Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Trong các vấn đề về quyền lực, đừng nói thêm gì về lòng tin vào đức tính tốt của con người mà phải trói anh ta lại bằng sợi day hiến pháp để anh ta không còn làm được điều ác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.73 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. PHÂN TÍCH DƯỚI GĨC ĐỘ LUẬT HIẾN PHÁP.....................................2
1.1. Tầm quan trọng của bảo vệ và thi hành hiến pháp............................2
1.2. Các mơ hình tổ chức bảo vệ hiến pháp trong lịch sử..........................3
1.2.1. Mơ hình bảo vệ hiến pháp phi tập trung..............................................3
1.2.2. Mơ hình bảo vệ hiến pháp tập trung....................................................4
II. THỰC TIỄN MƠ HÌNH TỔ CHỨC BẢO VỆ HIẾN PHÁP TẠI VIỆT
NAM.....................................................................................................................5
2. Mơ hình bảo hiến ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013.....................5
4. Bất cập, hạn chế trong cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân..............5
5. Phương hướng khắc phục hạn chế, bất cập trong cơ chế bảo hiến của
Tòa án nhân dân............................................................................................6
KẾT LUẬN......................................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................9

i


MỞ ĐẦU
Hiến pháp là một phát minh khi xã hội với hệ thống chính trị và pháp luật
của nó đã phát triển đến một trình độ nhất định. Một trong những chức năng cơ bản
của Hiến pháp là sự phân chia quyền lực của quốc gia cho các cơ quan khác nhau
cùng với cơ chế vận hành, phối hợp của chúng. Khởi đầu từ quan điểm về bản chất
của loài người với nhận định “Nếu loài người là những thiên thần thì chẳng cần
một chính phủ nào. Nếu những thiên thần cầm quyền thì những kiểm sốt bên
trong, hay từ bên ngồi, cũng chẳng cần thiết gì” (James Madison), các nhà lập
hiến Hoa Kỳ đã nhận định Hiến pháp chính là công cụ quan trọng nhất để chế ước
quyền lực nhà nước trong một xã hội hiện đại. Nó là một văn bản luật có nhiệm vụ
kiềm chế quyền lực nhà nước, như Thomas Jefferson, 1978 đã từng viết “Trong


các vấn đề về quyền lực, đừng nói thêm gì về lịng tin vào đức tính tốt của con
người mà phải trói anh ta lại bằng sợi dây Hiến pháp để anh ta khơng cịn làm được
điều ác”. Bằng kiến thiwcs mơn học luật Hiến pháp Việt Nam, tác giả hồn thành
bài luận nhằm đưa ra ý kiến của bản thân và liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.

1


NỘI DUNG
I. PHÂN TÍCH DƯỚI GĨC ĐỘ LUẬT HIẾN PHÁP
1.1. Tầm quan trọng của bảo vệ và thi hành hiến pháp
Với vị trị thiêng liêng và tối cao của Hiến pháp, tư tưởng bảo vệ hiến pháp
đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại với thuật ngữ Graphai paranomon, thuật ngữ
được dùng để chỉ quá trình một nhà lập pháp có thể bị kết tội bởi lý do đạo luật do
anh ta đệ trình là bất hợp pháp hoặc vi hiến. Trong nền Cộng hòa La mã, Viện
Nguyên lão đơi khi có thể dùng quyền lực của mình để hủy bỏ những đạo luật bởi
chúng không phù hợp với những địi hỏi của hiến pháp, mà thơng thường là do sử
dụng sự cưỡng bức bất hợp pháp để thông qua các đạo luật đó. Tư tưởng “Ai sẽ
canh gác những người lính gác” đã ra đời với nội dung cần phải có sự giám sát
chặt chẽ việc thi hành hiến pháp của các cơ quan nhà nước được phân quyền, đảm
bảo cho quyền lực được phân chia cho các cơ quan một cách chặt chẽ và có thể
kiểm sốt được.
Ngày nay, trong nền khoa học pháp lý thế giới, thiết chế bảo vệ hiến pháp đã
được phát triển khá hồn thiện với các mơ hình tổ chức phù hợp với đặc tính của
mỗi nền chính trị - pháp lý, mỗi quốc gia dân tộc. Trong xã hội hiện đại, Hiến pháp
được nhận định là một cơ chế chế ước, là người lính gác quyền lực nhà nước với
chức năng phân định, ngăn ngừa, không cho các cơ quan quyền lực lạm quyền,
vượt quyền hoặc tùy tiện trong quá trình quản trị đất nước.
Đến nay, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã
khẳng định u cầu “kiểm sốt quyền lực”, từ đó khẳng định nhu cầu “nghiên cứu

cơ chế bảo vệ hiến pháp” “hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp
pháp trong các hoạt động và quyết định của cac cơ quan cơng quyền”. Có thể nói,
thời điểm thành lập thiết chế tài phán Hiến pháp tại Việt Nam đã chín muồi, tuy
nhiên mơ hình tổ chức thiết chế cũng như việc thiết kế phạm vi chức năng nhiệm
vụ quyền hạn của thiết chế này cho phù hợp với thế chế chính trị và tình hình thực
tiễn tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
2


1.2. Các mơ hình tổ chức bảo vệ hiến pháp trong lịch sử
1.2.1. Mơ hình bảo vệ hiến pháp phi tập trung
Trong chế độ bảo vệ hiến pháp phi tập trung, thẩm quyền kiểm tra tính hợp
hiến được trao cho tất cả các thẩm phán và tòa án của quốc gia đó. Tất cả các thẩm
phán đều là thẩm phán hiến pháp (constitutional judges) và đều có thẩm quyền
tuyên bố một đạo luật là vi hiến. Theo lập luận, quyền lực này bắt nguồn từ tính tối
cao của Hiến pháp, theo đó cho phép tất cả các thẩm phán tham gia vào hoạt động
bảo vệ hiến pháp. Thậm chí, hệ thống này cho phép các thẩm phán được phép xem
xét các vấn đề hiến pháp bằng sáng kiến riêng của mình. Một đặc điểm nổi bật
khác là các quyết định của Tòa án chỉ giới hạn ảnh hưởng đến các bên cụ thể và
trong quá trình cụ thể mà quyết định được ban hành. Điều đó có nghĩa là nếu một
đạo luật bị tuyên là vi hiến bởi một quyết định của tịa án, luật đó vẫn có thể áp
dụng ở một nơi khác. Nếu một đạo luật cụ thể bị tuyên vi hiến, nó phải được coi là
mất hiệu lực theo chế độ hủy bỏ (null and void): một đạo luật bị tuyên là vi hiến sẽ
tính từ thời điểm kể từ khi nó được ban hành và nó chưa từng tồn tại trong thực tế.
Tại Hoa Kỳ, hoạt động bảo vệ hiến pháp được áp dụng đối với 3 lĩnh vực
chính: giữa liên bang và các bang, giữa các nhánh quyền lực của chính quyền liên
bang và giữa nhà nước liên bang, các tiểu bang với các cá nhân. Những lĩnh vực
kiểm soát hiến pháp rất rộng, bao gồm các đạo luật của Nghị viện, hiến pháp và
đạo luật của các bang và các hoạt động của chính quyền, cơ quan hành chính và cơ
quan tư pháp. Cơ chế bảo vệ hiến pháp của Hoa Kỳ đã chứng minh tính hiệu quả

trong các nhà nước liên bang.
1.2.2. Mơ hình bảo vệ hiến pháp tập trung
Trong hệ thống tập trung, thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến chỉ được trao
cho một cơ quan nhà nước cụ thể. Đó có thể là một tòa án hiến pháp, một hội đồng
hoặc một thiết chế chuyên trách cụ thể được công khai thành lập tại Hiến pháp và
được tổ chức bên ngoài hệ thống tư pháp thông thường. Hệ thống bảo vệ hiến pháp
tập trung này thường được tìm thấy tại hệ thống dân luật. Thẩm quyền của cơ quan
bảo vệ hiến pháp cũng xuất phát từ nguyên lý về tính tối cao của Hiến pháp và
3


cơng nhận Hiến pháp là đạo luật gốc có giá trị bao trùm đối với các đạo luật khác,
không hành động nào của nhà nước trái với Hiến pháp có thể coi là có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, cơ chế bảo vệ hiến pháp được chấp nhận trong Hiến pháp là
rất khác nhau.
Vì vậy, cơ chế bảo vệ hiến pháp tập trung đã phát triển những phương pháp
khác để kiểm tra các vấn đề hiến pháp (constitutional question). Cụ thể, trong khi
cơ chế bảo vệ hiến pháp phi tập trung thực thi phương pháp “tình cờ” (incidenter)
để khuyến khích các bên cá nhân đề xuất các vấn đề hiến pháp trước các tịa
chun trách thơng thường thì cơ chế bảo vệ hiến pháp tập trung lại thực hiện
phương pháp “lãnh địa” (principaliter) nhấn mạnh việc trình bày các vấn đề hiến
pháp trước những tịa án đặc biệt thơng qua những hành động đặc biệt của các cơ
quan chính phủ.
II. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI MƠ HÌNH TỔ CHỨC BẢO
VỆ HIẾN PHÁP TẠI VIỆT NAM
2.1. Mơ hình bảo hiến ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
Nhà nước pháp quyền là thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, nhà nước
pháp quyền có những ngun lý chung của nhân loại như chủ quyền nhân dân, dân
chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, độc lập của Tòa án và hội nhập quốc
tế… Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy thuộc bản chất nhà nước, vào trình

độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, pháp luật… mà ngồi
cái chung mang tính phổ qt, nhà nước pháp quyền cũng có những nét đặc thù.
Bảo vệ hiến pháp là yếu tố tất yếu đi liền với nhà nước pháp quyền nhưng cơ
chế bảo hiến lại khác nhau ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định sự
cần thiết của cơ chế bảo hiến. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng cũng chỉ rõ
cần có một “cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp”.
Hiến pháp năm 2013 đã quán triệt và thể hiện được phần nào quan điểm đó
của Đảng. Với mơ hình bảo hiến phi tập trung, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều
4


có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Với tư cách là cơ quan tư pháp của Việt Nam,
Tòa án nhân dân chính là cơ quan có trách nhiệm bảo hiến quan trọng. Bài viết
phân tích về trách nhiệm bảo hiến của Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp
năm 2013.
2.2. Bất cập, hạn chế trong cơ chế bảo hiến của Tòa án nhân dân
Qua nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật, bộ luật
được ban hành trên cơ sở và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, từ góc độ cơ
chế bảo hiến của Tịa án nhân dân chúng tơi thấy một số bất cập và hạn chế sau
đây:
Thứ nhất, việc duy trì cơ chế bảo hiến như hiện nay, trong đó cơ quan lập
hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến là thiếu hợp lý và khơng hiệu quả. Bởi vì:
+ Cơ chế này đã không quán triệt được quan điểm của Đảng là “xây dựng cơ
chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong các hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp”. Chỉ có Tịa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp mới có quyền
phán quyết. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, trong các cơ chế bảo hiến phổ biến
hiện nay, dù là tập trung (Tòa án Hiến pháp) hay phi tập trung (Tịa án thường), thì
chức năng bảo hiến vẫn được giao cho Tòa án. Mặc dù là cơ quan bảo hiến chun
biệt nhưng khơng có quyền phán quyết (Hội đồng bảo hiến) cũng dần dần bị thu

hẹp hay chuyển dần sang cơ chế tài phán.
+ Thiếu một cơ chế phát hiện vi phạm Hiến pháp, vì cơ chế bảo hiến khơng
phải được thực hiện trên cơ sở khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc tự
phát hiện vi phạm Hiến pháp qua hoạt động giám sát của chính Quốc hội hoặc
cùng lắm là qua kiến nghị của Tịa án là khơng đủ cho hoạt động bảo hiến;
Thứ hai, ngay trong cơ chế hiến định hiện nay, cơ chế bảo hiến của Tòa án
nhân dân cũng chỉ là những tun ngơn mang tính chính trị, mà chưa có cơ chế
pháp lý rõ ràng. Cụ thể:

5


+ Là cơ quan áp dụng pháp luật, phán xử về các vi phạm pháp luật, các tranh
chấp pháp lý… nhưng Tịa án nhân dân lại khơng được chính thức giao nhiệm vụ
giải thích Hiến pháp, luật;
+ Quyền con người được Hiến pháp ghi nhận và được áp dụng trực tiếp
nhưng với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tịa án nhân dân khơng
được phán quyết về việc vi phạm quyền con người;
2.3. Phương hướng khắc phục hạn chế, bất cập trong cơ chế bảo hiến của Tòa
án nhân dân
– Một là, chức năng bảo hiến phải được giao cho Tòa án. Trong điều kiện
Việt Nam, khi trình độ, năng lực đội ngũ Thẩm phán thường cịn nhiều hạn chế, độ
tin cậy của hệ thống Tòa án trong xã hội chưa cao… thì khơng nên giao cho các
Tòa án thường chức năng bảo hiến. Nên chăng, cần giao chức năng phán quyết về
vi phạm hiến pháp cho một Tịa án Hiến pháp với các thẩm phán có trình độ, bản
lĩnh, kinh nghiệm và có uy tín cao trong xã hội.
– Hai là, giao cho Tòa án nhân dân, nhất là Tòa án nhân dân tối cao nhiệm
vụ giải thích Hiến pháp, luật. Tịa án giải thích Hiến pháp, luật bằng các hình thức
khác nhau, khơng nhất thiết phải bằng một văn bản giải thích như xưa nay chúng ta
thường làm.

Đồng thời, ngồi giải thích luật, Tịa án nhân dân tối cao cần có thẩm quyền
sử dụng các biện pháp khác nhau để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử như phát triển án lệ; tổng kết thực tiễn xét xử, ban hành
văn bản giải đáp vướng mắc, thống nhất nhận thức về luật áp dụng trong xét xử
của các Tòa án nhân dân.
– Ba là, mở rộng thẩm quyền của Tòa án, giao cho Tòa án nhân dân thẩm
quyền phán quyết về mọi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân; đặc biệt là thẩm
quyền xử lý, xử phạt hành chính; thẩm quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với
quyết định cá biệt và hành vi hành chính của tất cả người có thẩm quyền, bao gồm
cả Thủ tướng, các Bộ trưởng…
6


– Bốn là, là chủ thể có quyền độc lập đưa ra các phán quyết cuối cùng để
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
thì khơng có lý do gì hoạt động của Tịa án lại bị kiểm sốt bởi Viện kiểm sát, mà
ngược lại, nên giao cho Tòa án thẩm quyền kiểm sốt, kiểm tra các hoạt động có
thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ và các quyền
lợi hợp pháp của cá nhân, công dân, tổ chức.

7


KẾT LUẬN
Theo đánh giá chung, hệ thống pháp luật XHCN tại Việt Nam có nhiều đặc
điểm gần gũi, tương đồng với các khía cạnh thực định của hệ thống dân luật Cộng
hịa Pháp. Vì vậy, mơ hình tổ chức bảo vệ hiến pháp theo cơ chế tập trung được
đánh giá là khá tương thích và phù hợp đối với các điều kiện chính trị - pháp lý tại
Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là
thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với yêu cầu phối hợp để đảm
bảo tính thống nhất của quyền lực, việc thành lập Hội đồng bảo vệ Hiến pháp với
sự tham gia của Chủ tịch nước, người đứng đầu cơ quan thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp và một số lượng nhất định các đại diện do Quốc hội bầu
sẽ đảm bảo địa vị chính trị - pháp lý quan trọng của tổ chức này, đồng thời cũng
đáp ứng được nhu cầu phân định, điều tiết một cách ổn định, hịa bình và trung lập,
đáp ứng được u cầu phối hợp chặt chẽ các hoạt động trong lao động quyền lực
của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Lê Minh Thông: Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2011, tr. 509.
2. GS.TS. Trần Ngọc Đường: Một số vấn đề về phân cơng, phối hợp và
kiếm sốt quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2011, tr. 471-482.
3. GS.TSKH Đào Trí Úc: Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và việc sửa đổi,
bổ sung các quy định trong Hiến pháp về chế độ chính trị, hồn thiện Nhà nước
pháp quyền và cơ chế phán quyết những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
4. PGS. TS. Lê Minh Thông: Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2011, tr. 509.


9



×