Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích luận điểm hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.3 KB, 7 trang )

Sáu mươi sáu năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của nền độc lập non trẻ.
Giá trị của độc lập có thể coi là vô giá, không gì có thể so sánh được. Nhưng có
một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người dân là
gì? Câu hỏi ấy chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã trả lời rất thấu đáo và chính xác:
“Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc
lập cũng không có nghĩa lý gì”.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và
nhân đạo.C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa có phê
phán những thành tựu khoa học và những giá trị tư tưởng của nhân loại đạt
được trước đó, bằng lao động khoa học và sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội
tư bản, tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa
học và nhân đạo để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Trong học thuyết của mình, hai ông đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của
chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới không còn chế độ người bóc
lột người. Đó là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng tháng Mười Nga (1917): ngày 17 tháng 11 năm 1917 dưới sự
lảnh đạo của Đảng Bonsevich Nga, đứng đầu là V.I.Lenn đã lãnh đạo quần
chúng nhân dân đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến giành
chínhquyền xây dựng nhà nước Xô Viết đầu tiên trên thế giới, là nhà nước của
những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ
sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là
nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó
khăn và phức tạp nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Nga đứng đầu là
V.I.Lenin, đất nước đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với
thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm). Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời
bao gồm nhiều nước trên thế giới.Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời
kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào
sự nghiệp phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX: chế độ xã hội chủ nghĩa đã


từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, phát triển mạnh mẽ về
tiềm lực kinh tế, chính trị.Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết
định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới, tác động
mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các
nước tư bản chủ nghĩa.
Theo HCM, những mần mống tư tưởng XHCN ở phương Đông đã xuất hiện rất
sớm còn thích ứng dễ hơn ở phương Tây (1921) đó là: quan điểm lấy dân là gốc,
quan điểm vầ công bằng, bình đẳng tài sản giữa những người lao động với nhau,
tư tưởng về tình yêu thương hữu ái giữa người và người, nhất là những người
lao khổ.Văn hoá như dòng chảy liên tục và CNXH có thể ra đời ở châu Á.
Tiền đề kinh tế xă hội ở châu Á làm xuất hiện tư tưởng CNXH từ sớm.Do
sản xuất nông nghiệp lúa nước, từ sớm đòi hỏi nhu cầu liên kết, hợp tác sản xuất
giữa người và người. Phương đông xuất hiện chế độ công điền, công thổ (20%
ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước), cơ sở công hữu XHCN sau này.Dựa vào sự
tàn bạo của CNTB ở các nước thuộc địa châu Á.Vào những năm 20 của thế kỷ
20 hầu hết các nước châu á trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương tây,
CNTB đã để lại những hệ quả sau: những tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu;
CNTB tạo ra quá trình công nghiệp hoá cưỡng bức, hình thành cơ cấu giai cấp
xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân thuộc địa - lực lượng vật chất của
cách mạng vô sản; giai cấp Tư sản thiết lập ở các nước thuộc địa sự thống trị dã
man tàn bạo nhất, đẩy đa số quần chúng, nhất là nông dân vào con đường
cùng.CNTB tạo ra những điều kiện tiền đề cho các nước thuộc địa, lựa chọn
hợp lý con đường đi lên của mình, không nhất thiết lặp lại con đường mà CNTB
đã trải qua.
Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng
nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất
cứ lúc nào những người con của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đương cứu
dân, cứu nước đúng đắn. khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm đầu thế
kỷ XX cho thấy nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi
thực dân Pháp, giành lại non song đất nước. Song chưa có đường lối đúng đắn

như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn
cờ tu tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu
nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu.
Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành sau nhiều năm trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau
hơn 10 năm lăn lộn qua nhiều nước để tìm tòi thử nghiệm, Người đã đến với
Chủ nghĩa Mác-Lenin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận
cương về vấn đề dân tộc thuộc địa” của Lenin, Người đã sung sướng nói to lên:
“ Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta !” và là từ lòng yêu nước, thương dân, Người ra
đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với cách mạng tháng Mười và chủ
nghĩa Lenin đã tìm thấy con đường cứu nước cứu dân và giải phóng lao động và
quả quyết: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản, giành độc lập dân tộc” .Sau khi giành
được thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng 8-1945, chính quyền non trẻ của ta
gặp phải tình thế vô cùng khó khăn, như ngàn cân treo sợi tóc khi phải đối đầu
với thù trong-tình hình kinh tế tài chính kiệt quệ, dân chúng lầm than với 2 thứ
giặc đói và giặc dốt, và giặc ngoài-quân thù lăm le xâm lược trở lại nước ta.
Việc xác định những nhiệm vụ cấp bách phải giải quyết trước mắt trở nên quan
trong hơn bao giờ hết, đặt Đảng ta, một Đảng non trẻ đứng trước thử thách lớn
lao của lịch sử.
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của tổ quốc, tự
do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, HCM đã tìm hiểu
tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của CM Pháp và tiếp nhận những nhân tố có gía trị trong 2 bản tuyên ngôn
này. Từ đó Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc:
“tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong chính cương vắn tắt cũng như lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng,

HCM đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến, làm cho đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.Kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc của
HCM thể hiện bằng lời khẳng định: “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ leo
thang chiến tranh, mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, HCM lại đưa ra
một chân lý bất hủ: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Kết hợp nhuần nhuyễn
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế.
Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp
các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự
nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục
tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình
đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm
vui, hoà bình, hạnh phúc của con người.
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối
ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân
tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và
bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc
đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Với Hồ Chí Minh, "trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng
mất tự do" (Nhật ký trong tù). Và để có tự do, thì trước hết là phải giành lại độc
lập cho Tổ quốc, giành lại quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam.Độc lập cho

dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục
tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn
bộtiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổibật trong các thời điểm
có tínhbước ngoặt lịch sử.
Trong nền độc lập đó mọi người đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không
độc lập chẳng có nghĩa gì. HCM nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc
lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn no mặc đủ ấm”. Từ tư tưởng này thể
hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của HCM.Điều này thể hiện ở
mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm
cho nước nhà hoàn toàn độc lập. Sau cách mạng tháng Tám thành công, HCM
đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khẳng định: “nước Việt Nam….và của cải để giữ
quyền tự do độc lập ấy”.
Hòa bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hòa bình không
thể tách rời độc lập dân tộc và muốn có hòa bình thật sự phải có độc lập thật sự.
HCM đã nêu: “nhân dân chúng tôi thành thật mong muôn hòa bình nhưng nhân
dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ Quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời
đại: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.“Tự do” không phải là giá trị bất biến, luôn thay đổi theo
thời gian. “Tự do” mà cụ Hồ nói sáu mươi sáu năm trước đã khác xa với những
giá trị của tự do bây giờ. Nói tự do ngày nay tức là tự do của người dân, nhân
dân chỉ có được tự do khi nhà nước được lập ra phải là một nhà nước hợp hiến,
chịu giới hạn quyền lực bởi một bản hiến pháp được phúc quyết bởi toàn dân,
trong đó xác định rõ những quyền cơ bản và việc người dân có quyền được lựa
chọn, thay đổi Quốc hội, Chính phủ thông qua cuộc bầu cử chân chính.
2
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng
hạnh phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không phải ai khác
chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là

mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt.Mục tiêucủa CNXH là
“độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”,
“CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, gì cả không lao động được thì nghỉ ngơi, những
phong tục tập quán không dần dần được xóa bỏ Tóm lại xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là CNXH”.Chỉ có CNXH
mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người
bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó,
nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch
con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập
dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao
động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực
sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng
phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu
và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết
bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái
dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương
ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm
thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân
phẩm và giá trị làm người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng
như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân

tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người
đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong
sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết
toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân
loại tiến bộ.
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng CNXH,
nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con đường, bằng nhiều
biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và
tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán
bộ, đảng viên và nhân dân luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận
trong nhận thức và hành động để tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH được hiện thực hóa, lấy dân làm gốc.

×