Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh "Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập không có ý nghĩa" liên hệ Việt Nam hiện
nay
I. Mở đầu:
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng mỗi dân tộc đều phải
lựa chọn cho mình một mục tiêu, con đường phát triển, đó là quyền tự quyết
thiêng liêng của mỗi dân tộc, không thể áp đặt. Với một đất nước bị xâm lược
như chúng ta, ưu tiên trước hết là độc lập tự do nhưng Bác thật sáng suốt, Người
đã xác định rõ con đường phát triển của dân tộc ta là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cách mạng quốc tế, anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh là một huyền thoại, đầy sức hấp dẫn, được nhân dân ta
và bạn bè quốc tế ngưỡng mộ, kính yêu. Có thể tiếp cận cuộc đời và tưởng Hồ
Chí Minh ở nhiều góc độ, người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô
cùng quý giá, và ở phương diện nào bác cũng để lại những bài học giản dị mà
sâu sắc.
Nghị quyết đại hội IX đã khẳng định: “ tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.” Bản
chất chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là sự thống nhất hữu cơ
giữa khoa học cách mạng và nhân văn. Trong đó Bác có nêu lên luận điểm
sau: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc
lập không có ý nghĩa.”
II. Nội dung
Làm thế nào Bác có thể xác định con đường phát triển cho dân tộc ta? Trước
Người, rất nhiều anh hùng dân tộc đã bôn ba tìm đường cứu nước, từ Phan Bội
Châu dựa vào Nhật để đánh Pháp – “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, Phan
Châu Trinh dựa vào khoa học của Pháp chấn hưng dân khí – “ chẳng khác gì xin
giặc rủ lòng thương”, hay Hoàng Hoa Thám mang hệ tư tưởng phong kiến Việt
Nam… nhưng kết quả chỉ là hai chữ “thất bại”. Sau những kinh nghiệm đau
thương này, Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu các cuôc cách mạng trên thế giới,
điển hình là ở Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, các cuộc cách mạng ở hai đất nước này
đều không triệt để. Cuối cùng, Người đến với chủ nghĩa Mác- Lênin dưới ánh
sánh của cuộc cách mạng tháng Mười. Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Ngay khi
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Chánh cương vắn tắt do Người soạn
thảo đã chỉ rõ: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề
1.1 Quan điểm của Mác
Theo Mác, mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiến tới
giải phóng con người một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng
lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà phải từng bước thực hiện hóa
qua thực tiễn sự nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa
người với người và tiến tới mục tiêu cao cả nhất: “biến con người từ vương quốc
của tất yếu sang vương quốc của tự do” tạo nên một thể liên hiệp “trong đó sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”. Để có thể giải phóng con người một cách triệt để nhất, cần phải giải
phóng từ sự áp bức về kinh tế. Những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang
tính chính trị, nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này,
thay thế bằng ách thống trị của giai cấp khác.
1.2 Quan điểm của Lênin
Nếu như xét quan điểm của Mác, dễ nhận thấy người tiếp cận vấn đề này ở góc
độ lý luận thì sang quan điểm của Lênin, người lại tiếp cận từ thực tiễn. Điều
này được thể hiện rõ ràng qua cuộc cách mạng Tháng Mười cùng những chính
sách kinh tế mà Lênin đưa ra, từ chính sách cộng sản thời chiến cho đến chính
sách kinh tế mới – NEP. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mới, đầu tiên ở Liên Xô.Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm nhiều nước
và đạt được những thành tựu to lớn.
2. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Bên cạnh Liên Xô là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, Trung
Quốc cũng vậy, tuy nhiên chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc lại có phần khác biệt.
Con đường chủ nghĩa xã hội này ở Trung Quốc có thể chia làm 2 giai đoạn ( hay
2 kiểu chủ nghĩa xã hội ): thứ nhất là dưới thời Mao Trạch Đông, thứ hai là dưới
thời Đặng Tiểu Bình.
2.1. Chủ nghĩa xã hội dưới thời Mao Trạch Đông
Bởi ý thức tư tưởng phong kiến ở Trung Quốc ăn sâu và ngoan cố nên
trong quá trình lãnh đạo Trung Quốc xây dựng văn hoá tinh thần xã hội chủ
nghĩa, Mao Trạch Đông đã tiến hành cải tạo tư tưởng với quy mô lớn nhằm
thông qua đó tạo nên con người mới xã hội chủ nghĩa để có thể xây dựng nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa có nền tảng chắn chắn. Cải tạo tư tưởng có ý nghĩa đặc
biệt đối với công cuộc xây dựng văn hoá tinh thần ở Trung Quốc. Mao Trạch
Đông chỉ ra rằng “Trong quá trình xây dựng văn hoá tinh thần xã hội chủ nghĩa,
người người phải cải tạo, kẻ bóc lột phải cải tạo, người lao động cũng phải cải
tạo”. Đương nhiên tính chất và phương thức của kẻ bóc lột và người lao động có
phần khác biệt nhau.
Việc cải tạo tư tưởng đối với giai cấp bóc lột là cải tạo mang tính cưỡng
bức, là "xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của họ, xoá bỏ một giai cấp
xã hội chứ không phải tiêu diệt thể xác của họ". Đối với tầng lớp tri thức, Mao
Trạch Đông nhấn mạnh chủ yếu thông qua phê bình và tự phê bình để tự giáo
dục và tự cải tạo. Việc cải tạo tư tưởng đối với cán bộ lãnh đạo được tiến hành
xung quanh cuộc đấu tranh chống sa đọa thối nát, trở thành nhiệm vụ cơ bản
trong việc cải tạo tư tưởng của cán bộ lãnh đạo. Còn giai cấp công nhân, theo
quan điểm của chủ nghĩa Marx, họ là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, nhưng Mao Trạch Đông đã
căn cứ vào thực tế của đội ngũ công nhân ở Trung Quốc đưa ra nhận định rằng
giai cấp công nhân cũng phải cải tạo. Việc cải tạo tư tưởng đối với giai cấp công
nhân chủ yếu là nâng cao khả năng nhận thức thế giới và cải tạo thế giới của họ,
đồng thời không ngừng rũ bỏ ý thức nông dân của người công nhân, thay đổi tập
quán nông dân cho phù hợp với tình hình mới trong sự nghiệp phát triển xã hội
chủ nghĩa. Đối với việc cải tạo tư tưởng của nông dân, Mao Trạch Đông cho
rằng cần giúp họ từ bỏ thói quen và tâm lý phân tán, lạc hậu, khắc phục tư tưởng
phong kiến tự tư tự lợi.
Việc cải tạo tư tưởng ở Trung Quốc lúc đó chủ yếu nhắm vào tàn dư của
tư tưởng phong kiến, trọng tâm là cải tạo quan điểm giá trị của chủ nghĩa cá
nhân. Loại quan điểm này thứ nhất là chủ trương tự tư tự lợi, thứ hai là quan bản
vị (làm quan mưu lợi ích cá nhân hẹp hòi). Chủ nghĩa đoàn thể, chủ nghĩa bè
phái, chủ nghĩa địa phương cục bộ là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, những
thứ này đều tạo nên mạng lưới quan hệ cá nhân lấy cái "Tôi" làm trung tâm. Chủ
nghĩa quan liêu là di sản được sinh ra từ tác phong "ông lớn" của quan bản vị.
Tất cả những thứ nói trên đều đi ngược lại xu hướng giá trị "công bằng, công
chính" xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng của Mao Trạch Đông. Vì thế Mao Trạch
Đông đã căn cứ theo nguyên tắc duy vật lịch sử, chủ trương nhân dân bản vị
(mưu lợi ích cho nhân dân), đề ra tư tưởng phục vụ nhân dân. Ông kêu gọi mọi
người học tập các tấm gương tiêu biểu như Trương Tư Đức, Bạch Cầu Ân, Lôi
Phong, mỗi người là một chiến sĩ cộng sản; Đề xướng phẩm chất đạo đức cộng
sản chí công vô tư, không màng lợi ích cá nhân. Ông cho rằng trong điều kiện
chế độ xã hội chủ nghĩa, dù làm bất cứ việc gì, ở bất cứ cương vị nào cũng đều
không được tư lợi mà phải phục vụ nhân dân. Nếu có được tinh thần và phẩm
chất phục vụ nhân dân như thế sẽ chiến thắng các loại khó khăn, ở xã hội nào
cũng đều có thể lập nên kỳ tích. Quan điểm giá trị phải được thể hiện qua hành
động cụ thể nên Mao Trạch Đông ra sức đề xướng tinh thần phấn đấu gian khổ,
dũng cảm, chí thú sự nghiệp, hiến dâng và chủ nghĩa tập thể, lấy đó làm thước
đo đánh giá tình hình xây dựng quan điểm giá trị.
Qua phân tích cho thấy trong thực tiễn tìm kiếm phương hướng xây dựng
nền văn hoá tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mặc dù gặp nhiều trắc trở nhưng Mao
Trạch Đông đã thông qua cải tạo tư tưởng, loại bỏ những tàn dư của chủ nghĩa
phong kiến và chủ nghĩa thực dân, thay đổi thói quen tâm lý và phương thức
hành vi cũ, xây dựng nền văn hoá tinh thần xã hội chủ nghĩa theo quan điểm giá
trị và quan điểm đạo đức phục vụ nhân dân. Do đó ở Trung Quốc đã có được
những thay đổi long trời lở đất, thay đổi đó lại đặt cơ sở, đem lại kinh nghiệm
quý báu cho sự phát triển toàn diện vì tiến bộ xã hội và tự do của con người hôm
nay.
2.2. Chủ nghĩa xã hội dưới thời Đặng Tiểu Bình
Đặng Tiểu Bình đã mang đến xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung
Quốc. Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa tư
tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của Mác-Ăng-ghen những năm cuối đời và thực
tiễn cụ thể cải cách-mở cửa của Trung Quốc, sẽ xây dựng Trung Quốc thành
một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ giàu có, văn minh, công bằng và hài hoà như
châu Âu ngày nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển sang chủ nghĩa xã hội
dân chủ là tuân theo lời dạy của Mác và Ăng-ghen những năm cuối đời, kế thừa
truyền thống cách mạng dân chủ mới, triệt để thoát khỏi mô hình Liên Xô, trở
lại với chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại. Đó là định vị lịch sử của chủ nghĩa xã
hội mang màu sắc Trung Quốc.
Nếu như Mao Trạch Đông đã giải phóng con người Trung Quốc ở mặt tư
tưởng thì Đặng Tiểu Bình lại giải phóng sức lao động của con người, tạo ra sự
thay đổi về chất. Điều này có thể dễ dàng thấy thông qua sự phát triển của nền
kinh tế Trung Quốc, sự hình thành một tầng lớp trung lưu thành thị chiếm tới
15% dân số, mức sống cao hơn (thể hiện qua sự tăng trưởng ngoạn mục của mức
GDP trên đầu người, chi tiêu tiêu dùng, tuổi thọ, tỷ lệ biết chữ, và tổng mức sản
xuất lương thực) và ở mức rộng lớn hơn là các quyền con người và tự do cho
người dân thường Trung Quốc Không sai khi nói rằng Trung Quốc sẽ không có
được ngày hôm nay nếu không có Đặng Tiểu Bình.
Dù tiêu chuẩn cuộc sống đã được cải thiện rõ rệt trong thập kỷ 1980,
những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vẫn bị chỉ trích rộng rãi. Những người
bảo thủ cho rằng một lần nữa Đặng Tiểu Bình lại mở cửa Trung Quốc cho
những điều xấu xa từ bên ngoài, và người dân quá thiên về tư duy vật chất, trong
khi những người theo chủ trương tự do chỉ trích Đặng Tiểu Bình về lập trường
cứng rắn của ông trong lĩnh vực chính trị. Các lực lượng tự do đã bắt đầu bày tỏ
thái độ phản kháng bằng nhiều cách khác nhau chống lại thế lực lãnh đạo, và đã
dẫn tới Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 khiến chính phủ Trung Quốc bị quốc
tế lên án. Những chỉ trích về các cuộc cải cách kinh tế, cả trong và ngoài Trung
Quốc cho rằng cải cách đã gây ra bất bình đẳng giàu nghèo, ô nhiễm môi trường,
tham nhũng tràn lan, thất nghiệp tăng cao, cùng với đó là tình trạng giãn thợ tại
các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả cũng như các ảnh hưởng văn
hóa xấu khác.
2.3. Bài học
Các chủ trương chính sách còn mang tính bắt buộc, cưỡng chế, gây ra
nhiều bất đồng, mâu thuẫn. Mặc dù đất nước có phát triển nhưng còn nhiều,
người phản đối, chưa nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của người dân.Trong khi
chủ nghĩa xã hội đặt dân làm đầu, do dân làm chủ, các chủ trương, chính sách
trên vẫn chưa làm được điều ấy.
3. Thực tiễn Việt Nam
Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo, "dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 nǎm nay để
gây dựng nên nước Việt Nam độc lập Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy
mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà"
Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam : kỷ
nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và
tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách
mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật,
Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt Minh và
Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được
toàn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên
từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những
hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền, giữ vững thành
quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem
lại, nhân dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khǎn,
thử thách nặng nề.
3.1 Về Kinh tế - tài chính
Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt qua những khó
khǎn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nên kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc
hậu lại bị thực dân Pháp và phátxít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn
phá nên lại càng nghèo hơn. Nǎng suất lúa rất thấp ( 12 tạ/ha). Nông dân lao
động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất.
Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt
lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang.
Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang
lâm vào đình đốn, hàng hoá khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng.
Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền
cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000
đồng tiền rách.
3.2 Về văn hóa
Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết chữ.
Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới
có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành
thuốc.
Suất thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ
gồm vài trǎm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính
quyền mới gặp không ít khó khǎn, lúng túng.
3.3 Về chính trị- quân sự
Vào thời gian này, nhà nước ta mới được thành lập, thật sự còn non trẻ.
Bộ máy Nhà nước chưa được hoành chỉnh. Hơn nữa, lực lượng vũ trang lại
mỏng manh, rất cần bổ sung.
Bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khó khăn mà đất nước ta phải đối mặt.
4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
Những khó khǎn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã
hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh đất nước ta trong thế
"ngàn cân treo sợi tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng
có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân
mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
4.1 Về kinh tế- tài chính
Để giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi toàn dân đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “Ngày cứu đói”…
Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương thực, cung cấp
lương thực để nấu rượu, làm quà bánh,…. Đồng thời, ban hành một số sắn lệnh
nhằm giải quyêt khó khăn về lương thực như Sắc lệnh cấm đầu cơ tích trữ lương
thực ( 5 – 9 – 1945) , cho tự do lưu thông thóc gạo giữa các vùng. Để giải quyêt
tận gốc nạn đói, Chính phủ đề ra phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chính
phủ có biện pháp để hỗ trợ cho nông dân như quy định địa chỉ giảm tô 25% cho
nông dân, tạm cấp ruộng đất công, ruộng của bọn việt gian phản động và của
thực dân Pháp cho nông dân cày cấy, tổ chức nhân dân hàn khẩu những quãng
đê bị vỡ, vận động nông dân nhanh chóng cấy tái giá, giúp nông dân vay vốn ,
cung cấp giống, nhiều nông cụ.
Về công nghiệp,Chính phủ chủ trương là kiên quyết giữ vững chủ quyền,
nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp. Một số xí nghiệp của tư bản Pháp
và nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các xí nghiệp điện, nước,….nhưng
phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Chính phủ khuyến
khích tư bản tư nhân Việt Nam kinh doanh, phát triển sản xuất, Nhà nước ban
hành dự thảo luật Lao động, bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người công nhân như
tiền lương, điều kiện làm việc, tiền trợ cấp khi thôi việc, quyền hưởng những
quyền lợi ngang nhau giữa nam và nữ công nhân, quyền tự do lập nghiệp đoàn,
tự do bãi công,…
Về thương nghiệp, Chính phủ ra sắc lệnh thủ tiêu, luật lệ ngăn sông, cấm
chợ do Pháp – Nhật đặt ra trước đây, sắc lệnh về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn
độc quyền kinh doan. Đồng thời, Chính phủ chủ trương khuyến khích buôn bán,
vận động các nhà buôn thành lập hội thương gia Việt Nam, phong thương mại.
Về tài chính, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp
đỡ của nhân dân, thông qua phong trào “Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính
phủ ngày 4- 9- 1945, “Tuần lễ vàng” được tổ chức ngày 19- 9 -1945 nhằm thu
gom số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu dùng vào việc cần gấp
và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Ngoài ra, Chính phủ
còn vận động sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo nuôi quân”, “ nhận
nuôi cán bộ,”…
Để tạo điều kiện cho nhân dân an tâm sản xuất, giảm bớt sưu cao, thuế
nặng, Chính phủ đã có biện pháp kịp thời và đúng đắn về chính sách thuế, bãi bỏ
thuế bất công vô lý vào ngày 7- 9-1945 như thuế thân, thuế rượu, muối và thuốc
phiện. Ngày 22-9-1945, miễn giảm thuế môn bài kinh doanh nhỏ dưới 50 đồng,
thuế chợ, xe đò, xe tay,… Ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị định
giảm thuế điền thổ 20%, miến thuế cho các vùng bị lụt ở Nam Bộ và Nam Trung
Bộ,… Để bù vào khoản thiểu hụt ngân sách, Chính phủ đặt ra nguồn thu mới:
“đảm phụ đặc biệt” đánh vào ngành vận tải, bưu điện, “đảm phụ quốc phòng”.
Chấn chỉnh các nguồn thu đi dôi với việc thành lập bộ máy quản lý thu. Ngày
10-9-1945, Sở thuế quan và thuế gián thu, Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ,
cộng sản và điền thổ,… được thành lập.
Cùng với đấu tranh tiền tệ vào, cuối tháng 10- 1945 ( đấu tranh với ngân
hàng Đông Dương đổi tiền, đối phó với “tiền quan kim” và “quốc tệ”), chúng ta
đã bí mật in tiền. Tháng 12- 1945, chúng ta cho lưu hành tiền lẻ, để giải quyết
nạn khan hiếm tiển lẻ và cho nhân dân làm quen với tiền mới của chính quyền
cách mạng sau đó từng bước tiến hành phát hành tiền trong cả nước.
4.2 Về văn hóa
Ngày 8 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha Bình dân
học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ 8 - 9 - 1945 đến 8–9-
1946, có 76.000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ.Trường phổ
thông các cấp và đại học khai giảng sớm với nội dung học và dạy đổi mới. Và
như vậy, đã đẩy lùi được giặc dốt.
4.3 Về chính trị
Như đã nói, cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền ta còn hết
sức non trẻ, nhưng lại phải tiếp thu một gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại. Hơn
thế nữa, các thế lực để quốc, phản động quốc tế cấu kết bao vây, chốn phá hòng
thủ tiêu thành quả cách mạng của nhân dân ta. Không chỉ có vậy, chính quyền
mới còn phải đấu tranh với sự chống phá của cac thế lực phản động trong nước.
Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi
nhiều biện pháp để tập hợp, sử dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ
máy hành chính và cơ quan chuyên môn ở các cấp, nhất là ở Trung ương. Vĩnh
Thuỵ (Bảo Đại) đã được cử làm cố vấn Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hoà
theo Sắc lệnh số 23-SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10-9-1945. Một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là
phải thực hiện quyền dân chủ cho quần chúng, phải "xúc tiến việc đi đến Quốc
hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức" . Vì vậy, ngày 3-9-1945,
tức là một ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Trước chúng ta đã bị
chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử,
không phân biệt giầu, nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v " . Sau một thời gian
chuẩn bị, đẩy mạnh "Tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất
nữa" để chống đói. Tiêu diệt giặc dốt, "biết chữ để cầm lá phiếu thực hiện quyền
công dân",… ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra. Lần đầu tiên trong
lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền làm chủ, bầu những đại biểu
chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.
4.4 Chính sách cuả thực dân Pháp
Dưới danh nghĩa “bảo hộ”, thực dân Pháp đã xâm lược nước ta và thực
hiện chính sách khai thác thuộc địa nhằm làm giàu cho nước Pháp.
“Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và
dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.
Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân
chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man.
Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc
thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học.
Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta.
Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.”
“Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.” Tất cả
những gì chúng đem lại cho nhân dân ta là sự đau khổ, nghèo đói, áp bức,, bóc
lột,…. Đây chính là chính sách “khai hóa văn minh” của chúng.
Bằng những hành động thiết thực của mình ( tịch thu đất của đế quốc chia
cho dân cày, xóa và giảm một số thuế, xây dựng lớp bình dân học vụ, kêu gọi
nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ,….), Hồ Chí Minh đã xây dựng nền dân chủ
hợp hiến pháp, đem lại độc lập – tự do – hạnh phúc cho nhân dân.
5. Tính đúng đắn
Có lẽ giá trị này được thể hiện rõ nhất qua sự kiện ngày 6-1- 1945, ngày
toàn dân cầm lá phiếu đi bầu cử, thể hiện quyền dân chủ của mình.
Nhìn chung ở cả 71 tỉnh thành trong cả nước, 89% tổng cử tri đã đi bỏ
phiếu, phổ biến là 80%, nhiều nơi đạt 95%. Trừ một số nơi phải bầu bổ sung,
còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333
đại biểu, trong đó, có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43%
không đảng phái, 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng,
10 đại biểu phụ nữ và 34 đại biểu các dân tộc thiểu số.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời. Hoà nhịp cùng với bước tiến của thời
đại, với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, suốt
gần một thế kỷ đấu tranh giải phóng dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám 1945, người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã thành công dân của một
nước độc lập, tự do, tự mình quyết định vận mệnh lịch sử của mình, tự mình lựa
chọn và dựng xây chế độ Cộng hoà dân chủ. Bằng cuộc Tổng tuyển cử, tất cả
mọi công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái trai, dân tộc, tôn
giáo, giàu nghèo đều có quyền dân chủ, bình đẳng, tự do lựa chọn người đại
diện cho mình vào Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử tháng 1-1946 đánh dấu mốc phát triển
nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
Bên cạnh đó, các mặt của đời sống cũng đạt được những thành tích nhât
định.
Về kinh tế, chỉ trong một thời gian ngắn – từ tháng 9 đến tháng 12- 1945,
diện tích trồng hoa màu ở Bắc Bộ tăng 3 lần. năm 1946 so với năm 1944, sản
lượn lúa vượt 38,8%, nhờ đó nạn đói bị chặn đứng. Công nghiệp cũng được
phục hồi, nhiều xí nghiệp đóng cửa nay đã được khôi phục như mỏ than Làng
Cẩm, Phấn Mễ, Quyết Thắng, mỏ thiếc Tĩnh Túc, nhà máy cơ khí ở Trường Thi,
nhà mát giấy Đấp Cầu,….Không chỉ có vậy, chúng ta còn khôi phục được 50
trong số 60 chiếc cầu bị phá, sửa chữa được 500km đường bộ, tu sửa 32 km
đường sắt chỉ sau hơn một tháng sau cách mạng tháng 8.
Về văn hóa, giáo dục, từ ngày 8 -9- 1945 đến ngày 8 – 9 – 1946, có 76000
lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ. Các trường phổ thông và đại
học khai giảng sớm hơn só với nội dung học và dạy đổi mới. Giặc dốt đã bị đẩy
lùi.
Về chính trị, bộ máy nhà nước được củng cố, trở nên vững mạnh hơn,
nhận được sự tín nhiệm của toàn thể nhân dân.
III. Kết luận
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng CNXH,
nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều
biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và
tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán
bộ, đảng viên và nhân dân luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận trong
nhận thức và hành động để tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH được hiện thực hóa, lấy dân làm gốc.
Tạm mượn câu nói của Người để kết thúc bài viết: “ Yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mối ngày một giàu mạnh
thêm.”