3477/UBND-VX 16/09/2022 10:03:27
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐINH TRUNG TUẤN (Tổng Chủ biên) – PHẠM QUỲNH (Chủ biên)
NGUYỄN THỊ BÍCH – NGUYỄN NGỌC CHIẾN – PHẠM THỊ THU HẰNG – TRẦN THỊ HUỆ
NGUYỄN VIỆT HÙNG – TRẦN THỊ THU HƯƠNG – NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN
TRẦN THỊ BÍCH NGỌC – ĐẶNG ĐÌNH SƠN – LƯU HỒNG PHƯƠNG – ĐỖ THỊ TẤC
LƯƠNG MINH TÂN – ĐOÀN THỊ TRỊNH – PHẠM DUY THẮNG
TÀI LIỆU
GIÁO DỤC
ĐỊA PHƯƠNG
TỈNH
Lai Châu LỚP
10
2
LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh yêu quý!
Nội dung giáo dục địa phương là một bộ phận của Chương trình
Giáo dục phổ thông 2018. Ở cấp Trung học phổ thông, nội dung giáo
dục địa phương có vị trí tương đương với các môn học và hoạt động
giáo dục.
Các em đang cầm trong tay cuốn Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh
Lai Châu lớp 10. Cuốn tài liệu này được biên soạn giúp các em khám
phá, trải nghiệm những giá trị đặc trưng của địa phương, qua đó góp
phần bồi dưỡng tình yêu quê hương và thêm trân trọng truyền thống
tốt đẹp của đồng bào các dân tộc tỉnh Lai Châu.
Đến với cuốn Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Lai Châu lớp 10,
các em sẽ được tìm hiểu 8 chủ đề xoay quanh các vấn đề về lịch sử
Lai Châu từ tiền sử đến năm 1884; truyện thơ của các dân tộc;
nghệ nhân văn hoá; tổ chức và hoạt động của thôn, bản, tổ dân phố;
môi trường và các hoạt động kinh tế ở Lai Châu. Bên cạnh đó, các em
cịn được tìm hiểu về giáo dục nghề nghiệp ở Lai Châu, từ đó có thêm
thơng tin để lựa chọn được con đường nghề nghiệp phù hợp.
Theo từng trang sách, các em sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động
đa dạng, phong phú như: chơi trò chơi; làm tờ rơi; điều tra, khảo sát;…
giúp phát huy tối đa tính tự giác, tích cực, sáng tạo của các em.
Hi vọng rằng, cuốn Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Lai Châu
lớp 10 sẽ là người bạn đồng hành với các em trên con đường khám
phá về quê hương Lai Châu.
Chúc các em có những trải nghiệm thật thú vị và bổ ích với cuốn
tài liệu này!
CÁC TÁC GIẢ
3
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU
MỞ ĐẦU
− Xác định nhiệm vụ, vấn đề học tập học sinh cần giải quyết.
– Kết nối với những điều học sinh đã biết.
– Nêu vấn đề nhằm kích thích tư duy, tạo hứng thú đối với bài học.
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Cung cấp thơng tin liên quan đến chủ đề và các hoạt động học tập,
giúp học sinh khai thác, chiếm lĩnh kiến thức mới.
LUYỆN TẬP
Gồm các câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ, hoạt động để học sinh củng cố,
rèn luyện các kĩ năng gắn với kiến thức vừa học.
VẬN DỤNG − MỞ RỘNG
Học sinh sử dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các tình
huống trong thực tiễn, liên hệ mở rộng để xử lí các vấn đề liên quan
gắn với địa phương.
Hãy bảo quản, giữ gìn cuốn tài liệu này để dành tặng các em học sinh lớp sau.
4
MỤC LỤC
Chủ đề 1. Lai Châu từ thời tiền sử đến năm 1884
6
Chủ đề 2. Truyện thơ của các dân tộc ở Lai Châu
14
Chủ đề 3. Nghệ nhân hát dân ca, trường ca, truyện thơ,
sử thi của Lai Châu
25
Chủ đề 4. Hoạt động sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
ở Lai Châu
34
Chủ đề 5. Hoạt động sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp ở Lai Châu
42
Chủ đề 6. Tổ chức và hoạt động của thôn, bản, tổ dân phố ở
Lai Châu
50
Chủ đề 7. Thực trạng môi trường ở Lai Châu
60
Chủ đề 8. Kế hoạch nghề nghiệp của tôi
66
5
Chủ đề
1
LAI CHÂU TỪ THỜI TIỀN SỬ
ĐẾN NĂM 1884
Sau khi tìm hiểu chủ đề này, em sẽ:
− Khái quát được vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của vùng
đất Lai Châu.
− Trình bày được sự phát triển của vùng đất Lai Châu thời
tiền sử.
− Nêu được một số nét chính về tình hình chính trị, tổ chức
hành chính, kinh tế, văn hố và cuộc đấu tranh bảo vệ
tồn vẹn lãnh thổ ở vùng đất Lai Châu thời kì Bắc thuộc
và phong kiến tự chủ.
?
Hãy chia sẻ với bạn điều em biết về một di tích lịch sử ở tỉnh Lai Châu.
Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của vùng đất Lai Châu
Vùng đất Lai Châu nằm ở khu vực Tây Bắc của Tổ quốc, có vị trí địa lí từ 21o41’ đến
22o50’ vĩ độ bắc và từ 102o19’ đến 103o59’ độ kinh đông, đường biên giới giáp với tỉnh
Vân Nam – Trung Quốc dài 265,165 km. Vùng đất này có vị trí chiến lược quan trọng
về quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia và phịng hộ đầu nguồn
sơng Đà.
Địa hình của vùng đất Lai Châu rất phức tạp, phổ biến là kiểu núi cao và trung bình,
có độ dốc lớn, mức độ chia cắt sâu và ngang rất mạnh, chủ yếu là núi đất và các dãy núi
đá vôi với dạng địa chất caster tạo nên hệ thống hang động và sông suối ngầm,… Xen
kẽ giữa các dãy núi cao là các thung lũng hoặc các lịng chảo có địa hình tương đối bằng
phẳng tạo ra các vùng đồng bằng giữa núi như Mường So, Bình Lư, Than Un,... thích
hợp cho trồng trọt và chăn nuôi.
6
Khí hậu Lai Châu điển hình cho vùng núi cao Tây Bắc chịu ảnh hưởng của gió phơn
Tây Nam, ngày nóng đêm lạnh. Nhiệt độ trung bình năm là khoảng 23oC. Lượng mưa
khá lớn, phân bố không đều trong năm. Hướng gió chủ đạo là gió Tây và gió Đơng Nam,
ít chịu ảnh hưởng của bão và gió mùa Đơng Bắc.
Lai Châu có nhiều sơng, suối có lưu lượng nước lớn như: sông Nậm Mu, sông
Nậm Mạ và sông Nậm Na. Các con sơng này là phụ lưu chính của sông Đà và chảy qua
các khu vực khác nhau của tỉnh Lai Châu. Rừng nhiệt đới ẩm gió mùa với quần thể thực
vật rất phong phú. Có một số loại khống sản giá trị cao như vàng, đồng, chì, kẽm, đất
hiếm, các mỏ đá đen, đá trắng, đá màu, đá vơi với trữ lượng lớn,…
Em có biết?
Lai Châu là một trong ba tỉnh thuộc khu vực thượng du
sông Đà của Việt Nam, là vùng có điều kiện mơi trường sinh
thái mang tính đa dạng sinh học cao; quần thể động thực vật
phong phú; nguồn nước tự nhiên dồi dào, nhiều thung lũng,
bãi bồi ven sơng suối màu mỡ, phì nhiêu, thuận lợi cho việc cư
trú, sinh sống của con người.
?
– Trình bày vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của vùng đất Lai Châu.
– Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành và phát
triển vùng đất Lai Châu?
Vùng đất Lai Châu thời tiền sử
Thời tiền sử, vùng đất Lai Châu sớm có con người đến cư trú. Nhiều di chỉ khảo cổ
được phát hiện trên địa bàn tỉnh Lai Châu hiện nay đã khẳng định những dấu tích về sự
tồn tại của con người từ thời văn hố Sơn Vi, văn hố Hồ Bình và văn hố Đông Sơn.
“Người cổ ở Lai Châu cư trú trong các hang động có cửa quay ra sơng hoặc suối, gần
thung lũng,... thuận tiện cho việc đảm bảo nguồn nước và lương thực phục vụ cho cuộc sống
hằng ngày. Việc sống trong các hang động cũng giúp họ tránh được các loài thú dữ, tránh
mưa, nắng theo mùa. Trong hang, họ thường đốt bếp lửa ở khu vực cửa hang, ngoài phục
vụ việc nấu chín thức ăn hằng ngày, cịn có tác dụng sưởi ấm, xua đuổi thú dữ và làn khói
là dấu hiệu để trở về hang sau mỗi lần đi kiếm ăn xa”.(1)
(1) Theo Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Địa chí Lai Châu, NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội, 2020, tr. 319.
7
Em có biết?
Trên địa bàn tỉnh Lai Châu, đã phát hiện 17 địa điểm có di
vật đặc trưng của giai đoạn văn hoá Sơn Vi (20 000 – 12 000 TCN) như:
Nậm Tun, Đán Min, Chiềng Ban, Nậm Dôn, Hát Đấu, Huổi Ca,
Nậm Mạ, Co Đớ, Nậm Hăn, Hát Hỷ, Hát Hí, Nậm Cha, Bản Sỏ,
Nậm Hàng, Bản Xanh, Bản Xi, Bản Khá. Bên cạnh các loại hình cơng
cụ đặc trưng Sơn Vi, tại các di tích này, các nhà khảo cổ học đã phát
hiện nhiều công cụ đá cũ có phong cách khác Sơn Vi,… Năm 2010 đã
phát hiện di chỉ khảo cổ học Thẩm Đán Chể (xã Mường Kim, huyện
Than Uyên), di chỉ này là cái nôi địa bàn cư trú lâu đời của người
Việt cổ. Một số di tích trên đã được cơng nhận là di sản cấp quốc
gia như di tích Nậm Tun (năm 2013) và di tích cấp tỉnh như di chỉ
khảo cổ học Thẩm Đán Chể (năm 2011).
?
– Kể tên những dấu tích được tìm thấy ở vùng đất Lai Châu chứng tỏ thời tiền sử đã có
con người sinh sống. Điều này có ý nghĩa gì?
– Các dấu tích trên thuộc xã, huyện nào của tỉnh Lai Châu hiện nay?
– Ở thời tiền sử, cuộc sống của con người Lai Châu như thế nào?
Tình hình chính trị, kinh tế, văn hố vùng đất Lai Châu thời Bắc thuộc và
phong kiến
a. Tổ chức hành chính
Thời nhà nước Văn Lang, vùng thượng lưu sơng Đà trong đó có Lai Châu thuộc bộ
Tân Hưng. Đến thời kì Bắc thuộc, chính quyền đơ hộ chỉ tập trung quản lí chủ yếu ở
trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Việc quản lí, cắt đặt hành chính đối với vùng
Tây Bắc còn mờ nhạt, chưa thực rõ ràng.
Trước thời Lê sơ, chính quyền phong kiến trung ương ít chú ý tới và cũng khơng
có nhiều điều kiện để quản lí thường xuyên, chặt chẽ vùng đất Tây Bắc trong đó có
Lai Châu.
“Căn cứ vào các ghi chép trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi (biên soạn vào đầu
thế kỉ XV) và sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (biên
soạn vào cuối thế kỉ XIX), thì vào thời Lý vùng đất Lai Châu thuộc đạo Lâm Tây. Sách
Hưng Hố kí lược cho biết vùng đất Lai Châu thời Trần thuộc đạo Đà Giang, sau đó thuộc
8
trấn Thiên Hưng. Chính quyền nhà Trần chưa thật sự quản lí được các cấp hành chính địa
phương ở miền núi mà hầu hết do các thổ hào địa phương chi phối, thực hiện nghĩa vụ cống
nạp về triều đình.”(1)
Từ thời Lê sơ, chính quyền trung ương bắt đầu quản lí chặt chẽ hơn đối với vùng Tây
Bắc. Vùng đất Lai Châu lúc này thuộc trấn Hưng Hoá. Ban đầu triều đình Lê sơ trao các
chức đồn luyện, thủ ngự cho tù trưởng các dân tộc thiểu số bản địa nắm giữ, vừa để cai
quản vùng đất và con người, vừa giữ gìn trật tự địa phương và bảo vệ lãnh thổ. Về sau,
triều đình phong cho các tù trưởng địa phương các chức tri châu, cai châu, phó châu,
đồng tri châu, hoặc tuyên uý sứ, chiêu thảo sứ, phòng ngự sứ,...
Năm 1802, triều Nguyễn được thiết lập đã tăng cường kiểm soát cộng đồng các dân
tộc thiểu số. Tại vùng đất Lai Châu thuộc tỉnh Hưng Hoá, nhà Nguyễn tiếp tục duy trì cơ
cấu tổ chức truyền thống, sử dụng đội ngũ tù trưởng cai quản dưới hình thức các phủ,
huyện, châu.
Em có biết?
Khu vực tỉnh Lai Châu hiện nay tương ứng với một phần diện tích
của ba châu gồm châu Lai (thuộc huyện Mường Tè ngày nay); châu
Quỳnh Nhai (một phần huyện Tân Uyên, Than Uyên ngày nay) và châu
Chiêu Tấn (huyện Phong Thổ; thành phố Lai Châu; huyện Tam Đường;
một phần huyện Tân Uyên, Than Uyên ngày nay),...
?
– Vùng đất Lai Châu thời Bắc thuộc và phong kiến được tổ chức theo các đơn vị hành
chính nào?
– Chính quyền Bắc thuộc và phong kiến đã thực hiện những chính sách nào để cai
quản vùng đất Lai Châu? Vì sao?
b. Tình hình kinh tế
Thời Bắc thuộc
Đời sống của cư dân vùng đất Lai Châu còn rất tự nhiên, công cụ lao động khá thô
sơ. Cư dân sống chủ yếu bằng hái lượm, săn bắn, đánh cá; bước đầu hình thành các hình
thức trồng trọt và chăn ni. Sự phân hố giai cấp chưa rõ ràng, tính cộng đồng được
phát huy trong đời sống kinh tế và văn hoá.
(1) Theo Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Địa chí Lai Châu – Phần 2: Lịch sử,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2020.
9
Thời phong kiến độc lập
Về nông nghiệp: Các cộng đồng cư dân sinh sống trên vùng đất Lai Châu tiêu biểu là
người Thái chủ yếu làm ruộng nước ở các thung lũng có đời sống khá ổn định. Họ định
canh định cư làm ruộng nước, đúc kết được nhiều kinh nghiệm canh tác trên những
thửa ruộng tương đối bằng phẳng, đắp bờ, giữ nước, chống úng, dẫn thuỷ nhập điền để
cày cấy các loại lúa, hoa màu thích hợp với từng vụ, từng chất đất. Công cụ canh tác hầu
như chỉ dùng cày, bừa, cuốc bàn, xẻng, cào cỏ,... Trong đó, đặc trưng là chiếc cày chìa vơi
và chiếc bừa đơn làm bằng gỗ, tre. Mương phai (đập) đóng vai trị quan trọng trong cơng
tác thuỷ lợi, ngăn dịng suối để chuyển hướng dòng chảy cho nước vào mương rồi chảy
về từng thửa ruộng. Ngoài ra, chiếc cọn nước được dùng để lợi dụng sức nước chảy xiết
của sông suối nhằm đưa nước lên cao đổ vào ruộng cày cấy ở những nơi không đủ điều
kiện đắp đập, làm mương phai.
Nhóm các cộng đồng định cư du canh hoặc du cư du canh chủ yếu phát nương làm
rẫy như dân tộc Mông, Dao và các dân tộc khác,...
“Các cộng đồng cư dân du canh/du cư thường canh tác trên hai loại nương bằng và
nương dốc. Nương bằng là những khoảnh đất bằng phẳng ở chân núi, ven sông, bờ suối, có
thể dùng trâu cày bừa, canh tác lâu dài để trồng lúa và các loại hoa màu phụ. Nương dốc là
những khoảnh đất có độ dốc cao, khơng cày bừa được, phải sử dụng cuốc làm đất và trồng
lúa nương, sau 2 – 3 vụ sẽ bị nước mưa trôi hết đất màu, phải tạm bỏ hoang vài năm cho
đất nghỉ mới canh tác tiếp, cứ tuần tự luân chuyển. Cơng cụ làm nương chỉ có dao quắm,
rìu chặt cây to, dao cắt cây nhỏ, liềm, cuốc bàn để dọn cỏ,... Hằng năm, sau khi phát nương,
đốt cháy để lấy tro than, cư dân dùng gậy vạt nhọn một đầu chọc lỗ rồi tra hạt thóc hoặc
ngơ giống hay gieo vãi các hạt bầu, bí, vừng,...”.
Ngồi nơng nghiệp, các cộng đồng cư dân ở đây cịn chăn ni, săn bắn và đánh bắt
cá vào những khoảng thời gian nhàn rỗi ngoài mùa vụ.
“Ở những vùng định canh định cư, cư dân chủ yếu chăn ni trâu, bị, ngựa, lợn, gà,
thả cá,... Trong đó, ni trâu, bị là quan trọng vừa để cung cấp sức kéo, vừa cung cấp thực
phẩm và là một tài sản có giá trị trong trao đổi. Một số cộng đồng cư dân sinh sống ở miền
núi cao cịn ni nhiều ngựa dùng làm phương tiện di chuyển và vận tải hiệu quả. Kĩ thuật
chăn nuôi cịn đơn giản, lạc hậu, mang đậm tính chất quảng canh, tự nhiên. Các hoạt động
săn bắn không chỉ để cải thiện đời sống mà còn bảo vệ mùa màng. Dụng cụ săn bắn rất
thô sơ, phổ biến dùng bẫy, nỏ, cung tên, hố chơng, súng kíp và đạn tự tạo,... Ở những khu
vực ven sông, suối, nhất là sông Đà, nghề đánh bắt cá đóng vai trị quan trọng, đặc biệt vào
10
mùa nước lũ từ tháng 2 đến tháng 7 hằng năm. Dụng cụ đánh bắt cá có nhiều loại như
chài, lưới, vó, cần câu,...”.
Về thủ cơng nghiệp: Cộng đồng cư dân Lai Châu xưa đã có một số nghề thủ công cổ
truyền sử dụng gỗ, tre, nứa, trúc, mai, vầu, song, mây,... có sẵn để làm nhà, đóng bàn ghế,
tủ, đan lát,... mang tính tự cung tự cấp trong gia đình và làng bản. Hầu hết các cộng đồng
cư dân đều biết nghề dệt và một số nghề thủ công khác như nấu đường, nấu rượu, làm
bánh,... phục vụ trong sinh hoạt hằng ngày và những ngày giỗ tết, đám cưới, đám tang,...
Để thắt chặt khối đoàn kết dân tộc và mở rộng ảnh hưởng của triều đình lên vùng
biên giới, chính quyền phong kiến đã giao cho các tù trưởng đảm nhiệm chức châu mục
và chỉ phải cống nạp lâm sản hay khống sản.
Từ thời Lê sơ, chính quyền đã có nhiều biện pháp tăng cường quản lí và khai thác
vùng đất Tây Bắc, trong đó có Lai Châu như quy định ngạch thuế phải nộp hằng năm,
cho phép các quan trấn thủ và tù trưởng, thổ mục được khai mỏ và nộp thuế cho nhà
nước,... Đến thế kỉ XIX, cùng với việc tăng cường tổ chức bộ máy quản lí nhà nước, triều
Nguyễn đã ban hành một loạt chính sách về dân cư, kinh tế, tài chính, trong đó có những
chính sách dành riêng cho vùng dân tộc và miền núi như đo đạc lại ruộng đất, quy định
khoản thuế hằng năm.(1)
?
– Trình bày những nét chính về tình hình kinh tế của cư dân vùng đất Lai Châu thời
Bắc thuộc và phong kiến.
– Nêu nhận xét về sự phát triển đó.
c. Về văn hố
Điều kiện sinh sống đã hình thành nên nét văn hố truyền thống riêng của mỗi dân
tộc ở vùng đất Lai Châu như: phong tục, tập qn,... Đồng thời, mỗi dân tộc cịn có sự
ảnh hưởng, tiếp thu những giá trị văn hoá của các dân tộc khác để tạo nên kho tàng văn
hoá đa dạng, phong phú. Những giá trị văn hoá ấy được kết tinh trong tinh thần cố kết
cộng đồng bền chặt, trong đời sống văn hoá tinh thần và ngay cả trong phong cách giao
tiếp ứng xử và lối sống của con người nơi đây.
Từ thời Bắc thuộc và thời phong kiến, do Nhà nước chưa thực hiện các chính sách
quản lí hành chính và kinh tế chặt chẽ đối với vùng đất Lai Châu nên các triều đại phong
(1) Theo Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Địa chí Lai Châu, NXB
Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2020.
11
kiến cũng chưa quan tâm nhiều đến đời sống văn hoá của các dân tộc. Đến thế kỉ XIX,
nhà Nguyễn mới thực hiện nhiều chính sách nhằm “giáo hố” các cộng đồng cư dân trên
vùng đất Lai Châu như quy định về trang phục và chế độ thi cử để khuyến khích phát
triển văn hố, giáo dục,...
Em có biết?
Năm 1807, vua Gia Long ban hành quy định các sĩ tử trấn Hưng Hoá
(khu vực tỉnh Lai Châu) tham gia thi Hương ở trường thi Sơn Tây.
Năm 1824, vua Minh Mệnh quy định các nho sĩ ở trấn Hưng Hoá về
dự thi Hương ở Bắc Thành (Hà Nội). Năm 1827, vua Minh Mệnh quy
định đổi lại kiểu trang phục của ngoại trấn Hưng Hoá (khu vực tỉnh
Lai Châu) cùng với Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn,
Yên Quảng, Sơn Nam, Nam Định, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương và
phủ Hoài Đức theo kiểu mẫu từ Quảng Bình trở vào phía Nam, áp
dụng từ đầu năm 1829,...
?
– Trình bày tình hình văn hoá của các dân tộc ở Lai Châu thời Bắc thuộc và thời
phong kiến.
– Nhà nước phong kiến đã có những quy định nào để phát triển văn hố ở vùng đất
Lai Châu? Những quy định đó có ý nghĩa gì với đời sống văn hố của các cộng
đồng cư dân Lai Châu?
Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ ở vùng đất Lai Châu thời kì phong kiến tự chủ
Trong thời kì phong kiến, để bảo vệ vùng biên viễn phía Tây Bắc, nhiều cư dân đã
có những đóng góp tích cực. Thổ ty Đèo Cát Hãn ủng hộ nghĩa quân Lam Sơn chống lại
quân Minh, được Lê Lợi giao cho cai quản vùng đất Mường Lễ. Các thủ lĩnh người Thái
là Ngải và Khanh đã phối hợp với Hoàng Công Chất đem quân đánh giặc Phẻ tại thành
Tam Vạn cứu dân khỏi ách giặc Phẻ và sự lệ thuộc vào các chúa phong kiến Lào, bảo vệ
miền biên giới. Tuần phủ Hưng Hố là Ngơ Quang Bích và thủ lĩnh Đèo Văn Toa dựa
vào các bản mường, tổ chức nhân dân vùng Thập Châu ở Tây Bắc chống Pháp sau khi
nhà Nguyễn đầu hàng.
“Tuần phủ Nguyễn Quang Bích tổ chức qn dân Hưng Hố kiên trì ủng hộ phong
trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động. Đến năm 1886, thủ
lĩnh Đèo Văn Trì chỉ huy nghĩa quân Mường Lay kết hợp với nghĩa quân Phong Thổ do
thủ lĩnh Đèo Văn Toa chỉ huy, tổ chức xây dựng phịng tuyến từ Than Un đến phía
12
Nam Lào Cai, dùng lối đánh mai phục, tập kích, dựa vào địa hình rừng núi ngăn chặn
các cuộc tấn công của quân Pháp. Trước các thủ đoạn thâm độc của quân Pháp, lực lượng
kháng Pháp ở Lai Châu suy yếu dần và tan rã. Đến giữa năm 1890, toàn bộ Lai Châu rơi
vào tay giặc Pháp, thời kì phong kiến độc lập tự chủ trên vùng đất Lai Châu kết thúc”.(1)
Em có biết?
Giặc Phẻ do Phạ Chậu Tin Tịng cầm đầu từ miền Thượng
Lào tràn sang đánh chiếm Mường Thanh. Chúng đánh đuổi các
chúa Lự chạy bạt lên vùng Mường Lự (Bình Lư) và Sình Hồ (nay
là Sìn Hồ), chiếm cánh đồng Mường Thanh và thành Tam Vạn.
Đi đến đâu chúng cướp phá thậm tệ, giết hại nhân dân tới đó.
?
– Cư dân Lai Châu đã có đóng góp gì trong việc góp phần bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ
nước ta thời phong kiến?
– Thiết kế thẻ ghi nhớ về một nhân vật lịch sử ở Lai Châu đã có những đóng góp trong
việc bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ thời phong kiến.
Vì sao vùng đất Lai Châu thời tiền sử sớm có con người đến sinh sống?
Lập bảng thống kê những nét chính về tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá
ở Lai Châu thời Bắc thuộc và phong kiến.
Giới thiệu một di tích khảo cổ thời tiền sử trên vùng đất Lai Châu bằng một
trong ba hình thức:
– Viết bài thuyết minh.
– Làm báo ảnh.
– Làm clip giới thiệu.
(1) Theo Tỉnh uỷ – Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Địa chí Lai Châu – Phần 2: Lịch sử,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2020.
13
Chủ đề
TRUYỆN THƠ CỦA CÁC DÂN TỘC
Ở LAI CHÂU
2
Sau khi tìm hiểu chủ đề này, em sẽ:
− Phân tích được một số yếu tố của truyện thơ dân gian
như: cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, sự kết hợp
giữa yếu tố tự sự và trữ tình,…
− Phân tích, đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng
chủ đạo và giá trị đạo đức, văn hoá từ văn bản.
− Thể hiện được thái độ trân trọng di sản nghệ thuật
dân gian và có ý thức, trách nhiệm bảo tồn truyện
thơ dân gian trong đời sống cộng đồng các dân tộc
ở Lai Châu.
− Làm được sản phẩm để giới thiệu các hình thức diễn
xướng truyện thơ ở Lai Châu.
Kể tên một số truyện thơ ở Lai Châu mà em biết. Em đã nghe những truyện
thơ đó ở đâu? Em được nghe dưới hình thức nào?
Kẻ bảng dưới đây vào vở và viết vào các cột theo hướng dẫn:
− Cột K (KNOW): Những điều em đã biết về truyện thơ của các dân tộc ở Lai Châu.
− Cột W (WANT): Những điều em muốn biết về truyện thơ của các dân tộc ở Lai Châu.
− Cột L (LEARNED): Những điều em đã học được về truyện thơ các dân tộc ở Lai Châu.
K
14
W
L
Giới thiệu một số truyện thơ của các dân tộc ở Lai Châu
Truyện thơ là một trong những di sản văn hoá, kết tinh giá trị nghệ thuật nhiều mặt
của các dân tộc Đông Nam Á, được xem là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học
viết, là đại diện tiêu biểu cho văn học truyền thống của nhiều tộc người. Truyện thơ ra
đời trên cơ sở sự phát triển của hai thể loại là truyện cổ dân gian và dân ca. Sự ra đời của
truyện thơ thể hiện sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật, quan niệm về con người của
thời đại. Đó là nhu cầu cần phản ánh con người tồn vẹn hơn. Hình thức câu chuyện
nhằm truyền tải những vấn đề xã hội và thời đại, đề cập đến thân phận người dân
thường nghèo khổ dưới chế độ xưa. Bên cạnh đó, những diễn biến tâm lí, cảm xúc
của con người được khắc hoạ sâu sắc, sinh động qua những lời thơ và sự tham gia
của hình thức dân ca. Chính vì thế, truyện thơ có đặc trưng quan trọng là sự kết hợp
hài hồ giữa trữ tình và tự sự, giữa hát và kể. Đó là hình thức thơ ở trong truyện và
truyện ở trong thơ.
Truyện thơ được chuyển thể từ truyện kể, cốt truyện, tên nhân vật chính hầu như
được giữ nguyên nhưng không gian, thời gian và những nhân vật phụ đã được thay đổi,
bổ sung và sáng tạo, nâng tầm tư tưởng.
Ngồi ra, cịn có rất nhiều truyện thơ do các nhà thơ khuyết danh của dân tộc sáng
tạo, mang đậm dấu ấn cuộc sống, môi trường, sinh hoạt, tín ngưỡng của đồng bào
xưa, chẳng hạn một số truyện thơ của người Thái như Tạo Khun Tưng – nàng É Khạy,
Năm anh em Cha Lang,…
Mặc dù một số dân tộc đã có chữ viết riêng, nhưng vì nhiều lí do nên văn bản truyện
thơ của các dân tộc ở Lai Châu cũng bị mai một rất nhiều. Một số tổ chức, nhà nghiên
cứu đã đi điền dã để sưu tầm, ghi chép, ghi âm lại những truyện thơ từ người già nên giữ
lại được phần nào tài sản tinh thần vô giá này.
Trong thời gian dài hàng ngàn năm, truyện thơ được lưu truyền, sáng tạo, hiện hữu
sống động trong đời sống hằng ngày của người dân khắp các bản mường bằng nhiều
hình thức đa dạng như: ngâm (khắp xan), kể (khán), hát (khắp),… Đồng bào xưa thể
hiện truyện thơ bất cứ lúc nào rảnh rỗi như trước khi ngủ họ ngâm, hát ngân nga để
ru con vào giấc ngủ; khi đi làm nương, làm ruộng xa nhà phải ở lại vài ngày, buổi tối tụ
tập nhau dưới một cái lán, đốt lửa hát cho nhau nghe. Vào dịp đám cưới, về nhà mới họ
cũng ngâm, cũng hát truyện thơ. Ngay cả trong các dịp lễ tết như hội Then, hội mường,
hội bản, hội cốm,… mọi người cũng ngồi quây quần đủ mọi lứa tuổi, thành phần,... bên
bếp lửa hay mâm rượu, trổ tài ngâm, hát truyện thơ. Người này tiếp người kia, truyện
này tiếp truyện kia, hai ba ngày khơng hết. Đó cũng là phương thức để truyền dạy và học
truyện thơ trong cộng đồng các dân tộc Lai Châu.
15
Dựa trên nguồn tư liệu hiện có ở Lai Châu, có thể chia truyện thơ thành các
loại sau:
– Truyện phóng tác từ tích truyện của người Việt: Lang Chang Nguyên phóng tác từ
tích truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa,…
– Truyện phóng tác từ tích truyện của Trung Quốc: Bàn cổ khai thiên lập địa ca,
Tạo An Đức – nàng Chiêu Công, Tạo Xam Lương – nàng Anh Đài,...
– Truyện phóng tác từ tích truyện cổ tích: Sự tích cây tính tảu (1), Năm anh em
Cha Lang, Chíp Chèng – Vuồng Măng, Ý Nọi nàng Xơ,…
Ở Lai Châu, có một số truyện thơ đã được sưu tầm, xuất bản như: Truyện thơ dân
tộc Thái, quyển 1, 2, 3; Truyện thơ Thái (Sự tích cây Tính tảu, Năm anh em Cha Lang,
Chíp Chèng – Vuồng Măng); Truyện thơ Thái (Nàng Hiến Hom, Nàng Ý Tú, Ý Nọi
nàng Xơ); Truyện thơ của người Dao Khâu ở Sìn Hồ – Lai Châu (Phiêu dương quá hải
ca, Truyện Khai Trung Nghĩa, Truyện Thái Bá Giai, Bài ca Cô Nhị Nương); Truyện thơ
của người Dao Khâu ở Sìn Hồ – Lai Châu, tập hai (Bàn Cổ khai thiên lập địa ca,
Lưu Ngư Võng ca, Truyện thơ Sơn Bá – Anh Đài); Tiếng hát làm dâu (Gầu Ua Nhéng –
Gầu Uô Nháng); Truyện thơ dân tộc Thái (Truyện nàng Chiêu Quân, Anh Khó giết muỗi
thần, Truyện Khua Tưng và nàng É Khạy).
?
– Trình bày đặc trưng của truyện thơ và nêu các hình thức lưu truyền, diễn xướng
truyện thơ ở Lai Châu.
– Truyện thơ ở Lai Châu được chia thành mấy loại?
– Nêu hiện trạng truyện thơ trong đời sống cộng đồng các dân tộc ở Lai Châu.
Giới thiệu truyện thơ Lưu Ngư Võng ca
(Trích Truyện thơ người Dao Khâu ở Sìn Hồ − Lai Châu(2))
Lưu Ngư Võng ca là truyện thơ của người Dao Khâu do nghệ nhân Tẩn Kim Phu sưu
tầm và biên dịch gồm 420 câu.
Lưu Ngư Võng vốn xuất thân trong một gia đình giàu có. Tai hoạ ập đến khi cha bị kẻ
cướp là Chiêu Đại giết hại, mẹ cũng bị bắt ép làm thiếp của tướng cướp. Lưu Ngư Võng
bị thả trôi sông và được người dân chài tên Lưu Hà Vạn cứu sống. Lưu Hà Vạn nhận cậu
làm con nuôi và đặt tên là Lưu Ngư Võng (Họ Lưu, tên “Ngư Võng” nghĩa là “lưới cá”).
(1) Tính tảu hay cịn gọi là tính tẩu.
(2) Tẩn Kim Phu, Truyện thơ của người Dao Khâu ở Sìn Hồ – Lai Châu, tập 2, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2015.
16
Lưu Ngư Võng được ăn học, lớn lên thành một chàng trai khơi ngơ tuấn tú. Cậu quyết
tâm tìm cho ra gốc tích của mình. Sau khi lưu lạc nhiều nơi, cậu đến làm thuê tại hiệu
buôn lớn của ông chủ Chiêu Đại (kẻ đã giết cha mình năm xưa mà Ngư Võng không hề
hay biết). Một ngày, ngồi buồn, Ngư Võng đem đàn ra hát, kể lể cuộc đời mình. Phu nhân
của Chiêu Đại giật mình nhận ra đây là đứa con lưu lạc bao năm. Hiểu được nguồn cơn
sự tình, cậu kiện lên quan phủ về tội ác của Chiêu Đại. Chiêu Đại tập hợp lực lượng đánh
nhau với quan phủ nhưng thất bại phải tự vẫn. Ngư Võng làm lễ tạ ơn trời đất, cha nuôi,
về sống với mẹ.
Lưu Ngư Võng ca là bài ca về khát vọng cơng lí. Dù rằng hành trình đấu tranh cho
cơng lí chẳng phải dễ dàng nhưng cuối cùng kẻ ác cũng phải đền tội, người tốt được đền
đáp. Đó là quan niệm sống “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” mà ta vẫn thường gặp trong
các sáng tác dân gian của nhiều dân tộc.
Lưu Ngư Võng ca cũng là bài ca về tình người. Trước hết là tình mẫu tử thiêng liêng.
Mẹ của Lưu Ngư Võng trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã xin kẻ cướp đừng giết con mình
một cách dã man như chúng vẫn làm mà cho đứa trẻ được thả trơi sơng với hi vọng con
mình có cơ hội sống sót. Bà cũng khơng qn để lại tín vật mong có ngày được nhận mặt
con. Tác phẩm cũng là bài ca về lòng nhân ái bao la giữa người với người. Cha nuôi Lưu
Hà Vạn đã nuôi nấng, dạy dỗ Ngư Võng nên người bằng tình thương u. Cũng chính
cha ni Lưu Hà Vạn đã ủng hộ chàng trong hành trình ra đi tìm kiếm sự thật về gốc
gác của mình. Khi sự thật đã sáng tỏ, Lưu Ngư Võng không quên tạ ơn trời đất, tạ ơn cha
ni. Đó là bài ca đẹp về đạo lí, về những tình cảm cao quý của con người.
Dưới đây là trích đoạn kể về việc Lưu Ngư Võng trở về nhận ra mẹ.
Lưu Ngư Võng trở về
(Trích Truyện thơ Lưu Ngư Võng ca)
Phu nhân mang trâm ra đối chiếu
Hai cái trâm này thật đúng đơi
Trong trâm đều có khắc kí hiệu
Mẹ cha trang bị cho con đi
Ngư Võng nghĩ người cần tìm là đây
Cúi đầu ba lậy người sinh ra mình
Tình cảm mẹ con được nối lại
Thù kia khơng trả uổng làm người.
17
?
– Vẽ sơ đồ tóm tắt các thơng tin chính trong phần giới thiệu truyện thơ Lưu Ngư
Võng ca.
– Hãy nêu và phân tích một nhận xét mà em tâm đắc trong phần giới thiệu về truyện
thơ Lưu Ngư Võng ca. Vì sao em tâm đắc với nhận xét đó?
– Đoạn trích trên kể về sự việc gì? Có những nhân vật nào xuất hiện trong đoạn trích?
– Hai mẹ con Lưu Ngư Võng đã nhận ra nhau qua tín vật nào? Liệt kê một số truyện cổ
dân gian có sự việc tương tự.
Giới thiệu truyện thơ Sự tích cây Tính tảu
(Trích Truyện thơ dân tộc Thái (1))
Truyện thơ Sự tích cây tính tảu do nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Đỗ Thị Tấc sưu
tầm gồm 2 092 câu thơ, có thể chia làm hai phần lớn.
Phần một là câu chuyện về chàng Láng Khắm và nàng tiên nữ Chiếu Niên, cùng với
sự hình thành của trời đất, mn lồi, q trình dựng nước An Nam, lập bản mường.
Cây đàn tính là quà tặng của Then(2) mường trời đã cùng Láng Khắm xuống trần gian,
giúp chàng kết nhân duyên với nàng Chiếu Niên và trở thành vua Thái (từ đầu đến
câu 923). Phần hai là câu chuyện về chàng An Pháu cùng nàng Bua Khắm (con gái của
vua Láng Khắm) gắn với quá trình đánh giặc Ngơ, đánh gian thần, giữ bình n cho bản
mường. Cây đàn tính đã giúp chàng An Pháu lấy được con gái vua, sau đó trở thành vũ
khí giúp chàng đánh thắng quân Ngô, được vua cha nhường ngôi. Nhân dân học làm
theo cây đàn tính tảu của vua. Cây đàn gắn bó với cuộc sống thanh bình, thịnh vượng
khắp các bản mường (từ câu 924 đến câu 2 092).
Nội dung chính của câu
chuyện kể về đàn tính nhưng
người Thái cịn đưa vào đây cả
một chuỗi những thần thoại về
sự hình thành vũ trụ, về những
trận đại hồng thuỷ hay hạn hán
thiêu đốt mặt đất vào thuở khai
thiên lập địa. Qua đó, chúng ta có
thể hình dung được những nẻo
đường tổ tiên người Thái đã đi
qua, đã dừng chân tổ chức cuộc
sống bản mường trên Tây Bắc,
Hình 2.1. Trình diễn nhạc cụ đàn tính tảu
tại Ngày hội đại đồn kết tồn dân tộc
(1) Đỗ Thị Tấc (Sưu tầm, dịch, biên soạn), Truyện thơ dân tộc Thái (Sự tích cây tính tảu, Năm anh
em Cha Lang, Chíp Chèng – Vuồng Măng), NXB Văn hoá Dân tộc, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Lai Châu, Hà Nội, 2012.
(2) Then là lực lượng siêu tự nhiên, sáng tạo ra thế giới theo quan niệm của người Thái.
18
với những thiết chế xã hội của người Thái,… Chúng ta có thể hình dung, trong q trình
dài ấy, tổ tiên người Thái đã vật lộn với thiên nhiên, đã lao động vất vả đầy sáng tạo ra
sao, đã chiến thắng các trở ngại trong quan hệ giữa người với người quyết liệt như thế
nào,… Và vượt lên tất cả, người Thái đã xây dựng nên một nền tảng văn hố cho con
cháu mn đời sau, trong đó có cả kho tàng nhạc cụ độc đáo. Cây tính tảu cơ đúc trong
mình bao mồ hơi, nước mắt và máu, biết bao khát vọng, nỗi đau và hạnh phúc của biết
bao thế hệ người Thái là thế, nên cây tính tảu có sức quyến rũ người nghe, khiến người
nghe bỏ ăn, bỏ ngủ, “gái mường xa chết mê, gái có chồng đang ở rể quên cả chồng yêu”.
Dưới đây là đoạn trích đậm chất thơ, bay bổng, thể hiện niềm tự hào về văn hoá
truyền thống của dân tộc, gợi liên tưởng đến sức mạnh của nghệ thuật đối với đời sống
con người:
CÂY ĐÀN TÍNH XUỐNG MƯỜNG TRẦN GIAN
(Trích truyện thơ Sự tích cây tính tảu)
310.
“Láng Khắm con xin ghi lịng tạc dạ những điều dạy dỗ của Then”
Then Chiêu rủ lòng thương nên mới bảo ban
Dạy cho tạo Láng Khắm nhiều điều hiểu biết
Then căn dặn tạo nhiều lời hay điều đúng
Rồi Then bảo Láng Khắm hãy đi xuống hạ giới trần gian.
315.
Có điều chi mắc mớ thì gọi tìm đến Then chủ
“Hãy xuống hạ giới vui với ruộng nương làm ăn sinh sống nhé”.
Rồi Then Chiêu lấy ban cho tạo nhiều của đủ thứ
Cả cây đàn tính tảu xinh xắn có ba dây
Gẩy dây nào ngân lên điệu dây đó.
320.
Gẩy đều ba dây tiếng tưng bừng ngân vang
Tay gẩy đi gẩy lại càng ngân nhiều thanh điệu
Then Chiêu cịn cho cả sáo gióng, sáo nối, cả nhị, đồ chơi
Cả trống chiêng để múa hát xoè vui nữa đó
Ban q xong Then Chiêu cịn dặn dị thêm:
325. “Láng Khắm ngươi xuống tới nơi trời và đất nối liền nhau
Thì hãy nghỉ đem tính tảu ba dây ra gẩy cho lại sức
Tiếng đàn tính sẽ ngân thành trầm vang tới nhà vua Tiên Hoàng trên cao
Âm thanh sẽ vọng tới tim nàng Chiếu Niên tiên nữ
Câu yêu thương theo tiếng đàn khắc xao xuyến thành lời.
19
330. Ngươi xuống tới đó hãy nhớ làm theo như ta dặn.”
Tạo Láng Khắm cáo từ xin phép Then Chiêu ra về
Tạo Láng Khắm đi xuống hạ giới trần gian chỗ cũ
Láng Khắm đi tới nơi nối giữa đất và trời
Tạo mới dừng chân nghỉ ngơi cho lại sức.
335. Tạo đem cây đàn tính nhỏ ba dây ra để gẩy
Gẩy cho tình bé nhỏ ở nơi đỉnh cao nao lịng
Gẩy cho người tình say đắm mặn nồng nơi núi rừng hoang vu buồn nhớ
Gẩy cho muôn vật trần gian chết nửa thân mình
Gẩy cho người tình ở nơi xa xôi cách mường mê đắm.
340. Gẩy cho em thân ngọc vợ hồn đến cùng
Tiếng đàn tính của tạo vang khắp bốn phương
Tiếng đàn tính tạo vọng khắp đất mường bốn hướng
Tất cả lợn, hổ, nai, hoẵng, tê giác và voi
Cùng ve, chim chóc nơi núi rộng rừng thẳm kéo tới tụ họp.
345. Cả rồng, phượng ở nơi núi cao hang đá
Cả thuồng luồng cổ vằn ở dưới vực sâu cũng tới chầu
Tiếng đàn tính ngân xuống nước, cá quên đẻ trứng
Tiếng đàn tính vọng tới mường, gà quên không gáy
Cả tê giác, voi, nai, hoẵng, cũng quên dậy đi ăn cỏ.
350. Chó sói, hổ vằn nơi hang sâu vách đá cũng quên không kiếm ăn
Cả chim chóc ve sầu ở nơi núi cao rừng sâu cũng quên kêu
Tiếng đàn ngâm thánh thót vọng lên xuyên thấu trái tim người
Nàng Chiếu Niên tiên nữ mới chăm chú lắng nghe
Tiếng đàn tính của Láng Khắm gợi lên bao nỗi nhớ.
?
– Vẽ sơ đồ tóm tắt các thơng tin chính của phần giới thiệu truyện thơ Sự tích cây
tính tảu.
– Khơng gian trong đoạn trích được thể hiện qua những hình ảnh và từ ngữ nào?
Em có ấn tượng gì về khơng gian trong đoạn trích?
– Chỉ ra sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong đoạn trích.
– Nghe/xem một trích đoạn đàn tính hoặc tìm đọc một số bài viết về cây tính tảu mà
em biết, từ đó rút ra nhận xét về vai trị của cây tính tảu trong đời sống của các dân
tộc ở Lai Châu hiện nay.
20
Qua việc tìm hiểu các truyện thơ ở Lai Châu, em hãy nhận xét về đặc điểm
của truyện thơ về các phương diện:
– Cốt truyện
– Đề tài
– Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình
– Không gian truyện thơ
Nhận xét về một điểm chung giữa hai nhân vật Láng Khắm (truyện thơ
Sự tích cây tính tảu) và Lưu Ngư Võng (truyện thơ Lưu Ngư Võng Ca).
Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một yếu tố nghệ thuật
đặc sắc trong đoạn trích Cây đàn tính xuống mường trần gian.
Kết thúc truyện thơ Lưu Ngư Võng ca có đoạn:
Nhân ngày hóng mát đất Trường Ba
Trung thu rỗi việc tự làm thơ
Mọi chuyện giải khuây bốn mùa vậy
Quả thật ngày xưa có chuyện này
Chng nổi tiếng, chẳng đánh khắc vang xa
Người nào đọc được đừng chê cười.
Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Lời quê góp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
a. Em có nhận xét gì về những lời kết thúc trên?
b. Hiện nay, truyện thơ có vai trị như thế nào trong đời sống sinh hoạt cộng đồng
các dân tộc ở Lai Châu? Từ đó em hãy nêu giải pháp bảo tồn truyện thơ các dân
tộc ở Lai Châu.
Giới thiệu các hình thức diễn xướng truyện thơ ở Lai Châu bằng một trong
ba sản phẩm sau: bài giới thiệu, poster, video.
21
ĐỌC THÊM
ANH KHĨ GIẾT MUỖI THẦN
(Trích Truyện thơ dân tộc Thái(1))
Truyện thơ Anh Khó giết muỗi thần do nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Điêu Văn Thuyển
sưu tầm, biên dịch, giới thiệu gồm 546 câu.
Ngày xưa, tại một mường nọ có con muỗi khổng lồ chuyên ăn thịt người. Vua ra
lệnh, hằng tháng, mỗi nhà dân trong mường phải thay nhau nộp một mạng người cho
muỗi. Trong làng có anh Khó, mọi người gọi anh là Khó vì cha mẹ và hai người chị của
anh đều lần lượt qua đời, để lại anh cơi cút một mình. Cha của anh Khó lúc sắp chết dặn
con trai khơng phải mổ trâu làm ma, mà hãy đem xác để ở chỗ mối đùn bên cạnh những
bụi tre đầu mường.
Một ngày, anh Khó nhìn thấy một bộ da rắn lột ở gần ngay chỗ mối đùn xác cha.
Anh nhặt lấy, đem thắt vào người và coi như có người cha ln ở cạnh bên. Vua cho
rằng, bộ da rắn đó là vật quý nên quyết lấy bằng được. Vua mở tiệc để dụ anh Khó đến
và tỏ ý muốn lấy. Đổi lại, anh Khó cần gì vua cũng sẽ đáp ứng và sẵn sàng gả con gái cho
anh. Anh Khó chỉ xin một đơi sừng bị tót, một chiếc tàn rất rộng và xin súng của những
người say rượu trong bữa tiệc.
Một hơm, anh Khó vác súng vào rừng sâu săn bắn, tình cờ cứu được cơ gái trẻ phải
nộp mạng tế muỗi thần. Anh Khó quyết ở lại giết muỗi thần cứu cô gái, đồng thời trừ hoạ
cho dân mường. Trải qua ba trận đấu, anh Khó đã chiến thắng bằng vũ khí là những đồ
vật xin vua ở bữa tiệc. Muỗi thần chết, nhà vua cũng chết, vì con muỗi thần và nhà vua
đều do cùng một máng bà mụ trên trời sinh ra.
Anh Khó đưa cơ gái trẻ cùng về bản. Dân mường nghe tin, liền rủ nhau vào rừng
sâu băm vụn xác con muỗi ra làm muôn mảnh, rồi ném vung đi khắp nơi. Từ đó, ở trần
gian mới xuất hiện loài muỗi nhỏ, chúng vẫn hút máu nhưng khơng ăn được thịt người
nữa. Mường khơng cịn vua, mọi người muốn suy tơn anh Khó lên ngai vàng. Nhưng
anh Khó từ chối. Anh trở về nhà, cùng cơ gái trẻ kết nghĩa vợ chồng, chí thú làm ăn. Vì
mường khơng có người đứng đầu nên xảy ra hỗn loạn. Các quan tạo đua nhau bóc lột
dân mường. Khơng chịu được cảnh áp bức, anh Khó kêu gọi dân mường cùng nhau
đứng lên lật đổ kẻ ác. Mọi người nghe theo anh cùng đoàn kết lật đổ những kẻ bóc lột.
Bản mường từ đấy bình n. Anh Khó lên làm vua, luôn quan tâm lo lắng đem lại ấm no,
hạnh phúc cho dân. Mọi người ca ngợi anh là người anh hùng.
(1) Điêu Văn Thuyển (Sưu tầm, biên dịch, giới thiệu), Truyện thơ dân tộc Thái, NXB Sân khấu, Hà Nội,
2016.
22
ANH KHĨ LÀM VUA
(Trích Anh Khó giết muỗi thần)
505 –
Vua chết rồi bản mường khơng có ai cai quản
Khơng ai đứng đầu làm gốc cho dân
Mọi người liền cùng nhau suy tơn anh Khó
Bảo anh hãy cai quản đất mường
Anh Khó liền từ chối trước mọi người:
510 –
“Tơi chỉ là kẻ khó nghèo từ thuở nhỏ
Thân phận thấp chữ nghĩa chẳng biết
Bởi vậy xin mọi người hãy xét suy cho kĩ
Tôi phận thấp hèn ngồi ngai vua sao được”
Anh Khó cáo từ trở về nhà làm ăn.
515 –
Về để được ở bên cạnh nàng Xao
Anh Khó cùng nàng Xao thành đơi vợ chồng
Chung sức chung lịng xây dựng nhà cửa
Ngày ngày bên nhau xuống ruộng lên nương
Đôi vợ chồng yêu thương nhau quấn quýt.
520 –
Cả hai người chẳng còn mẹ cha
Trời sắp đặt cho hai người thành đơi vợ chồng
Qua nhiều năm mường lớn tan hoang
Vì khơng có ai đứng ra cai quản
Văn võ già cả không ai xứng làm vua.
525 –
Mường lớn trở thành nơi hỗn loạn
Kẻ làm tạo ăn hiếp dân mường
Chúng bắt dân làm thân trâu ngựa
Chúng ở không ăn sức dân nghèo
Ai không cam chịu bị chúng đánh đập.
530 –
Không chịu được cảnh tạo quan áp bức
Anh Khó tập hợp tất cả dân mường
Đứng lên gọi mọi người đoàn kết
Cùng bên nhau chiến đấu kiên cường
Giết hết bọn ác ôn ăn sức dân nghèo.
23
535 – Bản mường ca ngợi anh Khó anh hùng
Anh thành tạo xây dựng mường mới
Anh Khó ngày xưa, nay đã thành vua rồi
Dân mường được yên vui không cịn ác bá
Bản mường được bình n chung giấc ngủ ngon.
540 – Đất mường ta hồ bình n vui.
?
Em hãy tìm hiểu truyện thơ Anh Khó giết muỗi thần theo bảng gợi ý sau:
Tiêu chí
Đề tài
Cốt truyện
Khơng gian truyện thơ
Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự
và yếu tố trữ tình
Cảm hứng chủ đạo
24
Nhận xét
Chủ đề
3
NGHỆ NHÂN HÁT DÂN CA, TRƯỜNG CA,
TRUYỆN THƠ, SỬ THI CỦA LAI CHÂU
Sau khi tìm hiểu chủ đề này, em sẽ:
− Trình bày được tên của một số tác phẩm và nghệ nhân
hát dân ca, trường ca, truyện thơ, sử thi tiêu biểu của
Lai Châu.
− Nêu được vai trò của các nghệ nhân trong việc bảo tồn,
phát huy các di sản văn hố dân gian của Lai Châu.
– Hát/mơ phỏng được một tiết mục tiêu biểu thường
được nghệ nhân biểu diễn.
Nghe bài “Chề chu ý chề” – dân ca Hà Nhì, Lai Châu và thực hiện nhiệm vụ:
– Nêu cảm nhận về giai điệu và tính chất của bài.
– Em biết những thông tin nào về bài dân ca trên?
– Kể tên các làn điệu dân ca của Lai Châu mà em biết.
Giới thiệu một số nghệ nhân hát dân ca, trường ca, truyện thơ, sử thi ở
Lai Châu
Đọc nội dung dưới đây và thực hiện nhiệm vụ:
Hiện nay, Lai Châu có 20 dân tộc, trong đó có 13 dân tộc sinh sống thành cộng đồng.
Trong quá trình sinh hoạt, lao động, sản xuất, đồng bào các dân tộc Lai Châu đã sáng
tạo ra rất nhiều làn điệu dân ca phong phú, đa dạng, đặc sắc và một số trường ca, sử thi,
truyện thơ hiện vẫn đang tồn tại trong đời sống văn hoá của các dân tộc ở Lai Châu.
Các nghệ nhân hát dân ca, trường ca, sử thi, truyện thơ là những người có vai trị
quan trọng trong việc đưa kho tàng văn hoá, văn học dân gian đó vào đời sống cộng đồng
bằng các hoạt động diễn xướng như hát, kể. Ngày nay, do sự ảnh hưởng và đan xen giữa
các luồng văn hoá cùng sự phát triển của xã hội, thể loại trường ca, sử thi, truyện thơ và
một số làn điệu dân ca có nguy cơ bị mai một. Do nhu cầu thực tiễn, việc hát các thể loại
25