. Sự khác nhau là ở chỗ người có giấy nợ cho
doanh nghiệp vay chứ không phải mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Người có giấy nợ do đó là
người cho vay chứ không phải là người sở hữu doanh nghiệp. Mức lãi suất đối với giấy nợ là
cố định và việc thanh toán đối với loại giấy nợ này là có thứ tự ưu tiên cao nhất so vớ
i tất cả
mọi loại cổ phiếu khác. Các nhà đầu tư muốn an toàn thì mua loại giấy nợ này.

2. Vấn đề sở hữu và quản lý doanh nghiệp
Trong trường hợp doanh nghiệp một chủ sở hữu, cả quyền sở hữu và quyền quản lý
thuộc một người. Hầu hết các phân tích kinh tế về doanh nghiệp đều dựa vào loại mô hình
doanh nghiệp này. Doanh nghiệp được mô hình hoá như một thự
c thể có mục tiêu và tự ra các
quyết định. Tuy nhiên, sự ra đời của công ty cổ phần đã làm phát sinh các câu hỏi quan trọng
về tính thực tế và hữu ích của cách tiếp cận này. Hơn 70 năm trước, Berle và Means (1932) đã
chỉ ra rằng phần lớn các công ty của Mỹ các chủ sở hữu chỉ chiếm ít hơn 20% quyền biểu
quyết trong các công ty. Trong điều kiện đó, người ta cho rằng, khi các cổ phiếu được ph

biến rộng rãi, các cổ đông sẽ có ít tin tức hơn về sự hoạt động của công ty mà họ sở hữu, sự sở
hữu công ty sẽ thuộc về bộ máy quản lý vì họ có nhiều thông tin nội bộ hơn về sự hoạt động
của công ty.

Tranh luận về việc quản lý của chủ sơ hữu và sự quản lý của người quản lý.

V
ấn đề cơ bản ở đây là khác biệt về mục tiêu của các chủ sở hữu và các nhà quản lý.
"Trường phái quản lý" theo nghiên cứu của Berle và Means lập luận rằng những người chủ sở
hữu và người quản lý là các nhóm các thể khác nhau và họ có các mục tiêu mâu thuẫn với
nhau. Những người chủ sở hữu được coi là quan tâm tới lợi nhuận nhiều nhất, còn các nhà
quản lý lại quan tâm tới vị trí, niề
m tự hào, quyền lực và khả năng kiểm soát công ty theo mục
đích riêng của họ. Đúng là những người chủ sở hữu của công ty cổ phần không phải là tập hợp
các cá nhân là những người quản lý. Tuy nhiên, tập hợp các nhà quản lý và tập hợp các chủ sở
hữu có thể trùng nhau một phần. Vì rằng các nhà quản lý cấp cao đặc biệt là giám đốc thường
có cổ phần do đó họ vừa là ngườ
i sở hữu vừa là người quản lý. Việc phân định rõ ràng ranh
giới giữa người quản lý và người chủ sở hữu là tương đối và không hoàn hảo. Nếu những nhà
quản lý là những người chủ sở hữu và có nguồn thu đáng kể so với thu nhập của họ từ các cổ
phiếu thì lợi ích của họ sẽ trùng với lợi ích của chủ sở hữu và nhà quản lý. Thậm chí nế
u
người chủ sở hữu và người quản lý hoàn toàn khác nhau và có những mục tiêu mâu thuẫn với
nhau, người quản lý chỉ có khả năng theo đuổi mục đích của họ nếu như họ có khoảng tự do
nhất định. Chúng ta sẽ được thấy có những lực lượng hạn chế được sự tự do đó của các nhà
quản lý:
- Mối đe doạ bị thôn tính (take - over) và thị trườ
ng kiểm soát;


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
9
- Ảnh hưởng của cổ đông đặc biệt (institutional shareholders);

- Hoạt động của các thị trường lao động nội bộ.

3. Mục tiêu của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức phối hợp và tổ chức các nguồn lực để sản xuất ra hàng
hoá hoặc dịch vụ để bán. Trong các lý thuyết kinh tế truyền thống, doanh nghiệp thường được
giả định là có mục tiêu tối đa hoá l
ợi nhuận. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy các mục tiêu khác
của doanh nghiệp như tối đa hoá doanh thu, tối đa hóa lợi ích quản lý. Khi theo đuổi các mục
tiêu khác nhau, doanh nghiệp sẽ có hành vi khác nhau. Trong phần này chúng ta sẽ xem xét
hành vi của doanh nghiệp khi theo đuổi các mục tiêu khác nhau đó.

3.1 Mô hình tân cổ điển về doanh nghiệp: mô hình này có ba loại giả định liên quan tới mục
tiêu của doanh nghiệp, chi phí và sản lượng và các điều kiện về cầu của doanh nghi
ệp.

3.1.1 Giả định tối đa hoá lợi nhuận
Bộ phận đầu tiên của mô hình tân cổ điển này là mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa
hoá lợi nhuận. Giả định này mang tính mơ hồ (không rõ ràng) vì rằng nó không đề cập tới
phạm vi thời gian trong đó lợi nhuận sẽ được tối đa hoá.
Trường hợp đơn giản nhất là xem xét mô hình ngắn hạn hay một thời kỳ
trong đó mục
tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Như chúng ta đã biết ngắn hạn là một thời kỳ
trong đó doanh nghiệp bị hạn chế bởi số lượng nhất định về nhà máy và thiết bị và có các chi
phí cố định mà doanh nghiệp phải chịu cho dù có sản xuất hay không.
Trường hợp phức tạp hơn là mô hình nhiều thời kỳ và trong mô hình này mục tiêu của
doanh nghiệp là tố
i đa hoá của cải (Wealth) của các cổ đông hay giá trị của doanh nghiệp
(value of the firm), giá trị này được xác định bằng giá trị triết khấu của các khoản lợi nhuận
(luồng tiền ròng) của doanh nghiệp. Giá trị này được xác định như sau:


PV =
π
1
1()+ r
+
π
2
2
1()+ r
+ +
π
n
n
t
n
r()1
1
+
=
=

π
t
t
r()1+


Trong đó PV là giá trị hiện tại của tất cả các khoản lợi nhuận trong tương lai của doanh
nghiệp,
π

1
,
π
2
,
n
π
là lợi nhuận kỳ vọng tại các năm thứ 1,2 và n.
Trong trường hợp này doanh nghiệp có hai loại quyết định. Thứ nhất, doanh nghiệp
phải ra các quyết định dài hạn (quyết định đầu tư) về mức năng lực sản xuất và loại hình nhà
máy mà doanh nghiệp muốn lắp đặt. Thứ hai, doanh nghiệp phải quyết định việc sử dụng hiệu
quả nhất các máy móc và thiết bị s
ẵn có.
Nếu như lợi nhuận của mỗi thời kỳ độc lập với nhau, thì mô hình một thời kỳ và nhiều
thời kỳ sẽ nhất quán như nhau. Tuy nhiên, vấn đề sẽ phức tạp hơn nếu như lợi nhuận kiếm
được tại thời kỳ này có ảnh hưởng tới lợi nhuận sẽ kiếm được trong tương lai, vì rằng trong
trường hợp này có thể giá tr
ị của doanh nghiệp sẽ tối đa hoá bằng cách hy sinh lợi nhuận ngắn
hạn. Thí dụ, một doanh nghiệp độc quyền có thể thu được lợi nhuận tối đa rất cao trong ngắn
hạn. Tuy nhiên, điều đó có thể lôi kéo các doanh nghiệp khác vào ngành và có thể là đối tượng
điều tiết của chính phủ. Do vậy, giá trị của doanh nghiệp có thể sẽ tối đa nếu như doanh


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
10
nghiệp không tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn. Mô hình doanh nghiệp tân cổ điển này không
xem xét đến các điều phức tạp đó mà chỉ quan tâm tới việc tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn.

3.1.2 Chi phí và sản lượng

Trong mô hình tân cổ điển, doanh nghiệp được giả định sản xuất một loại sản phẩm
tiêu chuẩn hoá và các chi phí sản xuất được biết trước theo hình chữ U như hình 1.3. Chi phí
bình quân giảm xuống trong khoảng từ A tới B, vì chi phí cố định được chia nhỏ cho lượng
sản phẩm tăng lên, và bắt đầu tăng lên ngoài điểm B khi mà quy luật hiệu suất giảm dần làm
tăng chi phí biến đổi bình quân.










3.1.3 Các điều kiện của cầu
Bộ phận thứ ba của mô hình tân cổ điển về doanh nghiệp là giả định doanh nghiệp biết
được thông tin về sản lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể bán tại mỗi mức giá. Chúng ta
sẽ nghiên cứu về cầu chi tiết hơn trong các chương sau, nhưng trong chương này chúng ta
nhắc lại cầu phụ thuộc vào hai nhóm nhân tố. Thứ nhất, cầu phụ thuộc vào hành vi của người
tiêu dùng, họ sẽ xác đị
nh tổng cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Thứ hai, cầu phụ thuộc
vào cơ cấu ngành mà doanh nghiệp hoạt động và hành vi của các đối thủ cạnh tranh. Thí dụ
đơn giản nhất ở đây chúng ta xem xét đó là trường hợp độc quyền, khi mà chỉ có một doanh
nghiệp duy nhất cung cấp hàng hoá cụ thể nào đó. Trong trường hợp này, cầu của người tiêu
dùng đối với sản phẩ
m do một doanh nghiệp thoả mãn và không có sự khác biệt giữa tổng cầu
đối với sản phẩm và cầu đối với doanh nghiệp. Hình dạng của đường cầu sẽ phụ thuộc vào
bản chất của sản phẩm cụ thể đó, số lượng người tiêu dùng trong thị trường liên quan và thu
nhập cũng như thị hiếu của họ.


3.1.4. Cân bằng trong mô hình độc quyền tối đa hoá lợi nhuận
Sau khi giả định về mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và có những hiểu biết nhất định về
các điều kiện về cầu, chi phí, chúng ta có thể chuyển sang giai đoạn thứ hai của việc xây dựng
mô hình đó là việc đưa ra các dự đoán logic trên cơ sở các giả định đó. Phương pháp được sử
dụng ở đây là phương pháp toán tối ưu. Chúng ta có thể tóm tắt như
sau:
Mục tiêu: tối đa hoá lợi nhuận
π
(q)→ max
Trong đó
π
(q) = TR(q) - TC(q)
Trong đó
π
(q) - Lợi nhuận;
TR(q) - Tổng doanh thu;
TC(q) - Tổng chi phí;
q - Sản lượng bán ra.
Sản l
ư
ợn
g
Chi
ATC
B


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý

11
Chúng ta cũng đã biết để tối đa hoá lợi nhuận, các điều kiện sau đây cần phải được
thoả mãn:

Điều kiện 1 : d
π
/dq = dTR/dq - dTC/dq = 0
Hoặc là : dTR/dq = dTC/dq
Điều kiện 2: d
2
TR/dq
2
< d
2
TC/dq
2

Đó chính là nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận quen thuộc của chúng ta: sản xuất tại một
mức sản lượng tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên và độ đốc của đường chi phí
cận biên lớn hơn độ dốc của đường doanh thu cận biên. Chúng ta có thể minh hoạ điều này
trên hình 1.4 sau đây:












Hình 1.4 Trạng thái cân bằng của doanh nghiệp

Trong hình 1.4 này, mức sản lượng t
ối đa hoá lợi nhuận là Q* và giá tối đa hoá lợi
nhuận là P*. Trong mô hình đơn giản này, chúng ta thấy rằng sản lượng mà doanh nghiệp sản
xuất và bán được giả định là như nhau. Nếu không có sự thay đổi về điều kiện của cầu thì
doanh nghiệp không có xu hướng thay đổi giá hay sản lượng. Doanh nghiệp trong trạng thái
cân bằng ngắn hạn.

3.1.5 Áp dụng mô hình đơn giản này
Mô hình chúng ta xây dựng trên đây được sử dụng vào các mục đích sau đây. Trước
hết, theo trường phái chính thống, trên cơ sở của mô hình này chúng ta sẽ dự đoán phản ứng
của doanh nghiệp trước sự thay đổi của môi trường. Khi các yếu tố của môi trường thay đổi,
mô hình sẽ cho chúng ta biết cách thức ứng xử của doanh nghiệp để đạt được trạng thái cân
bằng mới. Thí dụ, nếu cầu t
ăng, cả giá và sản lượng sẽ tăng. Nếu chi phí tăng, giá sẽ tăng
nhưng sản lượng giảm. Biểu sau đây mô tả các đặc điểm so sánh tĩnh của mô hình tối đa hoá
lợi nhuận:

Sự thay đổi Tác động tới
Giá Sản lượng
Cầu tăng + +
Cầu giảm - -
Tăng chi phí biến đổi + -
Thuế một lần 0 0

M
C

D
Q
*
P
*

Q
P
MR


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
12


3.1.6. Hạn chế của lý thuyết doanh nghiệp

Lý thuyết doanh nghiệp với giả định rằng mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá giá
trị của doanh nghiệp bị phê phán là quá hẹp và không thực tế. Người ta đã đề xuất ra các lý
thuyết rộng hơn. Nổi bật nhất trong số các lý thuyết này là các mô hình cho rằng mục tiêu đầu
tiên của doanh nghiệp là tối đa hoá doanh thu, tối đa hoá ích lợi của người quản lý và hành vi
thoả mãn (satisficing behavior)

3.2 Mô hình tối đa hoá doanh thu
Mô hình này do William Baumol (1958) đề xuất. Trong mô hình này, tiền lương của
các giám đốc, địa vị của họ và các khoản tiền thưởng thường có quan hệ với quy mô của
doanh nghiệp mà họ quản lý. Quy mô này được đo bằng doanh thu bán hàng chứ không phải
là lợi nhuận. Trong trường hợp đó, các nhà quản lý sẽ quan tâm tới việc tăng doanh số bán
hàng chứ không phải là tăng lợi nhuận, và như vậy mục tiêu của doanh nghiệp sẽ là tối

đa hoá
tổng doanh thu chứ không phải là tối đa hoá lợi nhuận.
Xét theo nhiều khía cạnh, mô hình này cũng chia sẻ các đặc điểm cơ bản so với mô
hình chuẩn. Đó cũng là một mô hình tối ưu hoá trong đó một doanh nghiệp sản xuất một mặt
hàng có mục tiêu duy nhất, có thông tin hoàn hảo và biết được các điều kiện của cầu và chi
phí. Các chi tiết khác so với mô hình chuẩn như chúng ta sẽ thấy dưới
đây. Trong hình 1.5,
doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng A với mức tổng doanh thu B và lợi nhuận C. Chú ý rằng
đó là mức sản lượng cao hơn và mức giá thấp hơn so với mức tối đa hoá lợi nhuận (sản lượng
D và tổng doanh thu E). Một doanh nghiệp tối đa hoá doanh thu sẽ luôn sản xuất nhiều hơn và
đặt giá thấp hơn so với một doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận khi có cùng đ
iều kiện về chi phí
và cầu vì lý do sau đây:
- Để tối đa hoá tổng doanh thu, doanh thu cận biên bằng không
MR = 0;
- Để tối đa hoá lợi nhuận, doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên MR=MC;
- Vì chi phí cận biên lớn hơn không, do đó đối với doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận
doanh thu cận biên phải lớn hơn không;
- Do đó doanh thu cận biên của doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận phải lớn hơn doanh
thu cận biên c
ủa doanh nghiệp tối đa hoá doanh thu;
- Vì doanh thu cận biên là đường nghiêng xuống, sản lượng cân bằng của doanh
nghiệp tối đa hoá doanh thu phải lớn hơn sản lượng cân bằng của doanh nghiệp tối đa hoá lợi
nhuận.




KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý

13























Hình 1.5 Mô hình tối đa hoá doanh thu

Như chúng ta đã thấy trong hình 1.5, khi tối đa hoá doanh thu, doanh nghiệp cũng
kiếm được một lượng lợi nhuận nhất định. Tuy nhiên lượng lợi nhuận đó có thể chưa đủ để
thoả mãn các cổ đông và trong nhiều trường hợp tối đa hoá doanh thu còn gây ra thua lỗ cho
doanh nghiệp. Và do đó mô hình tối đa hoá doanh thu đơn giản là không đủ mà phải kèm thêm

một ràng buộc về lợi nhuận tối thiểu phả
i đạt được.
Trong mô hình 1.5, chúng ta cũng thấy ba khả năng có thể xảy ra.
Khả năng thứ nhất: Lượng lợi nhuận kiếm được thoả mãn yêu cầu về lợi nhuận tối
thiểu PC
1
, sản lượng sẽ được sản xuất ra trùng với sản lượng tối đa hoá doanh thu.
Khả năng thứ hai: Lượng lợi nhuận tại mức sản lượng tối đa hoá doanh thu nhỏ hơn
yêu cầu tối thiểu về lợi nhuận PC
2
. Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải cắt giảm sản
lượng để đạt được mức lợi nhuận đó. (Mức H)
Khả năng thứ 3: khi mức lợi nhuận tối thiểu doanh nghiệp phải đạt được trùng với mức
lợi nhuận tối đa mà doanh nghiệp có thể kiếm được (theo tiêu thức MR=MC) lúc này hành vi
của doanh nghiệp sẽ giống như hành vi của doanh nghiệp tối đa hoá l
ợi nhuận cho dù có sự
khác biệt về mục tiêu.
So sánh hai mô hình
Hai mô hình này có một số điểm giống và khác nhau khi xem xét các đặc điểm so sánh
tĩnh. Khi cầu tăng, doanh nghiệp trong cả hai mô hình đều ứng xử như nhau: nâng giá và sản
lượng. Nhưng mô hình tối đa hoá lợi nhuận, khi chi phí cố định tăng lên hay khi trả thuế một
lần, thì quyết định sản xuất không thay đổi, còn trong mô hình tối đa hoá doanh thu khi điều
B
ð

PC3
PC2
PC1

Q


TR
TC
D H
A
E
C
Giá
Chi phí



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
14
này xảy ra thì doanh nghiệp giảm sản lượng và nâng giá bán nếu như ràng buộc về lợi nhuận
bị vi phạm.

3.3 Mô hình tối đa hoá ích lợi quản lý
Oliver Williamson đưa ra khái niệm "sự ưa thích chi tiêu" để xây dựng mô hình tối đa
hoá lợi ích quản lý. Theo Williamson, mục tiêu của người quản lý là tối đa hoá lợi ích của
chính họ và người quản lý đạt được điều đó bằng cách chi tiêu cho những việc không cần thiết
cho công việc nhưng lại thoả mãn mục đích riêng tư. Williamson xác định ba loại chi tiêu cơ
bản sau:
- Chi tiêu để tuyển thêm biên chế vượt quá mức cầ
n thiết để vận hành doanh nghiệp
(S). Điều này làm tăng quyền lực, uy tín và ích lợi của người quản lý khi họ cho là quản lý
nhiều nhiều người sẽ thích hơn.
- Chi thêm tiền "bổng lộc" cho người quản lý (M). Đó là việc tiêu dùng xa xỉ như ô tô
sang trọng, quần áo, tiệc tùng

- Lợi nhuận tự do (Descretionary profit) là lợi nhuận sau thuế cao hơn lượng tối thiểu
cần thiết cho các cổ đông. Phần
đó sẵn có để người quản lý chi tiêu cho các hoạt động nhằm
mục tiêu riêng của họ.
Như vậy trong mô hình này có các mục tiêu mâu thuẫn và có sự tráo đổi giữa các mục
tiêu. Mô hình này phức tạp hơn mô hình tối đa hoá lợi nhuận nhiều. Ở đây chúng ta chỉ xem
xét qua các đặc điểm chung nhất của mô hình.
U = f(S, M,D) - lợi ích quản lý U phụ thuộc vào S, M, D.

Nếu TR tổng doanh thu, TC tổng chi phí, T thuế thì
- Lợi nhuận thực tế
TR - TC - S
- Lợi nhuận báo cáo TR - TC - S - M
Nếu như lượng lợi nhuận tối thiểu sau khi nộp thuế phải có để thoả mãn các cổ đông là
Z thì
D = TR - TC - S - M - T - Z.
Giải mô hình này hết sức phức tạp đòi hỏi nhiều công cụ toán như vi phân để giải bài
toán tiêu dùng. Tuy nhiên, có thể đặt vấn đề như sau: Để tối đa hoá lợi ích (U >max), điều
kiện cân bằng cần được thoả mãn:
MUs = MUm = MUd(1-t)
Trong đó t là tỷ
lệ thuế lợi nhuận.
Từ đó chúng ta có các đặc điểm so sánh tĩnh như sau:
- Nếu cầu giảm, tại mọi mức sản lượng D sẽ giảm. Theo giả định của quy luật lợi ích
cận biên giảm dần MUd sẽ tăng. Trạng thái cân bằng bị vi phạm. Để đạt tới trạng thái cân
bằng mới, phần lợi nhuận biến đổi phải chuyển cho D t
ừ S và M. Do đó sản lượng cân bằng sẽ
giảm xuống. Trường hợp với chi phí cố định tăng hay trả thuế một lần cũng như vậy.
- Nếu thuế đánh vào lợi nhuận tăng lên, (1-t) giảm và do đó MU d(1-t) giảm xuống,
chuyển sang S và M do vậy sản lượng tăng.

3.4 Mô hình hành vi thoả mãn
Các công trình nghiên cứu của Herbert Simon đã cho thấy rằng việc điều hành một
doanh nghiệp lớn là rất phức tạp. Nhiệm vụ các nhà quản lý lại càng phức tạp hơn bởi sự
không chắc chắn và thông tin không hoàn hảo. Chính vì vậy mà mục tiêu của doanh nghiệp
không phải là tối đa hoá lợi nhuận mà chỉ cố gắng đạt được những kết quả nhất định về doanh


KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 1 – Giới thiệu môn Kinh tế Quản lý
15
thu, tỷ trọng thị trường, tăng trưởng. Simon gọi đó là hành vi thoả mãn. Tuy nhiên hành vi
thoả mãn này cũng không có gì là không nhất quán với tối đa hoá lợi nhuận hay giá trị của
doanh nghiệp. Nếu có đầy đủ thông tin, các doanh nghiệp lớn cũng tiếp cận theo các mục tiêu
lợi nhuận.
4. Phạm vi quốc tế của kinh tế quản lý
Ngày nay, rất nhiều hàng hoá và dịch vụ chúng ta sử dụng là hàng hoá nhập khẩu. Các
doanh nghiệp cũng nhập khẩu nhiều nguyên nhiên liệu và bán sản phẩm ra nước ngoài. Đặc
biệt hơn nữa là các doanh nghiệp trong nước phải chịu sức ép lớn của cạnh tranh ngay trên thị
trường trong nước và quốc tế. Xu hướng quốc tế hoá ngày càng trở nên phổ biến và các yếu tố
sản xuất được di chuyển tự do hơn. Các công ty
đa quốc gia hoạt động ở hầu hết các nước trên
thế giới. Như vậy có thể nói rằng tính quốc tế hoá xảy ra trong cả lĩnh vực tiêu dùng cũng như
sản xuất. Vì vậy thật quan trọng khi tính đến xu thế này trong nghiên cứu kinh tế quản lý để
phản ánh đúng hiện thực đang diễn ra.





KINH TẾ QUẢN LÝ

Chương 2 – Phân tích cầu
16

Chương II
PHÂN TÍCH CẦU


Đây là một trong các chương quan trọng nhất của kinh tế học quản lý vì không một
doanh nghiệp nào có thể tồn tại nếu như cầu đối với sản phẩm của nó là quá nhỏ hoặc không
đủ. Chương này sẽ xem xét các lực lượng ảnh hưởng tới cầu của doanh nghiệp và các phương
pháp ước lượng cầu.

I. CẦU VÀ ĐỘ CO GIÃN

1. Đường cầu thị trường

1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu
Các lý thuyết kinh tế về hành vi của người tiêu dùng cho thấy rằng nói chung đường cầu
đối với sản phẩm của ngành dốc xuống, biểu thị khi giá sản phẩm giảm xuống thì người tiêu
dùng sẽ mua nhiều hơn. Tuy nhiên giá của sản phẩm không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng
đến lượng cầu. Rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến cầu về một sản phẩm. Đó là:
 Giá của bản thân sản phẩm (P
0
)
 Giá của các sản phẩm khác, đặc biệt là các sản phẩm thay thế và bổ sung (P
C
,P
S
)
 Thu nhập được sử dụng của người tiêu dùng (Y

d
)
 Thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng (T)
 Mức độ quảng cáo về bản thân sản phẩm (A
0
)
 Mức quảng cáo về các sản phẩm khác, đặc biệt là sản phẩm bổ sung và sản phẩm
thay thế (A
c
, A
s
)
 Lãi xuất (i)
 Sự sẵn có của tín dụng (C)
 Kỳ vọng của người tiêu dùng về giá cả và cung trong tương lai (E).
Các yếu tố này có thể biểu thị chung trong một hàm số sau:
Q
d
= f(P
0
, P
c
, P
s
, Y
d
, T, A
o
, A
c

, A
s
, I, C, E)

Vì giá của bản thân sản phẩm (P
o
) là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến cầu,
nên sự chú ý thường tập trung vào đường cầu, biểu thị mối quan hệ giữa giá của bản thân sản
phẩm và lượng cầu. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng giá của bản thân sản phẩm chỉ là một trong
các yếu tố ảnh hưởng đến cầu.







KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
17
1.2. Đường cầu
Đường cầu, như thí dụ biểu thị ở hình 2.1 biểu thị các số lượng một sản phẩm sẽ được
mua ở các mức giá khác nhau, với điều kiện các yếu tố khác ảnh hưởng đến cầu không đổi.
(Ceteris Paribus)

















Hình 2.1: Đường cầu


Giá của bản thân hàng hoá thay đổi gây ra sự vận động dọc theo đường cầu. Các yếu
tố khác thay đổi thì gây ra sự dịch chuyển của đường cầu.

2. Co giãn của cầu theo giá
Đường cầu nói chung là dốc xuống nhưng độ dốc của đường cầu lại khác nhau với
từng hàng hoá. Có thể sử dụng độ dốc của đương cầu để đo mức độ phản ứng của cầu đối với
giá. Tuy nhiên thước đo đó sẽ thay đổi khi chúng ta biểu thị giá và lượng trên các trục với các
tỷ lệ khác nhau. Một cách tốt hơn để đo mức độ phản ứng của cầu đối với những thay đổi
trong giá là sử dụng khái niệm co giãn của cầu theo giá của bản thân hàng hoá. Khái niệm này
được định nghĩa như sau:

Phần trăm thay đổi trong lượng cầu
E
D
P
=
Phần trăm thay đổi trong giá

hoặc Thay đổi trong lượng giá
Ep = *
Thay đổi trong giá lượng



D
2
D
2

D
1

D
1
Đường cầu
Lượng
Giá
Q
2
Q
1
P
2
P
1




KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
18
2.1. Co giãn đoạn và co giãn điểm
"Co giãn đoạn" là co giãn trong một khoảng có thể đo được của đường cầu, như ở đoạn AB
ở hình 2.2.













Hình 2.2. Co giãn của cầu theo giá trong một đoạn

Co giãn của cầu có thể có những giá trị khác nhau cho cùng một đoạn trên đường cầu,
phụ thuộc vào xu hướng thay đổi của giá và lượng (Ví dụ, nếu giá ban đầu là P
A
thì độ co giãn
sẽ khác nếu giá ban đầu là P
B
) . Có thể định nghĩa lại co giãn đoạn dưới dạng trung bình của
hai giá trị khác nhau nhưng cũng không hợp lý. Cách tốt hơn là định nghĩa co giãn đoạn có
thể có hai giá trị, phụ thuộc vào xu hướng của giá và lượng.

Trên hình 2.2. khi các điểm A và B tiến lại gần nhau thì sự khác nhau giữa hai giá trị
của co giãn đoạn là rất nhỏ. Nếu khoảng cách AB là vô cùng nhỏ thì đoạn AB sẽ trở thành
một điểm và co giãn đoạn được thay thế bằng bằng co giãn điểm:
dQ P
E
D
= .*
dP Q
Trong trường hợp này sự không rõ ràng về giá trị của co giãn đoạn biến mất và đây là
khái niệm được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích kinh tế.
Nếu độ co giãn có giá trị tuyệt đối lớn hơn một thì cầu được gọi là co giãn. Nếu độ co
giãn có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn một thì cầu được gọi là không co giãn. Trong các trường hợp
độ co giãn bằng không và bằng vô cùng thì cầu được gọi tương ứng là hoàn toàn không co
giãn và hoàn toàn co giãn. Nếu độ co giãn bằng âm một thì cầu được gọi là co giãn đơn vị.

2.2. Mối quan hệ giữa co giãn và doanh thu
Vì co giãn của cầu theo giá của bản thân hàng hoá đo mức độ phản ứng của cầu đối
với sự thay đổi giá nên rõ ràng phải có mối quan hệ giữa mức độ co giãn và doanh thu. Nếu
cầu co giãn thì một sự giảm giá dẫn đến sự tăng lớn hơn trong lượng cầu và kết quả là doanh
thu sẽ tăng. Ngược lại nếu cầu là không co giãn thì giảm giá dẫn đến một sự tăng ít hơn trong
lượng cầu do đó doanh thu sẽ giảm. Vậy khi cầu là co giãn thì doanh thu thay đổi ngược chiều
với giá. Khi cầu không co giãn thì doanh thu thay đổi cùng chiều với giá.
Q
P
A
B
Q
A
Q
B

P
A
P
B




KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
19















Hình 2.3. Co giãn và doanh thu cận biên

Hình 2.3 đề cập sâu hơn về mối quan hệ này- sử dụng đường cầu tuyến tính để minh
hoạ mối quan hệ giữa co giãn của cầu theo giá của bản thân hàng hoá và doanh thu cận biên.

Doanh thu cận biên được định nghĩa là sự thay đổi trong tổng doanh thu khi bán thêm một
đơn vị sản phẩm.
Hình trên cho thấy khi cầu là co giãn (giữa các điểm X và Y), doanh thu cận biên
dương. Điều này cho thấy để bán thêm một đơn vị sản phẩm giá chỉ phải giảm đi một phần rất
nhỏ, do đó tổng doanh thu tăng. Ở điểm Y, độ co giãn bằng âm một, doanh thu cận biên bằng
không, điều này biểu thị tổng doanh thu giữ nguyên khi giá thay đổi. Khi cầu là không co giãn
(giữa các điểm Y và Z), doanh thu cận biên âm. Điều này cho thấy để bán thêm một đơn vị
sản phẩm giá phải thay đổi lớn hơn, vì thế tổng doanh thu giảm.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến co giãn của cầu theo giá
Độ co giãn của cầu theo giá của bản thân hàng hoá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Rõ
nhất là sự tồn tại của các hàng hoá thay thế. Nếu có nhiều hàng hóa với mức độ thay thế càng
cao thì cầu về hàng hoá đang xem xét càng co giãn. Điều này còn hàm ý rằng mức độ co giãn
phụ thuộc vào việc chúng ta đang xét loại hàng hóa nào. Nếu hàng hóa đang xét là "Thịt" thì
hàng hóa thay thế gần nhất cũng có những đặc điểm khác biệt rất nhiều. Vì vậy, cầu về thịt là
không co giãn. Ngược lại, nếu hàng hóa đang xét ở một phạm vi hẹp hơn, ví dụ là "thịt lợn"
thì các hàng hóa thay thế sẽ có những đặc tính gần giống với thịt lợn hơn và cầu về thịt lợn sẽ
co giãn hơn.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến co giãn của cầu là tỷ trọng của tổng thu nhập của người
tiêu dùng chi cho hàng hoá đang xem xét. Nếu phần chi tiêu cho một hàng hoá chiếm tỷ trọng
lớn trong thu nhập của người tiêu dùng thì sự thay đổi của giá sẽ ảnh hưởng đến lượng cầu.
Mặt khác nếu phần chi tiêu cho hàng hoá đó chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong thu nhập của
người tiêu dùng thì họ sẽ ít nhạy cảm hơn với thay đổi giá và do đó cầu về hàng hoá đó sẽ có
xu hướng không co giãn.
Lượng
Giá
Đường cầu/Doanh
thu trung bình
Doanh thu
cận biên

X
Y
Z



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
20
Yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến co giãn của cầu là khoảng thời gian xem xét. Trong dài
hạn cầu sẽ có xu hướng co giãn hơn trong ngắn hạn vì người tiêu dùng có thể biết được sự
thay đổi giá và tìm ra các cách khác để thoả mãn các nhu cầu của mình.

3. Co giãn của cầu theo thu nhập
Cầu không chỉ phản ứng với sự thay đổi giá của bản thân hàng hoá mà còn phản ứng
với các yếu tố khác. Mức độ của sự phản ứng đó được đo bằng các thước đo co giãn khác.
Co giãn của cầu theo thu nhập được định nghĩa là:
Phần trăm thay đổi trong lượng cầu
E
I
=
Phần trăm thay đổi trong thu nhập

Co giãn của cầu theo thu nhập trong một khoảng được cho bởi:
Thay đổi trong lượng cầu Thu nhập của người tiêu dùng
E
I
= *
Thay đổi trong thu nhập của Lượng cầu
người tiêu dùng

Co giãn của cầu theo thu nhập của tại một điểm được cho bởi:
dQ I
E
I
= * -
dI Q
Trong đó: Q là lượng cầu
I là thu nhập của người tiêu dùng
Độ lớn và dấu của co giãn của cầu theo thu nhập phụ thuộc vào bản chất của hàng hoá
đang xem xét và mức thu nhập của người tiêu dùng.
Trong trường hợp hàng thiết yếu thì co giãn của cầu theo thu nhập là dương nhưng
nhỏ hơn một. Trong trường hợp hàng xa xỉ thì co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn một.
Trong trường hợp hàng hoá bình thường, bao gồm cả hàng thiết yếu và hàng xa xỉ, thì co giãn
của cầu theo thu nhập là dương. Trong trường hợp hàng hoá thứ cấp thì co giãn của cầu theo
thu nhập là âm.

4. Co giãn chéo
Co giãn chéo biểu thị mức độ phản ứng của cầu hàng hoá này đối với giá của hàng hoá
khác. Các hàng hoá khác quan trọng nhất là các hàng hoá thay thế ở mức độ cao và hàng hóa
bổ sung. Co giãn chéo giữa hai hàng hoá A và B được định nghĩa như sau:
Phần trăm thay đổi trong lượng cầu hàng hoá A
E
ab
=
Phần trăm thay đổi trong giá hàng hoá B
Co giãn chéo trong một đoạn được cho bởi:
Thay đổi trong lượng cầu hàng hoá A Giá hàng hoá B
E
ab
= *

Thay đổi trong giá hàng hoá B Lượng hàng hoá A




KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
21
Co giãn chéo tại một điểm được cho bởi:
dQ
A
P
B

E
ab
= *
dP
B
Q
A

Trong trường hợp hai hàng hoá có mối quan hệ thay thế thì co giãn chéo có dấu dương.
Trong trường hợp hai hàng hoá có mối quan hệ bổ sung thì co giãn chéo có dấu âm. Trong
trường hợp hai hàng hóa không có mối quan hệ gì rõ rệt thì co giãn chéo bằng không.
Co giãn chéo có thể là hữu ích trong việc đi đến một định nghĩa thích hợp về thị
trường hoặc ngành. Nếu ngành được định nghĩa là một nhóm các doanh nghiệp sản xuất các
sản phẩm có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao thì cũng tương đương như nói rằng ngành là
một nhóm doanh nghiệp sản xuất các hàng hoá có co giãn của cầu theo giá chéo là số dương
và có giá trị lớn. Nếu co giãn chéo có thể ước lượng được thì chúng có thể được dùng để chia

nền kinh tế ra thành các ngành theo một phương pháp có ý nghĩa về mặt kinh tế.

5. Đường cầu đối với một doanh nghiệp
Trong khi thông tin về cầu thị trường là rất có ích đối với một doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp lại có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến cầu về sản phẩm của bản thân mình so
với cầu của cả ngành. Điều này phụ thuộc vào cơ cấu cạnh tranh của ngành mà ta sẽ xem xét
sau.
Trường hợp đơn giản nhất- ngành là độc quyền thuần tuý- Trong ngành này chỉ có một
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đang xem xét và không có khả năng cho các doanh nghiệp
khác gia nhập ngành. Trong trường hợp đó đường cầu đối với cá nhân một doanh nghiệp là
đường cầu đối với cả ngành.
Trường hợp thứ hai là cạnh tranh hoàn hảo, ở đó có nhiều doanh nghiệp sản xuất các
sản phẩm giống nhau. Trong trường hợp này giá được xác định bởi tác động qua lại của cung
cầu và mỗi doanh nghiệp chỉ có thể bán hết số lượng hàng hóa ở giá đó. Nếu bán ở mức giá
cao hơn thì họ sẽ không bán được sản phẩm nào. Vì thế, đường cầu đối với cá nhân doanh
nghiệp là đường nằm ngang.
Trong trường hợp mà cơ cấu thị trường không phải là độc quyền cũng không phải là
cạnh tranh hoàn hảo thì cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Thứ nhất là độ co giãn của cầu thị trường. Nếu cầu thị trường là co giãn hoàn toàn thì
các doanh nghiệp sẽ không thể bán sản phẩm của mình ở giá khác với giá ban đầu.
Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến co giãn của cầu đối với một doanh nghiệp là mức độ
khác biệt hóa của sản phẩm hoặc sự trung thành của khách hàng với sản phẩm. Nếu sản phẩm
có sự khác biệt lớn và người mua cực kỳ trung thành với doanh nghiệp thì đường cầu sẽ dốc
xuống chứ không phải là nằm ngang. Thực chất mỗi doanh nghiệp sẽ là một "nhà độc quyền
mi ni", sản xuất sản phẩm không có sản phẩm khác thay thế ở mức độ cao. Ngược lại nếu các
sản phẩm giống nhau và người tiêu dùng không có sự trung thành với sản phẩm thì đường cầu
sẽ nằm ngang.
Yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến co giãn của cầu đối với sản phẩm của một doanh nghiệp
là thị phần. Nếu doanh nghiệp có thị phần lớn thì khi doanh nghiệp giảm giá, để cầu của
doanh nghiệp có thể tăng lên một chút ít sẽ cần thu hút một phần đáng kể khách hàng của các

doanh nghiệp đối thủ. Ngược lại nếu doanh nghiệp có thị phần nhỏ trên thị trường thì khi



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
22
giảm giá doanh nghiệp chỉ cần thu hút một phần nhỏ các khách hàng của các doanh nghiệp
đối thủ thì lượng bán của doanh nghiệp đã tăng lên một cách đáng kể.
Thứ tư, co giãn của cầu về sản phẩm của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào phản ứng của
các doanh nghiệp đối thủ đối với những thay đổi trong giá. Nếu các doanh nghiệp đối thủ
phản ứng lại sự giảm giá bằng cách tăng sản lượng của mình (và giảm giá) thì cầu của doanh
nghiệp sẽ kém nhạy cảm hơn so với trường hợp các đối thủ giữ nguyên hoặc giảm sản lượng
của họ.
Đối với các sản phẩm không có sự khác biệt hóa Needham (1978) đã đưa ra phương
trình sau để biểu thị các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến co giãn của cầu đối với sản phẩm
của cá nhân một doanh nghiệp:

(E
m
+E
s
.E
r
)
E
f
=
S
f

Trong đó E
f
là co giãn của cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp

E
m
là co giãn của cầu thị trường
E
s
là co giãn của cung của các đối thủ đối với những thay đổi giá của doanh
nghiệp
S
f
là thị phần của doanh nghiệp
S
r
là thị phần của các đối thủ.


6. Co giãn của cầu và sức mạnh của người mua
Khi phân tích cơ cấu ngành, người ta sử dụng "mô hình năm lực lượng". Một trong
"năm lực lượng" đó là sức mạnh của người mua. Sức mạnh đó được xác định bởi hai nhóm
yếu tố.
 Độ nhạy cảm với giá của người mua
 Sức mạnh mặc cả của họ
Mặc dù hai khái niệm này không được lượng hoá nhưng lại rất gần với khái niệm độ co
giãn của cầu theo giá. Porter chỉ ra các yếu tố sau đây ảnh hưởng đến độ nhạy cảm với giá:
 Tỉ lệ của hàng hoá mua trong tổng mua của người tiêu dùng. Nếu hàng hoá mua chiếm tỉ lệ
không đáng kể trong tổng mua của người mua thì họ sẽ có xu hướng không nhạy cảm với
giá.

 Nếu có sự khác biệt sản phẩm và nhãn hiệu hàng hóa thì sẽ làm giảm độ nhạy cảm đối với
giá.
 Ảnh hưởng của sản phẩm đó đến chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ của người mua.
Nếu sản phẩm bán ra đó là một bộ phận then chốt trong việc duy trì chất lượng hoặc giảm
chi phí của sản phẩm của người mua thì họ sẽ không nhạy cảm với giá.
 Động cơ mua hàng hóa của người ra quyết định. Nếu những người mua là quản lý của một
công ty thì họ sẽ có nhiều động cơ khác nhau. Có một số động cơ khuyến khích họ nhạy
cảm hơn với giá, một số động cơ khác lại khiến họ không chú trọng đến giá.
Hai yếu tố đầu tiên đã được đề cập đến ở phần các yếu tố ảnh hưởng đến co giãn của cầu
theo giá của bản thân hàng hoá. Các yếu tố còn lại minh hoạ tầm quan trọng của khách hàng



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
23
là doanh nghiệp, khác với người tiêu dùng. Cần nhớ rằng phân tích kinh tế thường tập trung
vào khách hàng là người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng chỉ là một loại khách hàng. Đối
với nhiều doanh nghiệp thì hành vi của những khách hàng doanh nghiệp lại là quan trọng
nhất.

II. ƯỚC LƯỢNG CẦU

Rõ ràng là về mặt nguyên lý các khái niệm cầu và co giãn của cầu là rất quan trọng đối
với quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Tuy nhiên những khái niệm lý thuyết này chỉ có
thể ứng dụng trong thực tế nếu có thể ước lượng được về lượng cầu và độ co giãn. Đây là
một nhiệm vụ khó nhưng có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Sự phân biệt quan trọng
nhất cần phải lưu ý là ước lượng và dự đoán. Ước lượng cố gắng lượng hoá các mối quan hệ
giữa cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến nó, còn dự đoán thì cố gắng xác định lượng cầu ở một
thời gian nào đó trong tương lai.


1. Ước lượng đơn giản về co giãn đoạn
Một cách đơn giản nhất để ước lượng co giãn của cầu thị trường là quan sát số lượng
bán trước và sau khi có sự thay đổi giá và giả định rằng hai kết hợp giá và lượng đã biết đó là
nằm trên cùng một đường cầu.













Hình 2.4: Ước lượng trực tiếp co giãn trong một đoạn

Ưu điểm của phương pháp này là nó đơn giản bởi vì việc ước lượng có thể thực hiện
được dựa trên một sự thay đổi giá. Nhược điểm thứ nhất của nó là kết quả về mối quan hệ
giữa giá và lượng cầu có thể không chính xác vì có sự thay đổi số lượng hàng lưu trong kho
khi có sự thay đổi giá. Nếu người bán tin rằng có sự tăng giá thì số lượng hàng lưu trong kho
sẽ tăng lên, ngược lại khi tin rằng có sự giảm giá thì số lượng hàng lưu trong kho lại ít đi.
Nhược điểm thứ hai là không có gì đảm bảo rằng hai kết hợp giá/lượng quan sát thấy đó nằm
trên cùng một đường cầu. Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp cả đường cung và đường cầu
đều dịch chuyển và điểm cân bằng mới chuyển từ A đến B.




Q
P
B
A



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
24
2. Ước lượng kinh tế lượng các đường cầu
Phương pháp thứ hai phức tạp hơn để ước lượng cầu là sử dụng "kinh tế lượng". Đây là
một phân tích thống kê các số liệu kinh tế bằng việc sử dụng các kỹ thuật hồi quy bội. Ví dụ
kỹ thuật này cho phép sử dụng các số liệu về cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến cầu để ước
lượng các hệ số của hàm cầu. Dạng tổng quát của hàm cầu là:
Q
d
= f(P
o
, P
c
, P
s
, Y
d
,T, A
c
, A
s

, I,C, E)
Phương trình dạng này cho thấy số lượng hàng hoá được cầu là một hàm số của tất cả
các yếu tố ảnh hưởng đến nó, mà không xác định một dạng hàm cụ thể nào cho mối quan hệ
giữa biến phụ thuộc (Qd) và từng biến độc lập (P
o
, P
c
, P
s
, Y
d
,T, A
c
, A
s
, I,C, E).
Nếu cần ước lượng các hệ số thì cần phải chọn một dạng hàm cụ thể. Các dạng phổ biến
nhất là hàm cầu tuyến tính và hàm cầu mũ.
Hàm cầu tuyến tính có thể viết như sau:
Q
d
= a+b
1
P
o
+b
2
P
c
+b

3
P
s
+b
4
Y
d
+b
5
T+b
6
A
o
+b
7
A
c
+b
8
A
s
+b
9
I+b
10
C+b
11
E
Nếu có các số liệu về mỗi biến và các số liệu này là đầy đủ để có thể áp dụng kỹ thuật
thống kê về hồi quy bội thì hệ số tự do (a) và các hệ số biểu thị ảnh hưởng của mỗi yếu tố đến

lượng cầu (từ b
1
đến b
11
) có thể ước lượng được. Khi đã ước lượng được các hệ số này thì có
thể dự đoán lượng cầu nếu có các giá trị của một trong các yếu tố ảnh hưởng bằng cách thay
các giá trị này vào hàm số trên.
Trong trường hợp đặc biệt với đường cầu là đường thẳng thì việc ước lượng các hệ số
của hàm cầu không cho ta ước lượng trực tiếp độ co giãn của cầu. Nhưng việc tính toán này là
đơn giản. Định nghĩa co giãn của cầu theo giá của bản thân hàng hoá có thể viết là:

mà từ hàm cầu ta thấy
n khác bao gồm co giãn theo thu nhập, co giãn chéo và co giãn theo quảng
o đ
ước lượng độ co giãn. Tuy nhiên dạng tuyến
ạng mũ. Dạng này có thể viết như sau:
ố ũ ệ số từ a đến j) và phương trình có thể
viết dưới dạng tuyến tính bằng việc lấy log hai vế, ta được:

Các co giã
cá ều có thể tính bằng cách đó.
Việc xác định hàm cầu tuyến tính cho phép
tính này đã dựa trên giả định rằng với bất kỳ một sự thay đổi giá luôn có một ảnh hưởng như
nhau đến lượng cầu bất kể đó là mức giá nào. Giả định đó mâu thuẫn với phần lớn các tư duy
kinh tế, bao gồm cả các lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng. Vì vậy người ta thường sử
dụng một cách xác định khác để ước lượng cầu.
Phương án thay thế phổ biến nhất cho dạng tuyến tính là d
Q
d
= f(P

o
a
.P
c
b
.P
s
c
.A
c
d
.A
c
e
.A
s
f
. Y
d
g
.I
h
.C
i
.E
j
)
Ở dạng này các độ co giãn bằng các s m (các h
Q
P

dP
dQ
Ep *=
1b
dP
dQ
=
Q
P
bEp *1=



KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 2 – Phân tích cầu
25
lo =alogP
o
+blogP
s
+clogP
c
+dlogA
o
+elogA
s
+ flogA
c
+hlogI+ilogC+jlogE
Có thể ước lượng phương trình này bằng cách sử dụng

gQ
d
hương pháp hồi quy bội, ta
là dạng hàm cầu
ề đúng với bất kỳ độ tin
úng (sai số là hiệu số giữa
i ta





Hình 2.5: Vấ đề xác định
các p
kết quả ước lượng mà không h
ố là đ
sẽ được những ước lượng trực tiếp về các độ co giãn khác nhau của cầu. Đây
được sử dụng phổ biến nhất để ước lượng, nhưng cũng cần phải lưu ý rằng nó lại dựa trên giả
định rằng các độ co giãn là không đổi.
Việc ước lượng hàm cầu như trên là chấp nhận được nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
thống kê nằm trong việc đạt đến những
cậy nào. Trước hết, phương pháp hồi quy bội không cho ta một mối quan hệ chính xác giữa
lượng cầu và mỗi một trong các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Nó chỉ biểu thị mối quan hệ "phù
hợp nhất" với số liệu đã có. Trong một số trường hợp mối quan hệ "phù hợp nhất" này chỉ giải
thích được một phần rất nhỏ những thay đổi trong lượng cầu. Nếu như vậy hàm số đã xác
định sẽ có giá trị thấp trong việc ước lượng và dự đoán cầu.
Thứ hai, các giá trị ước lượng được của các hệ số trong phương trình cầu là những ước
lượng tốt (được gọi là BLUES) nếu những giả định về sai s
giá trị cầu ước lượng được bằng phương trình và giá trị thực tế). Nếu không thì phải thực hiện
những sự điều chỉnh khác nhau, nhưng chẳng có sự điều chỉnh nào là thoả mãn hoàn toàn.

Vấn đề thứ ba là sự xác định đường cầu. Khi các nhà thống kê đã thu nhập được rất
nhiều các quan sát về giá của hàng hoá theo thời gian, và mức cầu ở mỗi mức giá thì ngườ
kết luận rằng đường thẳng nối tất cả các tập hợp cuả các quan sát đó là đường cầu. Trong
hình 2.5 đó là đường ABC.



















n

Q
P




Đường cầu
ước lượng
C
B
A
(a)



A
B
C
S
1
S
2
S
3
D
D
D
Q
P
(b)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×