Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Các phương pháp tư duy sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.16 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÀI THU HOẠCH
MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tên đề tài: CÁC PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY SÁNG TẠO
GVHD: GS.TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
NGƯỜI THỰC HIỆN: PHẠM VIẾT VĂN
MSHV: 02 08 4805 33 KHÓA: K18
TP. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2012
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
































Ngày tháng năm 2012
Hoàng Văn Kiếm
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Mục lục
Mục lục
Giới thiệu 3
Các phương pháp nâng cao khả năng tư duy sáng tạo 3
1.Phương pháp não công (brainstorming) 4
a)Đặc điểm và yêu cầu: 4
b)Các bước tiến hành: 5
2.Phương pháp đối tượng tiêu điểm (Method of Focal Objects) 6
a)Các bước thực hiện: 6
b)Ví dụ về phương pháp 6
3.Phương pháp DOIT 7
a)Lịch sử của phương pháp 7
b)Cách tiến hành 8
i.Xác định vấn đề 8
ii.Cởi mở ý tưởng và áp dụng các kỹ thuật sáng tạo 8

iii.Xác định lời giải hay nhất 9
iv.Chuyển bước 9
4.Phương pháp phân tích hình thái 10
a)Các bước tiến hành: 6 bước 10
b)Ví dụ về phương pháp: 10
5.Kỹ thuật phân tích SWOT 11
a)Cách dùng kỹ thuật SWOT 12
b)Tư duy linh hoạt với SWOT 13
6.Tư duy bên ngoài chiếc hộp (thinking out of the box) 14
a)Tư duy “bên trong chiếc hộp” 14
b)Tư duy “bên ngoài chiếc hộp” 15
c)Tư duy “bên ngoài chiếc hộp” cần những tố chất sau: 15
Kết luận 16
Tham khảo 17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Giới thiệu
Thật không quá lời khi nói rằng nếu không có sáng tạo thì không thể có xã hội phát triển như ngày nay.
Nhờ sáng tạo mà con người đã chế ra được biết bao nhiêu thứ để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống cũng
như nâng cao năng suất lao động. Từ thửa sơ khai, con người đã biết cách tạo ra các công cụ như là
búa, rìu để phá cây, đập đá hay săn thú. Đến khi phát triển hơn con người chế ra cái cày, cái cuốc, rồi
đến máy cày Nhờ sáng tạo, con người, qua từng thời đại đã chế tạo ra biết bao nhiêu thiết bị, công cụ
để mở rộng khả năng của chính mình.
Nếu không có tư duy sáng tạo, chúng ta không thể giải quyết được những vấn đề nan giải đòi hỏi có
tính đột phá và hoàn toàn mới lạ, chúng ta sẽ không có được laptop, iPhone, iPad sẽ không có máy
bay, tàu cao tốc, Điều đấy cho thấy sáng tạo có ý nghĩa vô cùng to lớn với sự phát triển của con
người. Tuy nhiên, có một câu hỏi được đặt ra là "làm thế nào để có được tư duy sáng tạo?"
Từ lâu, các nhà khoa học đã nhận thấy sự quan trọng cũng như sức mạnh mà sáng tạo mang lại, nên đã
tiến hành những nghiên cứu nhằm tìm ra các phương án biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng
sáng tạo, tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể làm việc chung trong một lĩnh
vực. Trong bài này chúng ta cùng nhau tìm hiểu về một số phương pháp nâng cao khả năng tư duy sáng

tạo của con người.
Các phương pháp nâng cao khả năng tư duy sáng tạo
Một trong những người đặt nền móng cho hóa học lượng tử, người từng đoạt được giải Nobel năm
1963 đã từng nói rằng "Cách tốt nhất để có ý tưởng tốt là cần có thật nhiều ý tưởng” (The best way to
get a good idea is to get alot of ideas - Linus Carl Pauling).
Thế nhưng ý tưởng sáng tạo không phải tự dưng mà có được. Đã có bao giờ bạn ngồi hàng giờ trước
màn hình máy tính hoặc trên bàn làm việc mà không biết mình cần phải làm gì và phải bắt đầu làm từ
đâu hay chưa? Tôi đã từng như vậy. Mỗi lần như thế tôi lại suy nghĩ băn khoăn không biết rằng đầu óc
mình ngày càng mụ mẫm đi chăng, hay là mình không có một chút sáng tạo nào để giải quyết vấn đề?
Những câu hỏi ấy đâu đó cứ lãng vãng trong đầu và đôi khi nó đã là những nỗi ám ảnh đối với tôi.
Đến một ngày khi tôi tham gia lớp phương pháp nghiên cứu khoa học của thầy Hoàng Văn Kiếm, tôi
mới vỡ lẽ ra rằng không phải tôi không đủ khả năng sáng tạo, đầu óc tôi vẫn còn đủ tỉnh táo, nhưng vấn
đề của tôi chính là trước giờ làm việc chưa có khoa học, chưa biết cách để tư duy một cách sáng tạo.
Và tôi nghiệm ra rằng những lần tôi sáng tạo ra một lời giải cho một vấn đề nào đó, có chăng là một sự
tình cờ mà những lần sau đó, tôi không tài nào biết cách để có thể tái diễn sự tình cờ đó được dễ dàng.
Qua những bài giảng của thầy Kiếm trên lớp, tôi cũng đã dần dà nắm được những phương pháp làm
việc có khoa học mà những người đi trước đã đúc kết được, tôi đã thử áp dụng phương pháp ấy vào
việc làm đồ án tốt nghiệp của mình và kết quả là tôi đỡ mất thời gian hơn và ý tưởng thu được ngày
càng nhiều.
Nhận thấy tư duy một cách sáng tạo là điều mà tôi đang thiếu và nó rất là quan trọng, nên ngoài việc
học tập theo bài giảng về TRIZ, sáu mũ tư duy, trên lớp của thầy, tôi đã tìm hiểu thêm một số các
phương pháp khác nhằm nâng cao khả năng tư duy sáng tạo của mỗi người. Các phương pháp có thể kể
3/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
ra đây là brainstorming (não công), tư duy bên ngoài chiếc hộp, kích hoạt, DOIT, mindmap, đối tượng
tiêu điểm, phân tích hình thái, phương pháp câu hỏi kiểm tra, đảo lộn vấn đề, tương tự hóa,
Sau đây xin trình bày một số phương pháp phổ biến trong việc nâng cao khả năng tư duy sáng tạo.
1. Phương pháp não công (brainstorming)
Phương pháp này được Alex Osborn đưa ra vào năm 1941. Phương pháp này tận dụng những suy nghĩ
đến từ ý thức cũng như vô thức, nhằm mục đích phát triển nhiều giải đáp sáng tạo cho một vấn đề. Qua

một số nghiên cứu thực nghiệm, Osborn nhận thấy rằng những người giàu trí tưởng tượng có khả năng
phát ra nhiều ý tưởng hơn những người khác nhưng lại yếu về mặt phân tích, phê phán. Ngược lại, một
số người giỏi phân tích, phê bình các ý tưởng có sẵn hơn là tự mình đưa ra ý tưởng mới. Nên ông đề ra
phương pháp để tận dụng khả năng của hai loại người này.
Với não công, các ý niệm/hình ảnh về vấn đề trước hết sẽ được nêu ra
một cách phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng nhiều,
càng đủ càng tốt. Các ý kiến có thể rất rộng và sâu cũng không giới
hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề mà những người tham
gia nghĩ tới. Trong não công thì các vấn đề được đào xới từ nhiều khía
cạnh và nhiều góc nhìn khác nhau. Sau cùng, các ý kiến sẽ được phân
nhóm lại và đánh giá.
Não công thường được áp dụng nhiều trong trường hợp:
• Cần phát triển các ý tưởng.
• Giải quyết các vấn đề - các khó khăn, những phương hướng giải quyết mới, phân tích ảnh
hưởng và các đánh giá của vấn đề
• Cần quản lý các quá trình - tìm cách nâng cao hiệu quả công việc và xử lý sản phẩm.
• Quản trị các đề tài - nhận diện đối tượng, độ nguy hại, các phân phối, các tiến độ công việc, tài
nguyên, vài trò và trách nhiệm, thủ thuật, các vấn đề
• Xây dựng đội ngũ (team building) - Tạo sự chia sẻ và bàn thảo về các ý kiến trong khi khuyến
khích người trong đội ngũ tư duy
a) Đặc điểm và yêu cầu:
• Phương pháp này có thể tiến hành bởi một hay nhiều người. Số lượng người tham gia nhiều sẽ
giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn
khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác nhau của mỗi người.
• Dụng cụ: Tốt nhất là thể hiện bằng một bảng viết cho mọi thành viên đều đọc rõ tình trạng của
hoạt động động não. Nếu tiến hành cá nhân hay vài người thì có thể thay thế bằng giấy viết.
Ngày nay, người ta có thể tiến hành bằng cách nối các máy tính cá nhân vào chung một mạng
4/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
làm cùng tiến hành việc động não. Bằng cách này những người ở xa nhau cùng có thể tham gia

và việc động còn được giúp đỡ bởi các phương tiện mạnh của tin học như là các kho dữ liệu,
các từ điển trực tuyến, và các máy truy tìm. Hiện nay, có nhiều phần mềm hỗ trợ mindmap là
công cụ đắc lực cho phương pháp này.
• Định nghĩa vấn đề: Vấn đề muốn giải quyết phải được xác định thật rõ ràng, phải đưa ra được
các chuẩn mực cần đạt được của một lời giải đáp. Trong bước này thì vấn đề sẽ được cô lập hóa
với môi trường và các nhiễu loạn. Nói theo cách chuyên môn, đây là bưóc đầu tiên xác định nội
hàm của vấn đề và xác định các khả năng, các điều kiện cần hay đủ của một lời giải.
• Tập trung vào vấn đề - đây là bước động. Tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài có thể
làm lạc hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn này, người ta thu thập tất cả các ý niệm, ý kiến và
ngay cả các từ chuyên môn có liên quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết (thường có thể viết
lên giấy hoặc bảng tất cả). Những ý kiến này đều được xem là có vai trò ngang nhau không
phân biệt chi tiết lớn nhỏ. Việc ghi chép ra bảng cũng không nhất thiết phải liệt kê hay sắp xếp
theo trình tự nào hết.
• Không được phép đưa bất kỳ một bình luận hay phê phán gì về các ý kiến hay ý niệm trong lúc
thu thập. Những ý tưởng thoáng qua trong đầu nếu bị các thành kiến hay phê bình sẽ dễ bị gạt
bỏ và như thế sẽ làm mất sự tổng quan của buổi động não.
• Khuyến khích tinh thần tích cực. Mỗi thành viên đều cố gắng đóng góp và phát triển các ý kiến
tùy theo trình độ, khía cạnh nhìn thấy riêng và không giới hạn cách nhìn của mỗi thành viên.
• Đưa ra càng nhiều ý càng tốt về mọi mặt của vấn đề kể cả những ý kiến không thực tiễn, ý kiến
hoàn toàn lạ lẫm hay sáng tạo.
b) Các bước tiến hành:
1. Trong nhóm, lựa ra một người đầu nhóm (để điều khiển) và một người làm thư ký để ghi lại tất
cả ý kiến (cả hai công việc có thể do cùng một người thực hiện nếu tiện).
2. Xác định vấn đề hay ý kiến sẽ được "công". Phải làm cho mọi thành viên hiểu thấu đáo về đề tài
sẽ được tìm hiểu.
3. Thiết lập các "luật chơi" cho buổi động não. Chúng nên bao gồm:
• Người đầu nhóm có nhiệm vụ điều khiển buổi làm việc.
• Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá, phê bình hay thêm bớt
vào ý kiến, từ vựng nêu ra, hay giải đáp của thành viên khác.
• Cần xác định rằng không có câu trả lời nào là sai!

• Tất cả câu trả lời, các ý, các cụm từ, ngoại trừ nó đã được lập lại đều sẽ được thu thập ghi
lại (cách ghi có thể tóm gọn trong một chữ hay một câu cho mỗi ý riêng rẽ).
• Vạch định thời gian cho buổi làm việc và ngưng khi hết giờ
5/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
4. Bắt đầu động não: Người lãnh đạo chỉ định hay lựa chọn thành viện chia sẻ ý kiến trả lời (hay
những ý niệm rời rạc). Thư ký phải viết xuống tất cả các câu trả lời, nếu có thể, công khai hóa
cho mọi người thấy (viết lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay
bình luận nào về bất kỳ câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt buổi động.
5. Sau khi kết thúc động, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời. Một số lưu ý về
chất lượng câu trả lời bao gồm:
• Tìm những câu ý trùng lặp hay tương tự để thu gọn lại.
• Góp các câu trả lời có sư tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên lí.
• Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp.
• Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn cãi thêm về câu trả lời chung.
2. Phương pháp đối tượng tiêu điểm (Method of Focal
Objects)
Phương pháp đối tượng tiêu điểm là một phương pháp tích cực hóa tư duy trong khoa học sáng tạo. Nó
được giáo sư trường đại học tổng hợp Berlin F. Kunze đưa ra những năm 1926 với tên gọi ban đầu là
phương pháp danh mục (catalogue), và được nhà bác học người Mỹ C. Whiting hoàn thiện.
Ý tưởng của phương pháp là cải tiến một đối tượng bằng cách chuyển giao những dấu hiệu (tính chất,
chức năng) của những đối tượng ngẫu nhiên vào đối tượng cần cải tiến. Ví dụ đưa tính chất "thơm" của
"nước hoa" vào đối tượng "bút", ta có "bút có mùi thơm".
a) Các bước thực hiện:
Các bước thực hiện của phương pháp này bao gồm:
• Bước 1: Chọn đối tượng tiêu điểm cần cải tiến
• Bước 2: Chọn ngẫu nhiên 3, 4 đối tượng tiêu điểm.
• Bước 3: Liệt kê các đặc điểm về đối tượng được chọn.
• Bước 4: Kết hợp các đặc điểm của đối tượng được chọn với đối tượng tiêu điểm,
• Bước 5: Phát ý tưởng từ sự kết hợp ở bước 4 dựa trên sự liên tưởng tự do

• Bước 6: Đánh giá và lựa chọn những ý tưởng khả thi.
b) Ví dụ về phương pháp
Vấn đề: Công ty điện thoại di động XYZ đang bị mất thị phần điện thoại di động trong nước bởi các
sản phẩm điện thoại di động của nước ngoài. Ban giám đốc công ty triệu tập hội nghị sáng tạo sản
phẩm điện thoại mới theo phương pháp “Lựa chọn đối tượng tiêu điểm”.
6/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
• Bước 1: Chọn sản phẩm điện thoại di động với 3 chức năng cơ bản nghe, nói chuyện, nhắn tin.
• Bước 2: Chọn 3 đồ vật ngẫu nhiên: Máy tính nối mạng Internet, Bông hoa Hồng, Quạt gió.
• Bước 3: Phân tích đặc điểm đối tượng.
Máy tính Bông hoa Quạt gió Điện thoại
Kết nối internet Thơm Quay Nghe, gọi
Dữ liệu lớn Có cánh Có cánh Gửi đọc SMS
Trò chơi Nhiều mầu sắc Tạo gió
Nghe nhạc Hương thơm Nhựa
Xem phim Triết nước hoa Đàn hồi
Viết văn bản Có gai Tái chế
Đồ họa Trang trí Thay thế
Chạy Window Không ngấm nước Điều chỉnh tốc độ
Tinh toán Hưng phấn Chạy điện
• Bước 4 và 5: Kết nối các ý tưởng trong bảng với Điện thoại đang có chúng ta có thể có các sản
phẩm: Điện thoại hình dáng bông hoa, Điện thoại tỏa mùi hương, Điện thoại chạy phần mền
Window, Điện thoại kết nối Internet, Điện thoại xem phim trực tuyến. Điện thoại thay đổi mầu
sắc theo ngày…
• Bước 6: Đánh giá và lựa chọn ý tưởng sản phẩm phù hợp.
3. Phương pháp DOIT
DOIT là một phương pháp tư duy sáng tạo rất hiệu quả trong môi trường nghiên cứu. Nó được nhiều
người mệnh danh là một "Trình tự đơn giản để sáng tạo".
Trong khi các kỹ thuật khác tập trung trên từng khía cạnh đặc biệt của tư duy sáng tạo, thì DOIT sẽ
"gói ghém" chúng lại với nhau, dẫn ra các phương pháp về sự xác định ý nghĩa và đánh giá của vấn đề.

DOIT giúp bạn tìm ra kỹ thuật sáng tạo nào là tốt nhất.
Chữ DOIT là chữ viết tắt từ Anh ngữ bao gồm:
D: Define Problem (Xác định vấn đề)
O: Open Mind and Apply Creative Techniques (Cởi mở Ý tưởng và Áp dụng các Kỹ thuật Sáng
tạo)
I: Identify the best Solution (Xác định lời Giải hay nhất)
T: Transform (Chuyển bước)
7/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
a) Lịch sử của phương pháp
Kĩ thuật này đã được miêu tả lần đầu trong quyển "The Art of Creative Thinking" (tạm dịch Nghệ thuật
Tư duy Sáng tạo) của Robert W. Olson năm 1980.
b) Cách tiến hành
Dựa theo các bước viết tắt của DOIT việc tiến hành được phân ra như sau
i. Xác định vấn đề
Phần này tập trung vào phân tích vấn đề, để đoán chắc rằng vấn đề được đặt ra là đúng. Những bước
sau đây sẽ giúp khẳng định và cô lập nguyên do của vấn đề:
• Kiểm lại rằng bạn nắm vững vấn đề, không chỉ thấy dấu hiệu của nó. Hãy hỏi lập đi lập lại
rằng tại sao vấn đề tồn tại, cho tới khi nào bạn nhận ra cội rễ của vấn đề.
• Đặt câu hỏi tại sao vấn đề nảy sinh. Điều này có thể dẫn tới mệnh đề tổng quát hơn của vấn
đề.
• Hãy nắm rõ các giới hạn, biên giới của vấn đề. Rút ra từ các đối tượng cái gì là mục tiêu
muốn đạt tới, cái gì ràng buộc những hoạt động/thao tác để đạt mục tiêu, và cái gì là những
điều kiện môi trường có thể thay đổi hay hoán chuyển hay không các điều kiện này.
• Ghi xuống các mục đích, các đối tượng và/hoặc các tiêu chuẩn mà một lời giải của vấn đề
phải thoả mãn. Sau đó, hãy "kéo dãn" mỗi mụch đích, mỗi đối tượng và tiêu chuẩn ra và viết
xuống tất cả những ý tưởng mà nó có thể được "để mắt tới".
• Khi mà vấn đề có vẻ rất lớn, thì hãy chia nhỏ hay bẻ gãy nó ra thành nhiều phần. Tiếp tục
như vậy cho tới khi tất cả các phần chia ra đều có thể giải đoán được trong đúng phạm vi của
nó, hay là phải xác định một cách chính xác những vùng nào cần nghiên cứu để tìm ra.

• Tổng kết vấn đề trong một dạng càng ngắn gọn súc tích càng tốt. Tác giả cho rằng cách tốt
nhất để làm việc này là viết xuống một số mệnh đề miêu tả vấn đề bằng hai từ và lựa chọn
mệnh đề nào rõ nhất.
ii. Cởi mở ý tưởng và áp dụng các kỹ thuật sáng tạo
• Một khi đã nắm rõ vấn đề muốn giải quyết, bạn đã có đủ diều kiện để bắt đầu đề ra các lời
giải khả dĩ. Hãy chấp nhận tất cả những ý tưởng hay nảy sinh trong óc.
• Ở giai đoạn này, chúng ta không cần đánh giá về các ý tưởng được đưa ra (cởi mở ý tưởng).
Thay vào đó, hãy cố đưa ra càng nhiều càng tốt các ý kiến có thể dùng. Ngay cả những ý tồi
có thể làm ngòi nổ cho các ý tốt về sau.
• Kích thích những ý mới bằng cách "lôi ra" (một cách bắt buộc) những sự tương đồng, tương
tự giữa vấn đề đang suy nghĩ với những vấn đề khác tưởng chừng không hề có một liên hệ
nào với nhau. Chẳng hạn như (dùng phương pháp Thu Thập ngẫu nhiên):
• Viết xuống tên của các đối tượng vật chất, hình ảnh, thực vật, hay động vật.
8/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
• Lập danh sách chi tiết các đặc tính của nó.
• Sử dụng danh sách này để làm mồi kích thích trực giác nảy sinh các ý mới cho việc giải
quyết vấn đề.
• Có thể dùng đến tất cả các phương pháp tư duy sáng tạo khác để tìm tất cả các ý có thể là lời
giải đúng cho vấn đề. Mỗi phương pháp sẽ cho ta những điểm mạnh và những điều lợi ích.
• Hãy hỏi nhiều ngươì có nền tảng học vấn, có hiểu biết, và có mức độ thông minh khác nhau
cho ý kiến về các lời giải. Trong khi đưa ra các lời giải, hãy nhớ cho rằng mỗi cá nhân khác
nhau sẽ có một cách tiếp cận khác nhau và cái nhìn khác nhau về cùng một vấn đề, và gần
như chắc chắn rằng các ý kiến dị biệt đó sẽ góp phần vào quá trình chung.
iii. Xác định lời giải hay nhất
Chỉ có trong bước này mới cần lựa ra ý tưởng hay nhất trong các ý đã nêu trong các bước trước.
Thường thì ý tưởng tốt nhất được nhận ra một các hiển nhiên. Nhưng nhiều lúc, một cách có giá trị là
kiểm nghiệm và phát triển chi tiết hơn những ý kiến đã đề ra trước khi lựa chọn ý nào hay hơn để chắc
chắn rằng một lời giải hay không bị bỏ quên. Cách thức đánh giá các lời giải cũng tuỳ theo mụch đích
và điều kiện đã xác định ở bước đầu. Một cách hay là đưa ra một thang điểm khách quan trong việc

đánh giá các phương án. Cuối cùng phương án nào cao điểm nhất sẽ được chọn.
• Khi lựa chọn lời giải phải luôn bám sát vào các mục đích của bạn. Việc quyết định sẽ trở nên
dễ dàng khi mà bạn hiểu rõ các mục đích này.
• Ghi ra tất cả những "mặt trái" hay yếu điểm của ý kiến của bạn. Hãy thật sự nghiêm khắc! Cố
gắng để làm tốt lên (mỹ hoá) các mặt xấu này. Sau đó hãy điều chỉnh lời giải để giảm các
khía cạnh yếu kém trên.
• Hãy nhấn mạnh các hậu quả tiềm tàng: xấu nhất cũng như tốt nhất có thể xảy đến khi thực thi
lời giải của bạn. Điều chỉnh lại lời giải để giảm nhẹ hết sức hậu quả xấu và tăng cường tối đa
những ảnh hưởng tích cực. Tiến hành "Chuyển bước" nếu bạn có đủ sức.
iv. Chuyển bước
• Sau khi xác định và đưa ra lời giải cho vấn đề, thì bước cuối cùng là thực hiện lời giải. Biến
lời giải thành hành động. Bước này không chỉ bao gồm sự phát triển sản phẩm bền vững của
các ý kiến của bạn mà còn bao gồm cả các mặt khác (như là thị trường và giao thương nêu
vấn đề có liên quan đến sản xuất). Điều này có thể cần nhiều thì giờ và công sức. Bước cuối
này thường trở nên khó khăn cho nhiều người nghiên cứu độc lập không có kinh nghiệm về
sản xuất. Do đó việc liên kết với các nhà sản xuất có kinh nghiệm hay các nhà đầu tư cũng là
một bước đòi hỏi một số kỹ năng gia tế cần thiết.
• Hiểu biết tường tận về thị trường, địa phương, chế độ, luật lệ, con người, xã hội và các yếu tố
sản xuất tại nơi mình muốn thực thi kế hoạch sẽ đóng vai trò tối quan trọng trong bước này.
• Một lời nhắc nhở khá quan trọng: Khi mà thì giờ cho phép, hãy lợi dụng tìm hiểu thêm những
quá trình nghiên cứu và những dự định khác xem các ý kiến nào đã được thử nghiệm.
• Có rất nhiều nhà sáng tạo thất bại trong giai đoạn này. Họ sẽ có nhiều vui sướng để sáng chế
ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới là những thứ có thể đi trước thị trường hiên tại trong nhiều
9/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
năm. Họ lại thất bại để phát triển chúng và đành bó tay ngắm nhìn những người khác hưởng
lợi trên những ý tưởng sáng tạo này trong rất nhiều năm (như trường hợp của người sáng lập
ra thương hiệu McDonald's, người tìm ra chất kháng sinh penicillin đầu tiên, máy chụp
ảnh )
4. Phương pháp phân tích hình thái

Là phương pháp tích cực hóa tư duy bằng cách tách đối tượng ra từng con số rồi đa dạng hóa hình thái
của các con số. Sau đó, kết hợp chúng lại để tạo ra ý tưởng mới.
a) Các bước tiến hành: 6 bước
• Bước 1: Xác định đối tượng cần nghiên cứu.
• Bước 2: Tách, liệt kê các thông số của từng đối tượng
• Bước 3: Đa dạng hóa hình thái của các thông số vừa liệt kê ở bước 2.
• Bước 4: Lập bảng ma trận cho các thông số hình thái (có bao nhiêu thông số thì kẻ bấy nhiêu
hàng).
• Bước 5: Rút công thức và phát ý tưởng. Rút theo hàng dọc, hàng chéo đều được, miễn sao có đủ
các thông số cần thiết là ok. Sau đó chấm điểm các ý tưởng. Ý tưởng nào khả thi thì cho điểm
cao. Lựa chọn phương án tối ưu nhất.
• Bước 6: Chủ thể nghiên cứu và các cộng sự nhận định, đánh giá, xây dựng nguyên lý giải pháp,
đưa ý tưởng trở thành hiện thực.
b) Ví dụ về phương pháp:
• Bước 1: Thành lập quán cà phê.
• Bước 2: Vốn, mặt bằng, nguyên liệu, nhân viên.
• Bước 3:
A (vốn): A1: vay, A2: tự có. A3: liên kết
B (mặt bằng): B1: Quận 1, B2: Q Bình Thạnh, B3: Quận 7, B4: Quận 4
C (nguyên liệu): C1: cà phê Trung Nguyên, C2: cà phê R7, C3: cà phê xay, C4: cà phê
Biên Hòa
D (nhân viên): D1: nam, D2: nữ, D3: nam nữ, D4: đồng tính
• Bước 4: lập bảng:
Thông số Các hình thái
A (Vốn) A1 (vay) A2 (tự có) A3 (Liên kết)
B (mặt bằng) B1 (Quận 1) B2 (Q B Thạnh) B3 (Quận 7) B4 (Quận 4)
C (Nguyên liệu) C1 (Trung Nguyên) C2 (R7) C3 (xay) C4 (Biên Hòa)
D (Nhân viên) D1 (nam) D2 (nữ) D3 (nam, nữ) D4 (đồng tính)
10/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học

Bước 5:
• YT1 (quán cà phê): A1 (vay) (5đ) + B2 (QBT) (5đ) + C3 (C7) (10đ) + D4 (đồng tính) (10đ)
• YT2 (quán cà phê): A3 (liên kết) (10đ) + B3 (Q7) (5đ) + C1 (T Nguyên) (10đ) + D3 (nam, nữ)
(10đ)
• YT3 (quán cà phê): A2 (tự có) (10đ) + B1 (Q1) (10đ) + C2 (R7) (5đ) + D2 (nữ) (5đ)
=> YT* (quán cà phê): A3 (liên kết) + B1 (Q1) + C1 (Trung Nguyên) + D3 (nam, nữ)
5. Kỹ thuật phân tích SWOT
Nhiều lần trong cuộc sống, chắc chúng ta từng lúng túng khi đứng trước các vấn đề đang đối mặt.
Chúng ta muốn hiểu rõ vấn đề, muốn có cái nhìn từ nhiều phía để thấy rõ những điểm mạnh, điểm yếu,
những nguy cơ và thách thức để có thể đưa ra những quyết định sáng suốt nhất. Trong những tình
huống ấy ta có thể thử sử dụng kỹ thuật phân tích SWOT!
Chữ SWOT viết tắt từ các chữ cái
đầu tiên của các từ sau:
Strengths: các điểm mạnh
Weaknesses: các điểm yếu
Opportunities: các cơ hội
Threats: các đe dọa, mối nguy
Khi sử dụng kỹ thuật SWOT này, chúng ta sẽ vẽ ra trên một tờ giấy hoặc trên một chiếc bảng 4 khu
vực được phân chia thành các mục S, W, O, T. Sau đó dùng kỹ thuật động não (brainstorming) để ghi
các ý kiến hoặc nhận xét chủ quan của cá nhân hay nhóm vào các khu vực tương ứng.
Strengths – Các điểm mạnh: đây là những yếu tố có giá trị hoặc điểm mạnh của tổ chức, cá nhân.
Những yếu tố này là thuộc tính bên trong (internal) và hữu dụng (helpful) của đối tượng đang xem xét.
• Bản thân chúng ta có những ưu điểm nào?
• Những thành công của ta trong năm vừa qua là gì?
• Chúng ta làm công việc nào có kết quả mỹ mãn nhất?
11/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
• Cá tính và nhân cách của bản thân có những nổi trội gì so với người khác?
• Kiến thức nền tảng của tôi được xây dựng theo con đường nào mà người khác không có?
• Team chúng ta có những điểm mạnh gì?

• …
Weaknesses – Các điểm yếu: đây là những điểm còn chưa hoàn thiện, chưa tốt, các yếu tố yếu kém
của cá nhân, tổ chức. Đây cũng là thuộc tính bên trong (internal) và có tính gây hại (harmful) của đối
tượng đang xem xét.
• Chúng ta yếu ở những điểm nào?
• Yếu tố nào dẫn đến sự thất bại của tổ chức?
• Bản thân tôi còn có khuyết điểm gì?
• Những yếu tố nào chúng ta có thể cải thiện?
• …
Opportunities – Các cơ hội: đây là những yếu tố có lợi, hoặc sẽ đem lại lợi thế cho cá nhân và tổ
chức. Đây là các yếu tố bên ngoài (external) và hữu ích (helpful) cho cá nhân hoặc tổ chức đang xem
xét.
• Chủ trương sắp tới của Nhà nước sẽ đem lại lợi thế gì cho tổ chức chúng ta?
• Sự quan tâm của lãnh đạo địa phương có giúp ích gì cho nhà trường hay không?
• Những xu hướng giáo dục hoặc phương pháp giảng dạy mới nào mà chúng ta nhận thấy được?
• Hình như khu đất này sắp quy hoạch?
• …
Các cơ hội thường đến từ sự thay đổi chính sách của cấp quản lý, sự thay đổi về công nghệ, phương
pháp, sự thay đổi về lối sống, thói quen tiêu dùng, thị trường, … Bạn hay tổ chức của bạn hãy mở to
mắt để quan sát, mở rộng tai để lắng nghe và dùng trí tưởng tượng của mình cùng các dữ liệu thu thập
được để hình dung và dự đoán các cơ hội đang đến.
Threats – Các mối nguy: đây là những tác động tiêu cực từ bên ngoài (external) mà cá nhân hoặc tổ
chức của bạn có thể phải đối mặt?
• Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới này liệu có cuốn phăng doanh nghiệp của mình?
• Các quán xá internet hoặc karaoke gần trường có ảnh hưởng gì đến học sinh trong trường hay
không?
• Xu hướng bạo lực học đường có xâm nhập vào trường ta không?
• Đường xá xuống cấp và kẹt xe có ảnh hưởng đến việc học của học sinh hay không?
• …
12/17

GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
a) Cách dùng kỹ thuật SWOT
Kỹ thuật phân tích SWOT được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh doanh để phân tích tình hình công
ty, nghiên cứu về các đối thủ, …Tuy nhiên, ngày nay kỹ thuật này cũng được sử dụng nhiều trong các
lĩnh vực khác như giáo dục, phát triển cá nhân, …
SWOT có thể dùng cho cá nhân, tổ chức hay trong hoạt động nhóm. Chúng ta có thể dùng giấy viết
hoặc bảng. Một cách dùng khác là sử dụng các tờ giấy dính để phát cho các thành viên trong nhóm.
Mỗi thành viên sẽ viết các thông tin mình biết vào tờ giấy rồi đính lên bảng.
b) Tư duy linh hoạt với SWOT
Sau khi đã nắm vững kỹ thuật phân tích này, chúng ta cần quay lại để nhìn ra một tầm nhìn mới trong
kỹ thuật SWOT.
Việc phân chia các yếu tố thành điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và các mối nguy không nhất thiết là một
sự phân chia cứng nhắc. Chúng ta không nên có một cái nhìn cứng nhắc về Cơ hội và Mối nguy. Vì “cơ
hội có thể chuyển thành mối nguy”, và ngược lại “mối nguy có thể chuyển thành cơ hội” đúng như cụm
từ “nguy cơ” (trong Nguy hiểm có Cơ hội).
Ví dụ:
• Trước nguy cơ học sinh của trường có kết quả thi kém, chúng ta có cơ hội nhìn lại những lý do
tồn tại và các phương hướng cải thiện cho tương lai.
• Trước cơ hội mở rộng nhà trường về mặt nhân sự, tổ chức, cơ sở vật chất, có thể chúng ta sẽ đối
mặt với các mối nguy về tài chính, bộ máy nhân sự thêm cồng kềnh, công việc phân chia không
rõ ràng và chồng chéo.
• Trong nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, nhiều công ty đã tìm thấy cơ hội
13/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
để tổ chức lại bộ máy, tìm kiếm các thị trường mới, …
Do đó, giữa Nguy và Cơ luôn là một quá trình, một sự chuyển biến qua lại, chúng ta hoặc tổ chức của
chúng ta phải nhìn thấy được điều đó để tìm kiếm một sự cân bằng hoặc chấp nhận các thách thức khi
đưa ra quyết định.
Cuộc sống chứa đựng một sự vận động không ngừng và con người phải vận động khéo léo theo dòng
chạy ấy với một tư duy linh hoạt và tầm nhìn sắc sảo để không rơi vào bất cứ thái cực nào.

6. Tư duy bên ngoài chiếc hộp (thinking out of the box)
Khái niệm “thinking out of the box” tức tư duy “tư duy bên ngoài chiếc hộp” (còn được gọi là tư duy
vượt giới hạn) xuất hiện khi những nhà quản lý thấy cách giải quyết vấn đề hay những ý tưởng thông
thường không đáp ứng được yêu cầu. Tư duy này cũng xuất hiện trong những nhóm làm việc sau khi
tổng hợp ý kiến của mọi thành viên mà vấn đề cũng chưa được giải quyết.
a) Tư duy “bên trong chiếc hộp”
Năm 1899, Charles H. Duell, trưởng Văn phòng cấp bằng sáng chế Hoa Kỳ từng nói: “Mọi thứ có thể
phát minh được đã được phát minh hết rồi”. Rõ ràng khi nói câu này, tư duy của ông vẫn nằm trong
giới hạn hiểu biết lúc đó.
Những người có tư duy chỉ nằm trong “chiếc hộp” thường gặp phải khó khăn khi tìm kiếm những ý
tưởng độc đáo và mới lạ. Hiếm khi họ đầu tư thời gian, công sức hoặc dám theo đuổi những ý tưởng
không giống người khác.
Theo đánh giá của những người làm quản lý lâu năm, tư duy bên trong “chiếc hộp” là vũ khí hữu hiệu
để huỷ hoại những ý tưởng hay và sức sáng tạo. Trong đầu những người này thường có những tư tưởng
“điều đó không thể thành sự thật”, “không thể làm được” hoặc “quá mạo hiểm để thực hiện”.
Những người này cũng tin rằng mọi vấn đề chỉ có một giải pháp khắc phục. Vì vậy, tìm ra giải pháp thứ
hai thật là lãng phí thời gian và công sức. Câu nói cửa miệng của họ là “Không có thời gian cho giải
pháp khác”.
Ngay cả những người vốn có khả năng sáng tạo nhưng sau một thời gian ngừng đào sâu và khai thác
khả năng sáng tạo của mình cũng trở thành người có tư duy bên trong “chiếc hộp”.
Giả sử chúng ta có 9 điểm tròn được xếp như hình vẽ bên dưới, làm thế nào để với chỉ 3 đường thẳng
nối nhau, ta có thể đi qua hết 9 điểm tròn đó.
14/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
b) Tư duy “bên ngoài chiếc hộp”
Rõ ràng với phần lớn mọi người, mặc nhiên họ sẽ dựng cho mình một chiếc hộp bao quanh 9 chấm
tròn. Điều này tương tự bạn đã tự xây cho mình một giới hạn về tư duy. Nếu chỉ quanh quẩn với “cái
hộp” đó, bạn sẽ không bao giờ tìm được câu trả lời.
Và đây là đáp án:
Chắc bạn sẽ thấy ngạc nhiên. Như đã nói, chúng ta phải mạnh dạn

vượt qua giới hạn của “chiếc hộp”. Bạn hãy coi đường thẳng đó
không bị giới hạn, kéo dài mãi, khi kéo càng dài thì việc quét hết các
chấm tròn càng rõ ràng. Đây là điều mà những nhà quản lý cần nhân
viên của mình tư duy và bản thân các nhà quản lý cũng cần phát
triển tư duy như vậy. Hãy nhớ, tư duy không có rào cản.
c) Tư duy “bên ngoài chiếc hộp” cần những tố chất sau:
• Sẵn sàng đón nhận những nhiệm vụ mới hàng ngày
• Sẵn sàng làm những việc khác nhau và dám làm theo những cách chưa ai làm
• Tập trung tìm hiểu những ý kiến mới và theo đuổi những ý kiến đó
• Tìm ra những giá trị mới của vấn đề cũ mà chưa ai thấy
• Biết lắng nghe người khác
• Biết hỗ trợ và tôn trọng người khác khi họ đưa ra những ý kiến khác lạ, thậm chí là “điên rồ”
Những người có tư duy ngoài “chiếc hộp” thường là những
người dám đón nhận cái mới, nhìn nhận công việc bằng
những lăng kính mới, sẵn sàng bỏ thăm dò và tìm hiểu những
điều mới mẻ đó. Họ tin rằng những ý tưởng mới dù có thể
chưa thuyết phục được phần đông nhưng họ vẫn nuôi dưỡng
và ủng hộ ý tưởng của mình. Họ nhận thấy rằng có được ý
tưởng là điều tốt nhưng thực hiện ý tưởng còn quan trọng hơn
nhiều.
Tư duy bên ngoài “chiếc hộp” chưa bao giờ là việc đơn giản
và không phải ai cũng có thể có được, có thể theo đuổi. Thành
công chỉ đến với những người dám nghĩ và dám làm.
Nhiều người trong chúng ta đã từng nghe nói đến Copernicus là người đưa ra học thuyết trái đất quay
xung quanh mặt trời còn Gallileo dám mạnh dạn ủng hộ quan điểm này ngay cả khi chết với câu nói:
“Dù sao thì trái đất vẫn quay”. Vào thời điểm đó, có thể ông là một trong những người, thậm chí là
người duy nhất dám vượt rào cản của cả hệ thống tư duy thời bấy giờ khi tất cả đều thừa nhận mặt trời
quay xung quanh trái đất. Nếu không có tư duy vượt giới hạn cả về không gian và thời gian, không dám
theo đuổi ý tưởng của mình thì không biết đến bao giờ loài người mới thoát khỏi ảo tưởng trái đất là
15/17

GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
trung tâm của vũ trụ.
Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, trong một tổ chức và đối với những nhà
quản lý, hoạch định chính sách. Ngoài việc phải nỗ lực tìm kiếm ý tưởng, họ phải biết tạo dựng một
môi trường nuôi dưỡng ý tưởng, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm với ý tưởng.
Việc tư duy theo lối mòn sẽ huỷ hoại thành công đã tạo dựng của bạn. Bạn cần phải biết thay đổi. Phải
biết rằng không có gì là tốt nhất. Có thể điều gì đó với bạn lần này là tốt nhất nhưng lần sau sẽ tốt hơn.
Và lần sau nữa, điều đó còn tốt hơn nữa. Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Sống là để thay đổi”.
Hẳn nhiều người trong chúng ta biết đến Michael Dell, người sáng lập đồng thời là Chủ tịch hội đồng
quản trị Tập đoàn sản xuất máy tính nổi tiếng thế giới Dell. Dell Computer được thành lập với số vốn
ban đầu chỉ 1.000 USD và một ý tưởng chưa từng có: bán các chương trình trực tiếp cho người tiêu
dùng, bỏ qua khâu bán hàng trung gian, một điều mà không hãng máy tính nào lúc đó làm. Kết quả là
từ người cung cấp máy tính, Công ty Dell chuyển sang sản xuất máy tính, chuyển sang tập đoàn Dell
hùng mạnh với khoảng 41.800 chi nhánh khắp thế giới và là nhà cung cấp các dịch vụ và linh kiện máy
tính đầu tiên cho các tập đoàn lớn nhất trên thế giới.
Tư duy ngoài “chiếc hộp” là một khái niệm có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong thế giới hiện tại luôn
thay đổi và các ý tưởng đang ngày càng cạn kiệt hơn. Sẽ không quá khi nói rằng trên thế giới đang có
cuộc chiến về ý tưởng. Có thể vào thời điểm đưa ra, một ý tưởng bị coi là điên rồ nhưng không chừng
trong tương lai nó lại là cứu cánh cho cả tập đoàn hay cả cuộc đời một người.
Và quan trọng nhất, chúng ta phải biết trân trọng khả năng sáng tạo của mình. Đừng xây quanh mình
“chiếc hộp” hạn chế tư duy.
Kết luận
Tư duy sáng tạo là một kỹ năng cực kỳ quan trọng với mỗi người chúng ta trong cuộc sống vì chính nó
sẽ đáp ứng những thách thức luôn xảy ra. Tư duy sáng tạo là thanh công cụ cực kỳ quan trọng để mỗi
người dù ở vị trí nào, đẳng cấp nào cũng có thể vượt qua lối mòn trong suy nghĩ, hành động để hướng
đến những giải pháp mới mẻ. Đó không chỉ là yêu cầu của cuộc sống mà còn là những phương pháp để
chúng ta chinh phục những khó khăn của cuộc đời này.
Bài tìm hiểu này nhằm mục đích giới thiệu thêm một số các kỹ thuật giúp có được tư duy sáng tạo và
khoa học. Hi vọng thông tin về những phương pháp này sẽ trở nên có ích, giúp chúng ta bổ sung thêm
kiến thức về những phương pháp tư duy sáng tạo khác ngoài nội dung đã được học trong chương trình.

Mặc dù đã cố gắng, nhưng vì kiến thức có hạn, nên chắc chắn bài tìm hiểu này vẫn còn nhiều hạn chế,
rất mong có được nhận xét đóng góp của thầy và các bạn cùng lớp.
Người thực hiện
Phạm Viết Văn - 02 08 4805 33
16/17
GVHD: GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
Tham khảo
[1] Bài giảng môn Nghiên cứu khoa học, GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
[2] Phương pháp luận sáng tạo khoa học kỹ thuật - Giải quyết vấn đề và ra quyết định, Phan Dũng
[2] />[3] />[4] o/brainstorming-%E2%80%93-ky-thuat-dong-nao/
[5] />[6] />[7] />17/17

×